← Quay lại trang sách

HỒI ỨC TỪ MARIPOZA

Tôi đến Maripoza trong thời gian rất ngắn, giống như chỉ lướt qua và cũng chỉ thăm thú qua loa vùng lân cận. Nhưng có lẽ tôi sẽ dừng lại lâu hơn ở thành phố và cả ở địa hạt này nữa, nếu như biết rằng cách thành phố chỉ mười mấy dặm, nguyên mẫu Người gác đèn biển của tôi đang cư trú trong một khu rừng. Cách đây không lâu, ông M., người đã có mặt ở California đồng thời với tôi, sau khi đọc Người gác đèn biển , đã kể cho tôi nghe về cuộc gặp gỡ với một người Ba Lan chiếm đất công để ở giống hệt như nhân vật kia. Tôi xin kể lại câu chuyện đó một cách trung thực như sau.

... Trên đường đến Big Trees, tức là đến với rừng gỗ khổng lồ của California, tôi đã ghé vào Maripoza. Thành phố đó cách đây không lâu có tới gần mười lăm ngàn dân, hiện nay chỉ còn một phần mười số lượng đó. Ai cũng biết rằng trong Thế Giới Mới, các thành phố mọc lên nhiều như nấm, song nó cũng thường có đời sống của loài bướm. Chuyện đó cũng xảy ra cả với Maripoza. Cho đến khi con sông Maripoza ánh lên đáy vàng, còn trên bờ sông lắng đọng những khối kim loại quý màu xanh biếc thì đám thợ mỏ người Mĩ, bọn mafia người Mehico và con buôn từ khắp thế giới kéo đến đông nhung nhúc, về sau, toàn bộ đám người đó đều đã bỏ đi. Thành phố “vàng” không bền vững, do số lượng vàng không chóng thì chày phải cạn kiệt. Ngày nay, Maripoza có khoảng một ngàn dân, còn hai bờ sông Maripoza thì đã phủ đầy những hàng liễu rủ, cây bông và những bụi cây rậm rạp khác. Ở những nơi mà ngày xưa thợ mỏ mỗi tối thường hát: I crossed Mississippi *, nay có chó sói réo gào. Thành phố có một đường phố, trên đó ngôi nhà đẹp nhất là trường học; vị trí tiếp theo là thánh đường Capitol, xếp thứ ba là khách sạn của ông Billing, người đồng thời cũng là chủ nhân cả quán rượu và xưởng bánh mì. Vài cửa hàng khác có trưng bày hàng dọc phố. Nhưng việc buôn bán rất hạn chế. Các cửa hàng chỉ cung cấp hàng hóa phục vụ nhu cầu của thành phố, do ở vùng lân cận không có nhiều chủ trang trại. Toàn địa hạt có rất ít dân cư, phần lớn diện tích là các cánh rừng khổng lồ, trong đó thỉnh thoảng xuất hiện những kẻ chiếm đất công để cư ngụ.

I crossed Mississippi (nguyên văn tiếng Anh): Tôi đã vượt qua Mississippi (ND).

Khi xe ngựa của chúng tôi đi vào thành phố thì trong đó có rất đông người, bởi lẽ chúng tôi đến vào thứ Sáu, mà đó lại là ngày chợ phiên. Ngày hôm đó, những kẻ chiếm đất công để ở mang mật ong đến quán rượu đổi lấy các loại hàng thực phẩm khác nhau. Những người khác xua đàn gia súc đến, còn các chủ trang trại thì cung cấp lúa mì. Mặc dù người di cư đến Maripoza rất ít, chỉ có vài xe của dân di cư, nhưng cũng rất dễ nhận ra họ nhờ vào những chiếc mái xe màu trắng cao lênh khênh và nhờ vào việc thường có một con chó, con thú ăn thịt hoặc con gấu nhỏ được xích vào giữa các bánh xe. Dòng người đi lại phía trước khách sạn rất thưa thớt, song ông chủ khách sạn, ngài Billing, vẫn không ngừng lượn lờ khắp nơi khắp chốn, vừa đi vừa mang rượu gin, whisky và brandy ra phân phát. Vừa thoáng nhìn, ông ta đã nhận ngay ra tôi là người nước ngoài đến Big Trees, và vì những khách du lịch ấy là khách hàng quan trọng nhất của ông, cho nên ông đã dành cho tôi sự chăm sóc đặc biệt.

Đó là một người không còn trẻ nữa, nhưng nhanh nhẹn và sống động như một tia lửa. Qua những cử động của ông ta, cũng như qua khuôn mặt, có thể dễ dàng nhận biết rằng ông không phải là người Phổ. Với thái độ hết sức lễ phép, ông chỉ cho tôi căn phòng của mình. Ông giải thích rằng đã quá giờ ăn sáng, nhưng nếu như tôi có nguyện vọng thì ngay lập tức người ta sẽ cho tôi ăn trong phòng ăn.

- Ngài chắc đến từ San Francisco?

- Ồ, không. Tôi đến từ một nơi rất xa.

- All right! Chắc là đến từ Big Trees?

- Vâng, đúng vậy.

- Nếu như ngài muốn xem ảnh các cây cối thì nó được treo ở dưới nhà.

- Tốt quá, chốc nữa tôi sẽ xuống.

- Ngài ở Maripoza có lâu không?

- Vài ngày. Tôi cần nghỉ ngơi, nhân thể tôi cũng muốn xem qua các cánh rừng trong vùng.

- Ở đây đi săn thì tuyệt. Cách đây không lâu người ta đã giết được một con báo.

- Tốt quá, tốt quá. Giờ thì tôi sẽ đi ngủ đã.

- Good bye! Ở nhà dưới có quyển sổ của khách sạn, xin ngài ghi họ tên mình vào đó cho.

- Được rồi...

Tôi đặt mình xuống ngủ cho đến tận bữa trưa, người ta báo hiệu điều đó bằng cách gõ gậy gỗ vào tấm sắt tây ở mái nhà. Tôi đi xuống dưới và trước hết là ghi họ tên mình vào cuốn sổ, đồng thời không quên ghi thêm bên cạnh là đến từ Ba Lan. Sau đó tôi đến phòng ăn. Chợ phiên đã kết thúc, người buôn bán tản đi về nhà, bữa trưa chỉ còn có vài người ngồi vào bàn: hai gia đình chủ trang trại, một quý ngài chột mắt và không cà vạt, một nữ giáo viên người địa phương, chắc là người thường xuyên trú ngụ ở khách sạn, và một ông già, qua cách ăn mặc và vũ khí, tôi có thể khẳng định đó là một người chiếm đất công để ở. Chúng tôi ăn trong im lặng, thỉnh thoảng mới bị những lời nói ngắn làm ngắt quãng: “Cảm ơn ông vì đã đưa bánh mì” hoặc “vì miếng bơ”, hoặc “vì muối”. Bằng cách đó, người ngồi xa chỗ để bánh mì, bơ hoặc muối đề nghị những người láng giềng chuyển các thứ đó đến gần mình. Tôi hơi mệt và không muốn nói chuyện. Tuy vậy, tôi đã ngắm nghía khắp căn phòng, trên tường, như ông Billing nói, có treo những bức ảnh các cây gỗ lớn. Vậy là Father of the Forest , tức là cha đẻ của rừng cây đã bị đốn xuống. Nhưng nó không thể mang nổi 4.000 năm tuổi trên lưng.

Độ dài: 450 bộ, chu vi 112. Một người cha đẹp! Không thể tin ở mắt mình và hàng chữ ghi ở dưới. Một gã đầu bạc khổng lồ: đường kính 15 khuỷu tay. Ôi, thậm chí đến người Do Thái của chúng ta cũng phải suy ngẫm, nếu như người ta ra lệnh chặt cây như vậy đưa về Gdansk. Tâm hồn tôi nhảy cẫng lên vì vui sướng khi nghĩ rằng sắp sửa được nhìn tận mắt nhóm cây như vậy trong thiên nhiên, chứ không phải những cái tháp khổng lồ đứng đơn độc trong rừng... trước nạn đại hồng thủy. Tôi, một người Warszawa, sẽ được nhìn thấy bằng chính mắt mình “người cha” của rừng, được chạm tay vào lớp vỏ của nó, và có thể tôi sẽ mang một mẩu của nó về Warszawa để chứng minh cho những kẻ hoài nghi, rằng tôi thật sự đã có mặt ở California. Con người, khi lầm lỗi như vậy, chính bản thân cũng cảm thấy kì lạ và vô tình vui sướng với ý nghĩ mình sẽ kể như thế nào khi trở về và những kẻ hoài nghi ở địa phương sẽ không tin mình ra sao, rằng trên thế giới này có những cây gỗ chu vi tới năm mươi sáu khuỷu tay. Những ý nghĩ đó bị giọng nói của một người da đen làm ngắt quãng:

- Cà phê đen? Trắng?

- Đen, giống như ông ấy. - Tôi muốn trả lời như vậy, nhưng câu đáp đó không chính xác, vì ông già da đen đó có chỏm đầu trắng như sữa, chỉ có đôi chân là khập khễnh già nua.

Bữa trưa kết thúc. Mọi người đều đứng dậy. Ông chủ trang trại phì phèo tẩu thuốc, bà vợ, sau khi ngồi xuống mép ghế tựa, bắt đầu lên tiếng ba hoa một cách say sưa, còn cô con gái có mái tóc vàng nhạt, mũ mào Polly hoặc Katty, thì đi đến chỗ cây đàn dương cầm và sau giây lát, tôi nghe thấy khúc hát:

- Yankee Doodle is going down town... *

Yankee Doodle is going down town... (nguyên văn tiếng Anh): Yankee Doodle đi vào thành phố. Lời bài hát từ thế kỉ XVIII nổi tiếng trong cuộc chiến tranh ở Mĩ (ND).

“Đừng bắt tôi làm Yankee Doodle!” Tôi thầm nghĩ. Từ New York đến Maripoza tôi đã nghe bài hát này từ các cô gái trẻ chơi đàn dương cầm, những người lính chơi kèn đồng, những người da đen chơi trống, trẻ em chơi trên những đốt xương bò. Tôi còn quên! Ngay cả trên tàu thủy, bài Yankee Doodle vẫn theo đuổi tra tấn tôi. Cùng với thời gian ở Mĩ chắc chắn sẽ xuất hiện căn bệnh “ Yankee - Doodle - kinh hãi! ”.

Tôi châm điếu xì gà và bước ra ngoài phố. Bóng tối nhá nhem bao phủ không gian. Các cỗ xe tản đi mỗi nơi một chiếc, người di cư cũng vậy. Trời lặng lẽ và êm dịu tuyệt vời. Phương tây đỏ rực ánh hoàng hôn, phương đông trời dần tối. Tôi cảm thấy vui vẻ và dễ chịu. Cuộc sống đối với tôi trở nên hết sức thú vị, nhẹ nhàng, tự do. Từ các vườn cây bên cạnh những ngôi nhà vẳng đưa đến bên tôi tiếng hát, đôi chỗ giữa các bụi cây chập chờn chiếc váy trắng, đôi chỗ lấp lánh cặp mắt sáng ngời. Sao buổi tối lại tuyệt vời đến vậy! Chỉ tiếc một điều là ở Mĩ, người dân có thói quen đốt rác trên phố vào buổi tối. Mùi khói hoàn toàn không cần thiết khi trộn lẫn với mùi hoa hồng và mùi tươi mát của các cánh rừng gần đó. Thỉnh thoảng, từ các cánh đồng và bụi rậm nằm kề với thành phố vẳng đưa đến tiếng súng nổ, vì hầu như toàn bộ dân cư Maripoza đều là thợ săn; hơn nữa sự đi lại cũng đã ngừng hẳn, các đống rác đã tàn. Trên phố, tôi gặp vài người và tôi không biết, liệu vô tình khí sắc của tôi có mang đến cho những người khác ảnh hưởng gì không, song giữa ánh hoàng hôn, tất cả các gương mặt kia hình như đều tỏ ra hài lòng, bình thản và hạnh phúc một cách kì lạ.

“Có thể là như vậy,” tôi thầm nghĩ. “Ở đây người ta sống lặng lẽ, bình yên và hạnh phúc, sống trong một góc không ai biết đến, xa thẳm giữa rừng, sống bên lề thế giới. Cũng có thể là ở Mĩ, xứ sở tự do, tâm hồn tỏa sáng và chiếu ánh dịu dàng như loài đom đóm. Ở đây không có đói khát, và không lạnh lẽo, và không gian đủ lớn, có chỗ để nới lỏng mình, có chỗ để vung tay ra... Trong khi đó, các cánh rừng lại yên bình như vậy, ôi! Thật yên bình làm sao!...”

Vài người da đen đi ngược với tôi lên tiếng hát bằng giọng khá cao; cũng may đó không phải là Yankee Doodle , mà là Những sợi chỉ bạc .

- Chào ngài. - Họ lịch thiệp lên tiếng khi đi ngang qua tôi.

Và con người ở đây sao nhiệt thành, lễ độ đến như vậy. Chắc chắn là khi tuổi già đến, tôi sẽ nghĩ không chỉ một lần tới mảnh đất Maripoza yên tĩnh này. Từ trên cao đưa đến tai tôi tiếng hạc gáy kéo dài mãi tới tận đâu đó gần Đại Tây Dương. Tôi chòng chành và tôi mơ ước. Một sự tích tụ cảm giác thật kì lạ, tôi trở về khách sạn với cảm giác mủi lòng và nhớ nhung. Tôi bắt đầu nghĩ về gia đình, về những người thân của mình và cũng bắt đầu lên tiếng hát, nhưng không phải là bài Yankee Doodle . Ồ, không! Tôi hát bài “Ở chỗ chúng tôi khác cơ! Khác cơ! Khác cơ!”...

- Cốc, cốc, cốc!

“Lạ quá, ai có thể đến nhỉ?” Tôi nghĩ.

- Cốc! Cốc!

- Mời vào.

Ông chủ khách sạn bước vào. Thật là quỷ quái! Sao lại có đất nước kì lạ như vậy! Và ông ta có nét mặt hoàn toàn vô cảm. Ông đi đến gần tôi, bắt tay tôi thật chặt và không buông tay tôi ra, rồi đi cách tôi một sải tay và nhìn chằm chằm như muốn ban phước lành cho tôi.

Tôi mở miệng và sự ngạc nhiên của tôi bằng với sự mủi lòng của ông ta.

- Tôi nhìn thấy trong sổ của khách sạn, - ông nói - ngài đến từ Ba Lan à?

- Đúng như vậy. Thế ông cũng là người Ba Lan ư?

- Ồ không, tôi là người Baden.

- Thế thì ông đã từng đến Ba Lan rồi à?

- Ồ không! Chưa bao giờ...

- Vậy thì?...

Mắt tôi mở to ngang với miệng...

- Thưa ngài, - chủ khách sạn nói - tôi đã từng phục vụ ở đơn vị Mieroslawski.

- Quỷ tha ma bắt chuyện đó!

- Đó là một anh hùng! Đó là vị lãnh tụ lớn nhất trên thế giới! Tôi thật hạnh phúc khi nhìn thấy ngài... Ông ấy vẫn còn sống chứ ạ?

- Không, đã mất rồi.

- Mất rồi! - Gã người Đức nói và ngồi phịch xuống nặng nề, buông tay xuống ngang đầu gối, còn đầu gục xuống ngực.

Chính tôi cũng không biết mình phải làm gì. Tôi đã không chia sẻ niềm hưng phấn với ông Billing về ông M., nhưng trong giây phút này, sự nhiệt tình đó đối với tôi quả là đáng yêu và kích động. Trong khi đó, ông Billing chiến thắng nỗi buồn của mình và sự yêu mến của ông ta đối với ông M. tuôn trào như thác nước nhiều tầng, mà so với nó thì Niagara hoặc Yosemita Falls cũng chẳng thấm tháp gì. Đập vào tai tôi là tên một vài anh hùng thời cổ đại, vài người thời trung đại, tiếp theo là Washington, Lafayett, Kosciuszko và Mieroslawski; sau đó là các từ ngữ như “tự do”, “tiến bộ”, “văn minh” tôi nghe hàng trăm lần, hàng nghìn lần. Vị tướng quân hùng biện rõ ràng cũng phải có những binh sĩ hùng biện.

- Đó là một con người lí tưởng! - Cuối cùng, ông chủ khách sạn của tôi hét lên.

“Ông ta có là người lí tưởng hay không, chuyện đó chẳng quan trọng!” Tôi thầm nghĩ. “Nhưng sự thật là, anh, một người Đức tích cực, nếu như anh có trong mình cái gì đó là lí tưởng, thì đúng là cơ hội trùng phùng kì lạ, anh đang chịu ơn một người Ba Lan. Nếu như không có ông ta, vậy thì, nếu như không có chúng tôi, thì ý nghĩ của anh có lẽ sẽ không bao giờ bay lên cao hơn đồng đô la, business và lợi nhuận khách sạn của mình. Anh sẽ chỉ bắt được những khách du lịch tham lam đi đến Big Trees và chỉ nhảy tỡn quanh họ, giống như đã nhảy quanh tôi lúc trước, còn giờ đây thì một tinh thần cao thượng đang thổi qua anh giống như thổi qua những ống kèn của chiếc đại phong cầm - và anh đang phát ra những lời nói, thứ đã trở nên chua loét như vại bia cũ ở châu Âu, song vẫn đang là những thứ cao thượng nhất mà cái lưỡi con người có thể phát ra. Ở châu Âu già nua có lẽ chỉ còn một góc duy nhất, nơi người ta vẫn còn tiếp nhận những lời nói đó một cách nghiêm túc và đôi khi lên tiếng quở trách với nước mắt đầm đìa, và đôi khi với cả nỗi đau, rằng những người khác miệt thị những kho báu đó hoặc huýt sáo dè bỉu nó giống như dè bỉu những trái cây bị thủng lỗ. Nhưng thật khó nói... Và cả về cái góc nhỏ nọ đôi khi cũng... khó nói đến - ôi, sao lại khó nói như vậy! Sao lại có một người Đức chính trực như thế; hắn ta không cảm kích bất cứ thứ gì trước Sadova hay Sedan, hắn chỉ nhắc đến M. và vùng đất Baden của mình. Sao lại có người Đức chính trực đến như vậy! Địa chỉ của hắn: Khách sạn Billing, California, địa hạt Maripoza. cần phải ghi lại địa chỉ của người Đức này. cần đi đến tận Maripoza để gặp được hắn!”

All right!

Trong khi đó thì hắn nhắc đi nhắc lại: “Ôi cái ông M... ấy!” và hắn lau mắt, rõ ràng lau nước mắt. Một tâm hồn vàng!

- Tôi thật hân hạnh vì đã gặp ngài, tôi muốn uống một chút whisky pha gừng. - Hắn nói với tôi.

Hắn xiết chặt bàn tay tôi, xiết chặt thêm lần thứ hai, lần thứ ba và chuẩn bị bước ra cửa. Ở cạnh cửa ra vào, hắn lấy tay đập vào trán mạnh đến mức phát ra tiếng kêu đen đét.

- Ôi! - Hắn nói - Suýt nữa thì tôi quên mất! Ở đây có một người đồng hương của ngài.

- Ở Maripoza này?

- Không, ông ta sống ở trong rừng. Nhưng thứ Sáu, ông vẫn đến chợ phiên, có mang theo mật ong và ngủ lại một đêm. Một ông già. Người rất tốt, rất tốt! Ông ta đã ở đây có lẽ đến hai chục năm rồi. Khi ông ta đến đây thì ở chỗ này còn chưa có một ai. Ngày mai tôi sẽ dẫn ông ta đến gặp ngài.

- Tên ông ta là gì?

Gã người Đức đứng lại và gõ gõ lên đầu, giống như một anh chàng Bartek người Ba Lan nào đó.

- Ôi! I don’t know! Tôi không biết! - Hắn nói - Một cái gì đó rất khó.

Ngày hôm sau tôi vừa mới thức dậy, còn chưa đến giờ ăn sáng, gã người Đức của tôi đã dẫn đến cho tôi người đồng hương.

Nhìn ông, tôi nhận ra ngay đó là ông già mà ngày hôm qua đã ăn bữa trưa cùng tôi.

Đó là một người cao, thậm chí rất cao, nhưng lưng đã còng lắm rồi. Ông có mái đầu trắng phau, bộ râu trắng và đôi mắt màu da trời, ánh mắt ngay lập tức hướng vào tôi với một thái độ ngoan cố kì lạ.

- Tôi để hai ngài một mình ngồi với nhau. - Gã người Đức lên tiếng.

Lúc đó, chúng tôi ở lại một mình với nhau và nhìn vào nhau một lúc lâu trong im lặng. Thực ra là tôi cảm thấy lúng túng khi ông già ấy hiện ra trước mắt mình, người khiến tôi liên tưởng tới một gã Wernyhory nào đó hơn là người đồng hương thông thường.

- Tôi tên là Putrament. - Ông già lên tiếng - Họ tên tôi ông nghe thấy lạ lắm thì phải?

- Họ của tôi là M. - Tôi đáp - Họ ông tôi đã nghe nhiều lần. Hình như ông ở Litva?

Tôi chợt nhớ đến Chàng Tadeush , một cái gì đó đại loại “Putrament với Pikturna” trong chuyện kể của nhân vật Protazy về các vụ kiện.

Ông già đưa tay lên ngang tai.

- Cái gì? - Ông nói.

- Theo tôi chắc ông ở Litva?

- Ông nói to lên, tuổi già làm tai tôi hỏng và tuổi già của tôi là sự điếc lác. - Ông Putramen trả lời.

“Không biết ông ta đang chế nhạo mình hay mình là người ngu ngốc đây.” Tôi thầm nghĩ, “nhưng ông già này nói cái gì đó theo ngôn ngữ thời tổ tiên. Một cái gì đó thật kì dị tôi gặp ở Maripoza này!”

- Ông đã rời khỏi đất nước lâu rồi à? - Tôi hỏi.

- Tôi sống ở đây hai mươi hai năm và thực ra ông là người đầu tiên mà tôi gặp từ trong nước mình sang, vì thế trái tim tôi rung động và tâm hồn tôi vui sướng đến như vậy.

Quả thực ông già nói bằng giọng run run và tỏ ra vô cùng xúc động, về phần tôi, tôi chỉ thấy ngạc nhiên. Tôi không ngồi trong rừng hai mươi năm, người Ba Lan thì tôi mới nhìn thấy cách đây không lâu ở San Francisco và tôi không có cớ gì để mủi lòng. Ngược lại, tôi còn muốn hét to: kiểu cách gì như vậy! Giá như có người nói với tôi suốt ngày như vậy thì chắc là tôi sẽ khóc rống lên... Brr!... Trong khi đó, ông già cứ nhìn vào tôi chằm chằm và đầu óc của ông ta hình như đang làm việc một cách cần mẫn. Vài lần giống như muốn nói lại thôi. Rõ ràng là chính ông ta cảm thấy rằng mình không biểu hiện giống như một người bình thường khác. Dù sao đi nữa ông nói rất chuẩn xác, nhưng hơi khó khăn.

- Ở vùng đất xa xôi lưỡi của tôi co lại và môi tôi cũng bị bó lại...

“Quả là đúng, song đó không phải là tội lỗi!” Tôi nghĩ.

Nhưng niềm vui rời bỏ tôi. Tôi thấy hơi khó chịu và cảm thấy lương tâm cắn rứt. “Kệ ông ta, ông già đó cứ nói,” tôi nghĩ, “nhưng ông ta nói với niềm rung động, với nỗi buồn thật sâu lắng và nói một cách chân thành, còn tôi thì giống như đang cười nhạo ông.”

Và bất ngờ tôi giơ hai tay về phía ông. Ông nắm lấy chúng và ghì chặt vào ngực mình, vừa ghì vừa nhắc lại:

- Đồng hương! Đồng hương!

Tình cảm rung động trong giọng ông đến mức ngay lập tức chiếm lĩnh trái tim tôi.

Tôi có cảm giác mình đang đứng trước một sự bí ẩn kì lạ, thậm chí rất đau buồn. Tôi bắt đầu nhìn vào ông ta giống như nhìn vào người cha già. Tôi trịnh trọng đặt ông ngồi trên ghế tựa và tự mình ngồi xuống bên cạnh ông. Ông vẫn tiếp tục nhìn tôi.

- Chuyện gì xảy ra trên quê hương chúng ta? - Ông hỏi.

Tôi thả lỏng lưỡi mình như chiếc guồng quay tơ, cố gắng nói thật to và rõ ràng. Cứ như vậy tôi nói khoảng nửa tiếng đồng hồ và cùng với những lời nói của tôi, chiếc đầu đáng kính của ông cứ gật gật buồn rầu - hoặc nụ cười hiện lên trên môi ông. Một lần ông nhắc lại câu của Galileusz* và thường xuyên đặt những câu hỏi cho tôi, luôn bằng giọng quan trọng, kì lạ và với kiểu cách tôi không thể lí giải nổi.

Tức Galileo Galilei, viết theo tiếng Ba Lan (Caruri).

Tất cả mọi điều tôi kể cho ông nghe đều khiến ông đặc biệt quan tâm. Toàn bộ tâm hồn ông đều quy tụ tại đôi mắt và cái miệng, sống đơn độc trong rừng, có lẽ suốt ngày dài ông chỉ nghĩ đến những điều từ miệng tôi nói ra bây giờ.

Ôi ông già kì lạ, ôi giống người kì lạ, ở tận góc xa tít tận cùng của thế giới, ngươi vẫn mang theo mình một ý nghĩ và một tình cảm! Ngươi sống trong những cánh rừng, trên sa mạc và trên biển khơi - ngươi nâng thân xác mình lên cao, còn tâm hồn ngươi không biết tách ra - và ngươi đi lại như kẻ lạc đường giữa những con người khác! Nhưng giống người này sẽ dần dần chết đi. Tôi đang kể cho các bạn nghe về một trong những người cuối cùng như vậy.

Câu chuyện có vẻ như bịa đặt, tuy vậy, lại là sự thật hoàn toàn. Putrament có thể đang còn sống trong khu rừng của mình, ở gần Maripoza. Từ câu chuyện của ông ta, tôi biết những điều sau: Ông từng là người nuôi ong, giống như phần lớn những kẻ chiếm đất công để ở. Ông không phải người quá nghèo. Đàn ong cung cấp cho ông đủ sống. Khi già yếu, ông tuyển một người giúp việc, một gã da đỏ nhỏ tuổi, giúp chăm nom chỗ nuôi ong. Ông nói từ trước đến nay vẫn hằng ngày đi săn một mình. Thú vật ở gần Maripoza này rất nhiều: hươu, sơn dương và chim chóc các loại thì nhiều vô kể.

Gấu thì ít hơn nhiều. Hẻm núi của ông là mảnh đất đẹp nhất vùng. Cạnh nhà là một thác nước tuyệt vời do vô số bậc thác tạo nên - dù sao đi nữa thì các tảng đá và núi, và trên đó là rừng và rừng vô tận... Lặng lẽ, yên tĩnh... Ông mời tôi rất nhiệt tình, mong tôi đến thăm ông, nhưng tôi phải chờ cho đến thứ Sáu sau mới quay lại, vì vậy thật tiếc là tôi không thể nhận lời mời. Ông nói liên tục, giống như một cụ Abram hoặc Jakub... Những từ như “Ái dà dà”, “nghiệt”, “gián”, “kham”, “loạn thường”*... cứ lặp đi lặp lại trong miệng ông. Đôi lúc tôi cảm thấy rằng đang đứng trước mặt mình là một người nào đó xuất hiện từ thời Gornicki hoặc Skarga, kẻ từ dưới đất chui lên đến Maripoza này và tái sinh ở nơi đây hoặc đã sống từ những thời xa lắc đó, già nua như rừng cây Big Trees cạnh đó. Ngoài kiểu nói cổ lỗ ấy ra, trong cách nói của ông còn có một cái gì đó trịnh trọng kì lạ, dựa trên quá trình thể hiện các câu nói, sự dài dòng rối rắm, những định nghĩa đặc biệt. Cuối cùng tôi quyết định hỏi để giải đáp thắc mắc.

Đây là những từ Việt cổ do dịch giả đưa vào thay các từ mà tác giả dùng (ND).

- Hãy nói cho tôi biết, thưa ông, từ đâu ông có cách nói này? Đó là thứ ngôn ngữ không phải của ngày nay, mà là ngôn ngữ cổ, thứ mà người ta không còn dùng ở Ba Lan nữa.

Ông nở nụ cười.

- Tôi có một quyển sách ở trong nhà: Kinh thánh của ông chú, tôi đọc nó mỗi ngày để không quên tiếng mình và không trở nên câm điếc trước tiếng nói của cha ông...

Bây giờ thì tôi đã hiểu. Hàng mấy chục năm trời ở cái xó xỉnh Maripoza này ông không nhìn thấy người Ba Lan nào, không nói chuyện với bất kì ai. Vậy là ông chỉ đọc sách của ông chú và chẳng có gì đáng ngạc nhiên rằng không chỉ những lời nói của ông, mà ngay cả ý nghĩ cũng được sắp đặt theo thước đo của Kinh thánh . Ông không biết cách nói tiếng Ba Lan nào khác và không thể biết nó; ông đã trả lại những gì thu lượm được. Ông chỉ không muốn quên nó vì bất cứ thứ gì trên thế gian này. Ông có thói quen mỗi buổi sáng đọc to quyển Kinh thánh của mình. Dù sao đi nữa thì từ đất nước quê hương cũng không có gì khác hơn đến được với ông, không có gì, từ bất cứ nơi nào - có lẽ chỉ có tiếng ồn ào của cánh rừng California gợi cho ông nhớ tiếng thét gào của những cánh rừng Litva.

Khi chia tay nhau tôi lên tiếng:

- Một tháng nữa tôi về nước. Ông có ai thân thích không? Anh em, người làm mối, bất kì ai mà ông muốn nhắn tin về mình cho họ biết?

Ông đắn đo giống như tìm trong trí nhớ những người họ hàng xa xôi nhất - sau đó bắt đầu lắc lắc đầu:

- Không có ai... không có ai... không có ai...

Song rõ ràng là ông đọc sách của ông chú và không muốn nhắc đến... chắc ông đã quên.

Chúng tôi từ biệt nhau.

- Chúa sẽ dẫn đường cho ông! - Ông nói với tôi trước lúc lên đường.

Ngay sau đó ông đi về rừng - còn tôi, hai ngày sau, đến Big Trees. Khi tôi lên chiếc xe ngựa chở khách ngồi, ngài Billing lắc mạnh tay tôi, cứ như muốn ngắt nó lại làm kỉ niệm và nhắc lại:

- Đó là một con người vĩ đại, thưa ngài, cái ông M. ấy. Good bye! Good bye! Một con người vĩ đại!

Sau đó mười lăm phút, những cánh rừng Maripoza đã bao bọc quanh tôi. Sáng hôm sau, tôi thầm nghĩ: “Trong giây phút này ở hẻm núi ông già Putrament đang đọc to quyển Kinh thánh của mình...”