TÙ TRƯỞNG
Tại thành phố Antylopa, tọa lạc trên con sông cũng có tên gọi giống như vậy thuộc bang Texas, mọi người ai cũng vội vã đến xem buổi biểu diễn xiếc. Sự quan tâm của dân chúng quả là lớn lao, bởi vì từ khi thành lập thành phố tới giờ, đây là lần đầu tiên đoàn xiếc bao gồm các vũ nữ, người hát rong và người đi trên dây đến với địa phương. Thành phố mới được xây dựng. Mười lăm năm trước, ở đây không có một ngôi nhà nào, thậm chí cả vùng lân cận cũng không hề có người da trắng nào. Ngược lại ở ngã ba sông, trên chính vị trí mà Antylopa tọa lạc, đã nổi lên trại ấp của người da đỏ gọi là Chiavatta. Đó là thủ phủ của Những Con Rắn Đen, những kẻ một thời từng làm cho bọn Đức sống ở vùng biên giới như người Berlin, Grundenau và Harmonia nếm đòn đau đến nỗi những người lập trang trại tại đó không thể chịu đựng được thêm nữa. Người da đỏ thực ra chỉ bảo vệ “lãnh thổ” của mình, vùng đất mà chính phủ bang Texas đã thừa nhận vĩnh viễn dành cho họ bằng những hiệp ước hết sức long trọng; nhưng điều đó thì có nghĩa lí gì đối với những kẻ thực dân đến từ Berlin, Grundenau hay Harmonia? Một điều chắc chắn là họ đã tước đi của bọn Rắn Đen đất đai, nước uống và không khí, ngược lại, họ mang đến nền văn minh; còn những người da đỏ thì biểu lộ lòng biết ơn theo cách riêng của mình, tức là chọc dao mổ vào đầu họ. Tình trạng đó không thể tiếp tục diễn ra. Vì vậy, trong một đêm trăng, những kẻ lập trang trại ở Berlin, Grundenau và Harmonia đã tập hợp số lượng bốn trăm người và sau khi kêu gọi sự trợ giúp của những người Mehico ở La Ora, đã tấn công vào Chiavatta đang say ngủ. Việc làm tốt đẹp này đã thắng lợi hoàn toàn. Chiavatta bị đốt trụi, dân chúng bất kể tuổi tác và giới tính đều bị chém ngang thân. Chỉ một vài nhóm nhỏ chiến binh lúc đó đi bắt cá là thoát chết. Trong thành phố không còn ai sống sót, chủ yếu là vì thành phố nằm trên ngã ba sông, mà như thường lệ vào mùa xuân, con sông đổ nước tràn ra bao bọc trại ấp bằng một vùng ngập lụt không thể vượt qua. Nhưng cũng chính vị thế ngã ba sông đã làm cho người da đỏ bị thất bại lại làm cho người Đức thích thú. Từ ngã ba sông khó có thể tháo chạy, nhưng lại dễ dàng bảo vệ. Nhờ ý nghĩ này, ngay sau đó từ Berlin, Grundenau và Harmonia đã bắt đầu cuộc di dân đến ngã ba sông. Trong chớp mắt, trên vị trí của Chiavatta hoang dã, một Antylopa văn minh đã ra đời. Trong vòng năm năm, vùng đó đã có hai nghìn cư dân.
Năm thứ sáu, người ta tìm thấy ở phía bên kia ngã ba sông một mỏ bạc lớn và việc khai thác nó đã làm tăng gấp đôi số lượng cư dân của vùng này. Năm thứ bảy, trên cơ sở “đạo luật công chúng xử tại chỗ”, tại quảng trường thành phố, người ta đã treo cổ mười chín chiến binh cuối cùng của thế hệ Những Con Rắn Đen bị bắt ở khu rừng “Người chết” cạnh đó - và cho đến nay, không có gì đứng ra cản trở sự phát triển của Antylopa. Thành phố xuất bản hai tờ Tagblat* và một tờ Montagsrevue*. Đường sắt nối thành phố này với Rio del Norte và San Antonio; tại Opuncia-Gasse mọc lên ba trường học, trong đó có một trường đại học. Trên quảng trường, nơi treo cổ Những Con Rắn Đen cuối cùng, người ta cho ra đời một cơ quan từ thiện. Mỗi Chủ nhật, các mục sư trong nhà thờ đều dạy tình thương yêu đồng loại, sự tôn trọng tài sản của người khác và những đức tính khác cần cho xã hội văn minh. Thậm chí có lần, một diễn giả từ nơi khác đến còn giảng về quyền của các dân tộc tại giáo đường Capitol.
Tagblat : báo hằng ngày bằng tiếng Đức ra đời năm 1923 ở Mĩ (ND).
Montagsrevue : Điểm báo tuần, xuất bản bằng tiếng Đức tại Mĩ (ND).
Những cư dân giàu có hơn nói bóng gió về sự cần thiết phải thành lập trường đại học tổng hợp, mà để làm việc đó thì chính phủ bang phải đầu tư vào. Dân cư thành phố sống rất tốt. Việc buôn bán bạc mới khai thác, cam, lúa đại mạch và rượu vang mang lại cho họ lợi nhuận cực lớn. Họ là những người lương thiện, tuân thủ pháp luật, chăm chỉ cần cù, sống theo phương pháp và béo tốt. Ai về sau đến thăm thành phố Antylopa mười mấy vạn dân, nhìn những thương gia địa phương giàu có, đều không thể nhận ra những chiến binh dữ tợn, những kẻ mà mười lăm năm trước đây đã từng thiêu trụi Chiavatta. Hằng ngày, họ đi đến các cửa hàng, nhà xưởng, văn phòng; tối tối, họ tiêu khiển ở quán bia “Dưới Mặt Trời Vàng” tại phố Rắn Hổ Mang. Khi nghe những giọng nói có phần chậm rãi và phát ra từ cuống họng, những tiếng thét gào: “ Mahlzeit! Mahlzeit! ”*, những giọng lạnh lùng: “ Nun ja wissen Sie, Herr Muller, is das aber moglich? ”*, những tiếng chạm cốc, tiếng của bia, tiếng xèo xèo của bọt bia đổ trên sàn nhà, khi nhìn thấy sự bình yên, sự chậm rãi, khi nhìn lên những khuôn mặt trưởng giả phì nộn, những đôi mắt như mắt cá, có thể tưởng tượng rằng mình đang có mặt ở một quán bia ở Berlin hoặc Munich, chứ không phải ở Chiavatta hoang tàn. Nhưng ở thành phố này, mọi thứ đều ganz gemutlich * và không ai còn nghĩ về sự đổ nát nữa. Tối hôm đó, cư dân đều vội vã đi xem xiếc, một là vì, sau ngày làm việc nặng nhọc thì giải trí là việc vừa hợp lẽ vừa thú vị, hai là, cư dân rất tự hào về việc đoàn xiếc đến thành phố. Ai cũng biết rằng không phải bất kì thành phố nghèo nàn nào cũng được các đoàn xiếc ghé thăm, vì vậy việc toán diễn viên Hon. M. Dean đến đây biểu diễn trong chừng mực nào đó đã khẳng định độ lớn và ý nghĩa của Antylopa. Còn lí do thứ ba, và có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất, đó là sự tò mò của toàn thể mọi người.
Mahlzeit! (nguyên văn tiếng Đức): Chúc ngon miệng! (ND).
Nun ja wissen Sie, Herr Muller, is das aber moglich? (nguyên văn tiếng Đức): Ông biết đấy, ông Muller, đó là điều có thể xảy ra đấy chứ? (ND).
Ganz gemutlich (nguyên văn tiếng Đức): Rất ấm cúng (ND).
Đây, tiết mục thứ hai của chương trình gồm có: “Đi dạo trên dây căng ở độ cao mười lăm bộ so với mặt đất (có dàn nhạc đệm) do nhà điền kinh nổi tiếng Diều Hâu Đỏ, tù trưởng (thủ lĩnh) của Những Con Rắn Đen, dòng dõi cuối cùng của các nhà vua và là người cuối cùng của thế hệ thực hiện: 1. Đi dạo. 2. Những bước nhảy của Antylopa. 3. Điệu nhảy và bài hát của cái chết.” Nếu như nói ở nơi nào “tù trưởng” này có thể gây nên mối quan tâm cao nhất, thì đó chính là Antylopa. Ở quán “Dưới Mặt Trời Vàng”, Hon. M. Dean có kể lại rằng mười lăm năm trước, khi đi ngang qua đây để đến Santo Fe, ông ta đã tìm thấy một người da đỏ già nua sắp chết cùng với cậu bé mười tuổi ở Planos de Tornado. Lão già thật ra là đã chết vì những vết thương và kiệt sức, song trước khi chết, lão đã nói lại rằng cậu bé chính là con trai của “tù trưởng” Những Con Rắn Đen bị giết chết và là người kế vị ông ta.
Đoàn xiếc đã thu nhận đứa bé mồ côi, cùng với thời gian, nó trở thành người nhào lộn số một của đoàn. Hơn nữa, mãi khi đến quán “Dưới Mặt trời vàng”, Hon. M. Dean mới biết rằng Antylopa trước đây chính là Chiavatta - và người đi trên dây nổi tiếng sẽ khoe tài ngay trên mồ mả của tổ tiên. Tin đó đã đưa giám đốc vào tình trạng hứng khởi tuyệt vời, bây giờ ông có thể trông đợi vào một great attraction *, chỉ cần biết cách khai thác hiệu quả. cần hiểu rằng, những kẻ trưởng giả của Antylopa sẽ chen chúc nhau đến xem xiếc, để cho những người vợ và con nhập cư từ nước Đức, những kẻ chưa một lần trong đời nhìn thấy người da đỏ, được trông thấy người cuối cùng của Những Con Rắn Đen và nói: “Hãy nhìn đi, đây là những kẻ mà mười lăm năm trước chúng tôi đã chém ngang thây”. “ Ach , ngài Jeh!” - được nghe tiếng hét khâm phục như vậy từ miệng một anh chàng Almalchen hoặc một chú bé Fryc thì thật sướng tai. Vì vậy ở toàn thành phố, người ta nhắc đi nhắc lại mãi không ngừng: “tù trưởng, tù trưởng!”
Great attraction (nguyên văn tiếng Anh): Sức hấp dẫn lớn lao (ND).
Trẻ em ngay từ sáng sớm đã nhìn qua khe hở của ván che, với nét mặt vừa tò mò vừa sợ sệt, còn bọn choai choai thì sôi nổi hẳn lên do tinh thần chiến đấu lớn hơn, khi từ trường học trở về bước đi dữ tợn, trong khi chính chúng cũng không biết tại sao mình lại làm như vậy. Tám giờ tối. Một đêm tuyệt diệu, mát mẻ, trời đầy sao. Gió từ ngoài thành phố thổi vào mang đến mùi của những cây cam, còn trong thành phố mùi đó hòa lẫn với mùi mật ngọt. Trong rạp xiếc rực lên ánh sáng màu hồng. Những ngọn đuốc tẩm nhựa thông đặt trước cổng chính cháy sáng và bốc khói. Gió nhẹ đung đưa làn khói màu tro và tia lửa chói lòa chiếu rọi vào những đường viền màu đen của các tòa nhà. Đây là chiếc lều gỗ mới dựng, quây tròn, mái nhọn và chiếc cờ đuôi nheo Mĩ trên đỉnh. Trước cổng, đám đông người không thể đi vào bên trong hoặc không có tiền mua vé đang đứng túm tụm, họ ngắm nghía những chiếc xe của đoàn xiếc, và chủ yếu là ngắm nhìn qua tấm màn che bằng vải đay của cánh cửa ra vào lớn, trên đó vẽ trận đánh của người da trắng với bọn da đỏ. Khi tấm màn che hở ra, có thể nhìn thấy ở bên trong, tủ đựng thức ăn được chiếu sáng với hàng trăm chiếc cốc vại thủy tinh đặt trên bàn. Nhưng giờ đây, người ta đang kéo kín tấm màn che lại và đám đông đang bước vào bên trong. Những lối đi trống ở giữa các hàng ghế dài bắt đầu rung lên bước chân người và ngay sau đó, một khối lượng đen thui di chuyển lấp đầy tất cả các lối đi từ trên xuống dưới. Trong rạp xiếc nhìn rõ như ban ngày, vì mặc dù không kịp đưa đường ống dẫn ga đến được chỗ đó, nhưng một chụp đèn vô cùng lớn, bao gồm mười lăm chiếc đèn được lắp vào đã cung cấp cho sân khấu và người xem tia sáng chói ngời. Trong ánh sáng đó có thể nhìn rõ những mái đầu nghiện bia phì nộn, ngửa về phía sau để những chiếc cằm bớt đau, nhìn rõ những khuôn mặt các cô gái trẻ và đẹp tuyệt vời, cặp môi thơ ngây biểu lộ nét ngạc nhiên, cặp mắt hầu như bật ra bên ngoài vì sự tò mò. Dù sao đi nữa, tất cả các khán giả đều có nét mặt tò mò, hài lòng và ngu ngốc, giống như vẻ thường thấy ở công chúng xem xiếc. Giữa âm thanh ồn ào của các cuộc nói chuyện bị những tiếng hét: Frisch Wasser! Frisch Bier! * làm ngắt quãng, mọi người đều nóng lòng chờ đợi giây phút mở màn. Cuối cùng, tiếng chuông cũng vang lên, sáu người giữ ngựa đi giày phát ra ánh sáng và đứng thành hai hàng bên lối đi từ khán đài đến chuồng ngựa. Giữa hàng người đó, một con ngựa không dây cương, không yên hí to và lao qua, phía sau nó là đám mây vải mỏng, dải băng và vải tuyn bay theo. Đó là vũ nữ Lina. Màn trò vui mở đầu với tiếng nhạc. Lina đẹp đến mức khiến cô gái trẻ Mathilde, con gái chủ quán bia ở Opuncia-Gasse, lo lắng khi nhìn thấy cô, phải ghé sát tai chàng trai con ông chủ cửa hàng thực phẩm Floss cùng phố và hỏi nhỏ: “Anh còn yêu cô nữa hay không?” Trong khi đó, con ngựa phi nước đại và thở như đầu máy toa xe, roi da quất lia lịa, những chú hề chạy theo sau vũ nữ kêu lên ầm ĩ và tự đánh vào mặt mình, vũ nữ lao nhanh như tia chớp; những tràng pháo tay nổi lên liên tiếp. Sao lại có màn trình diễn tuyệt vời đến như vậy!
Frisch wasser! Frisch bier! (nguyên văn tiếng Đức): Nước ngọt! Bia! (ND).
Tiết mục số 1 nhanh chóng trôi qua. Tiết mục số 2 bắt đầu. Câu hét: “Tù trưởng! Tù trưởng!” vang lên hết miệng người này đến miệng người kia trong đám khán giả. Không ai còn chú ý đến những chú hề vẫn đang tự đánh vào mặt mình nữa. Giữa những động tác giống như loài khỉ của các chú hề, bọn người giữ ngựa mang vào những chiếc ghế nhào lộn bằng gỗ cao mười mấy bộ và đặt ở hai bên sân khấu. Nhạc thôi không chơi bài Yankee Doodle nữa, mà chơi bài hát đơn ca buồn của thuyền trưởng trong Don Juan , người ta kéo căng dây giữa các ghế nhào lộn. Bỗng nhiên, luồng ánh sáng pháo hoa đỏ chảy tràn xuống lối vào và dội khắp toàn sân khấu ánh hồng rực rỡ. Trong luồng ánh sáng đó xuất hiện tù trưởng đáng sợ, người cuối cùng của Những Con Rắn Đen. Nhưng chuyện gì thế này?... Bước vào không phải là tù trưởng, mà chính là giám đốc đoàn xiếc, Hon. M. Dean. Ông cúi chào công chúng và lên tiếng. Ông hân hạnh được đề nghị “các quan khách độ lượng và đáng kính cùng các quý bà xinh đẹp và không kém phần đáng kính giữ thái độ hết sức bình tĩnh, xin không vỗ tay hoan hô và tuyệt đối giữ im lặng, bởi vì tù trưởng đang vô cùng nổi nóng và còn hoang dại hơn ngày thường”. Những lời nói đó gây ấn tượng không nhỏ - và sự thể thật lạ lùng, chính những công dân danh dự của Antylopa, những kẻ mười lăm năm trước đây đã chém ngang Chiavatta, giờ đây lại cảm thấy một cái gì đó vô cùng khó chịu. Mới giây phút trước, khi vũ nữ xinh đẹp Lina thực hiện những điệu nhảy trên ngựa của mình, họ thích thú đến mức ngồi gần sát bệ cửa sổ, để có thể dễ dàng nhìn thấy mọi thứ, còn giờ đây, họ ngước mắt lên khu vực phía trên rạp với lòng mong đợi nhất định và ngược với quy luật vật lí, họ thấy rằng càng ở dưới thấp càng ngột ngạt.
Liệu gã tù trưởng này có còn nhớ hay không? Rõ ràng là ngay từ những năm còn nhỏ, hắn đã được dạy dỗ trong đoàn xiếc Hon. M. Dean, bao gồm hầu hết là người Đức. Lẽ nào hắn còn chưa quên hết? Chuyện đó có lẽ không thể xảy ra. Môi trường xung quanh và mười lăm năm trong nghề xiếc, biểu diễn nghệ thuật, nhận được những tràng pháo tay phải mang lại ảnh hưởng chứ.
Chiavatta, Chiavatta! Còn bản thân họ, những người Đức kia, cũng không sống trên mảnh đất của mình, họ đang ở cách xa tổ quốc và không nghĩ về nó nhiều hơn điều mà việc làm ăn cho phép. Điều trước tiên cần làm là ăn và uống. Bất kì kẻ trưởng giả nào cũng phải nhớ nằm lòng sự thật này, kể cả người cuối cùng của Những Con Rắn Đen cũng vậy.
Những ý nghĩ đó bỗng nhiên bị một tiếng rít hoang dã vang lên từ chuồng ngựa làm ngắt quãng - và trên sân khấu xuất hiện vị tù trưởng được nóng lòng chờ đợi. Trong rạp xiếc nghe rõ tiếng thầm thì ngắn của đám đông: “Hắn đấy! Hắn đấy!” - và sau đó im lặng. Chỉ có tiếng pháo hoa mà người ta đang thắp bên lối ra vào kêu xì xì. Mọi ánh mắt đều hướng vào vị thủ lĩnh, người giờ đây phải biểu diễn xiếc trên mồ mả tổ tiên. Gã da đỏ đáng được người ta nhìn vào. Có cảm giác hắn tự hào như một ông vua. Áo choàng may bằng lông chồn trắng - biểu tượng của thủ lĩnh - phủ kín thân hình cao lớn và dị dạng đến mức khiến người ta liên tưởng đến con báo gấm chưa được thuần dưỡng. Khuôn mặt như đúc từ đồng, giống đầu chim đại bàng, còn trên khuôn mặt đó lại rực sáng ánh mắt thực sự lạnh lùng của người da đỏ, bình thản, gần như dửng dưng - và thù hận. Bằng đôi mắt ấy, hắn nhìn khắp đám đông, cứ như muốn tìm chọn cho mình vật hi sinh. Hắn được trang bị từ đầu tới chân. Trên đầu hắn phất phơ chùm lông chim, sau dải dây lưng giắt chiếc rìu và con dao mổ, còn trong tay hắn, thay cho chiếc nỏ là sợi thừng dài dùng để giữ thăng bằng khi đi trên dây. Sau khi dừng lại ở giữa sân khấu, đột nhiên hắn thét lên một tiếng hô xung trận. Herr Gott *! Đó là tiếng hét của Những Con Rắn Đen. Những kẻ đã chặt ngang Chiavatta đều nhớ rõ tiếng hú kinh hoàng đó - và điều đáng ngạc nhiên hơn là chính những người cách đây mười lăm năm không hề chùn bước trước hàng nghìn lính chiến hò hét như vậy giờ đây lại toát mồ hôi trước một người. Nhưng kìa, ông giám đốc đang tiến gần đến thủ lĩnh và nói với hắn, như thể muốn xoa dịu và làm hắn bình tĩnh lại. Con thú hoang dã đã kiềm chế lại - lời nói có tác dụng, vì sau giây lát, tù trưởng bắt đầu đung đưa trên dây. Nhìn chằm chằm vào chùm đèn dầu hỏa, hắn bước về phía trước. Sợi dây cong lại dữ dội, đôi lúc hoàn toàn không nhìn thấy nó, và gã da đỏ như treo lơ lửng trên không trung. Hắn như đang leo lên cao, vẫn tiến lên phía trước, lùi lại và tiếp tục đi lên, vừa đi vừa giữ thăng bằng. Hai tay đang dang ra của hắn phủ áo choàng trông giống như đôi cánh chim khổng lồ. Hắn chao đảo!... Hắn ngã mất! - Không! Những tràng pháo tay ngắn, ngắt quãng nổi lên như cơn lốc và im lặng. Khuôn mặt thủ lĩnh càng lúc càng trở nên dữ tợn. Trong con mắt nhìn chằm chằm vào ngọn đèn dầu hỏa của hắn phát ra một tia sáng kinh hoàng. Trong rạp xiếc xuất hiện nỗi bất an, nhưng không ai phá vỡ sự im lặng. Tù trưởng đã tiến gần tới cuối sợi dây - dừng lại - và bỗng nhiên từ miệng hắn vang lên một bài hát chiến tranh.
Herr Gott (nguyên văn tiếng Đức): Chúa ơi (ND).
Chuyện đặc biệt! Thủ lĩnh hát bằng tiếng Đức. Nhưng điều đó cũng dễ hiểu. Chắc hắn đã quên tiếng của Những Con Rắn Đen. Dù sao thì cũng không ai chú ý đến điều đó. Mọi người đều lắng nghe, tiếng hát mỗi lúc một to và mạnh hơn. Đó là nửa bài hát, nửa tiếng gọi nào đó vô cùng thảm thương, hoang dã và khô khốc, đầy tính dã thú.
Hãy nghe những lời sau:
Sau những cơn mưa lớn, mỗi năm có năm trăm chiến binh ra đi từ Chiavatta trên các con đường mòn của chiến tranh hoặc đi vào đợt săn bắt lớn mùa xuân. Khi họ trở về từ chiến tranh, những con dao mổ của họ sáng ngời lấp lánh; khi họ trở về từ các cuộc đánh bắt, họ mang về thịt và da trâu, còn những người vợ vui mừng chào đón họ và nhảy múa tưng bừng trước Linh Hồn Vĩ Đại.
Chiavatta thật hạnh phúc! Đám đàn bà làm việc ở những chiếc chòi làm bằng da thú, trẻ em lớn lên thành những cô gái đẹp và các chiến binh dũng cảm. Những chiến binh chết trên chiến trường và leo lên những ngọn núi bạc đi săn bắt với tinh thần của cha ông. Những chiếc rìu của họ không bao giờ dính máu đàn bà và con trẻ, vì những chiến binh Chiavatta là những người chồng cao thượng. Chiavatta rất hùng cường. Cho đến lúc những khuôn mặt da trắng từ bên kia đại dương xa tít kéo đến và quăng lửa vào Chiavatta. Những chiến binh da trắng không khuất phục được Những Con Rắn Đen trong trận đánh, song giữa đêm họ lẻn vào giống như những con chó sói và dao của họ đã đâm vào giữa ngực những người chồng, người vợ và trẻ con đang ngủ.
Và thế là không còn Chiavatta nữa, trên vị trí ấy, bọn da trắng đã dựng lên những ngôi nhà bằng đá của mình. Thế hệ người da đỏ bị giết hại và Chiavatta bị tàn phá đang lên tiếng kêu gọi trả thù.”
Giọng nói của thủ lĩnh trở nên khàn khàn. Giờ đây, khi treo mình trên sợi dây này, trông hắn giống như thiên thần thù hận đỏ thắm đang bay lơ lửng trên đầu đám đông. Chính giám đốc rõ ràng cũng đang tỏ ra bối rối. Trong rạp xiếc ngự trị tình trạng câm lặng chết người. Thủ lĩnh tiếp tục hét:
“Trong toàn thế hệ chỉ còn lại một đứa trẻ sống sót. Nó nhỏ bé và yếu ớt, nhưng nó đã thề với Thần Đất là sẽ trả thù. Rằng nó sẽ được nhìn xác bọn đàn ông, đàn bà, trẻ con da trắng - các đám cháy và máu!...”
Những lời nói cuối cùng biến thành tiếng rống căm hờn. Khắp rạp xiếc bắt đầu nổi lên tiếng thì thầm giống như tiếng gió bất chợt của cơn giông. Hàng nghìn câu hỏi không có câu trả lời thi nhau trỗi dậy trong đầu mọi người. Con hổ điên khùng này sẽ làm gì? Hắn tuyên bố cái gì? Hắn trả thù như thế nào? Hắn ư? Một mình hắn? Nán lại đây hay bỏ chạy? Liệu có nên tự vệ hay không? Và tự vệ thế nào? - Was ist das? Was ist das? * - Những giọng nói sợ hãi của đám đàn bà vang lên.
Was ist das? (nguyên văn tiếng Đức): Cái gì xảy ra thế này? (ND).
Bỗng nhiên, tiếng hét thú vật từ ngực thủ lĩnh bị ngắt quãng, hắn lung lay mạnh, nhảy xuống chiếc ghế gỗ đặt cạnh chùm đèn và nâng cái sào lên. Một ý nghĩ khủng khiếp bay nhanh như tia chớp trên đầu: hắn sẽ đập vỡ cái giá đèn và làm rạp xiếc ngập tràn dầu hỏa đang cháy. Một tiếng hét to vang lên bật ra từ ngực người xem. Nhưng cái gì nữa đây? Từ sân khấu vang lên tiếng hô: “Đứng lại! Đứng lại!...” Không thấy thủ lĩnh! Hắn đã nhảy ra, mất hút trên lối ra vào. Hắn không đốt rạp đấy chứ? Hắn đang ở chỗ nào? Đây rồi, hắn lại đi ra, hắn lại đi ra, thở không ra hơi, mệt mỏi, khủng khiếp. Trong tay ôm một chiếc đĩa sắt tây và vừa chìa nó ra phía người xem vừa nói bằng giọng cầu xin: Was gefallig fur den letzten der Schwarzen Schlangen! *... Tảng đá từ ngực khán giả rơi xuống đất. Vậy là mọi thứ đều có trong chương trình, vậy đây là ngón nghề của ông giám đốc ư? Hiệu quả? Những đồng nửa đô la và một đô la rơi xuống tới tấp. Ai lại nỡ từ chối người cuối cùng của Những Con Rắn Đen chứ - ở tại chính Antylopa này, trên nền đổ vỡ của Chiavatta? Mọi người đều có trái tim.
Was gefallig fur den letzten der Schwarzen Schlangen (nguyên văn tiếng Đức): Xin bố thí chút ân huệ cho người cuối cùng của Những Con Rắn Đen (ND).
Sau buổi diễn, tù trưởng uống bia và ăn bánh bột nhân thịt ở quán “Dưới Mặt Trời Vàng”. Môi trường xung quanh rõ ràng đã gây ảnh hưởng. Hắn trở nên nổi tiếng ở Antylopa, đặc biệt đối với đám phụ nữ. Người ta thậm chí còn đưa chuyện đơm đặt...