TỪ HỒI KÍ CỦA MỘT GIÁO VIÊN Ở POZNAN
Ánh sáng của ngọn đèn, mặc dù đã được che bớt lại vẫn làm tôi thức dậy và nhiều lần, vào lúc hai hoặc ba giờ sáng, tôi vẫn nhìn thấy Michas còn đang làm việc. Hình dáng nhỏ nhắn gầy guộc của nó trong bộ đồ lót cúi mình trên trang sách, trong màn đêm tĩnh mịch và cái giọng buồn ngủ, mệt mỏi lặp đi lặp lại một cách cứng nhắc cách chia động từ tiếng Latinh hoặc Hi Lạp với sự đồng điệu giống hệt như trong nhà thờ người ta hát kinh cầu nguyện. Giá như tôi lên tiếng giục đi ngủ, chắc cậu bé sẽ trả lời tôi: “Con vẫn còn chưa thuộc bài, thưa thầy Wawrzynkiewicz.” Dù rằng tôi đã cùng cậu bé ôn lại các bài học từ lúc bốn giờ đến tám giờ tối, rồi từ chín giờ đến mười hai giờ đêm và bản thân tôi cũng chưa lên giường ngủ trước khi chắc chắn là cậu biết hết mọi thứ; nhưng thực tình những thứ đó là quá nhiều. Sau khi học xong bài cuối cùng, cậu bé đã quên bài đầu, còn cách chia động từ tiếng Hi Lạp, Latinh, Đức và tên gọi các huyện khác nhau đã đưa cái đầu khốn khổ của cậu vào một sự hỗn độn đến mức không thể ngủ được. Lúc bấy giờ, cậu bé chui từ trong chăn ra, cầm lấy cây đèn và lại ngồi xuống cạnh bàn. Nếu như tôi la mắng cậu, cậu sẽ cầu xin và khóc lóc. Rồi tôi cũng quen với những buổi đêm như vậy, quen với ánh đèn và với việc nghêu ngao cách chia động từ đến mức khi không thấy cảnh đó, tôi không thể ngủ được. Có lẽ tôi không nên cho phép đứa nhỏ hành hạ mình quá sức như vậy, nhưng tôi biết làm gì đây? Mỗi ngày, nó buộc phải học thuộc lòng như vậy, nếu khác đi thì người ta sẽ đuổi nó khỏi trường và chỉ có Chúa mới biết điều đó là đòn đau đớn như thế nào đối với bà Maria, người sau cái chết của chồng, ở lại với hai đứa trẻ mồ côi mà toàn bộ niềm hi vọng đặt cả vào cậu bé Michas. Tình cảnh gần như không có lối thoát, vì mặt khác tôi cũng biết rằng việc cố gắng quá sức về trí tuệ sẽ có hại cho sức khỏe của cậu bé và có thể gây nguy hiểm cho mạng sống của nó. Ít nhất cũng cần tăng cường thể lực cho nó, cần tập thể dục, cần ra lệnh nó phải đi lại nhiều hoặc cưỡi ngựa, nhưng không có nhiều thời gian dành cho việc đó.
Cậu bé có chừng ấy công việc, chừng ấy bài học thuộc lòng, chừng ấy bài tập viết hằng ngày, khiến tôi buộc phải nói thật lòng là không có thời gian nào nữa. Mỗi giây phút dành cho vui chơi, sức khỏe và cuộc sống của cậu bé đều bị các môn tiếng Latinh, Hi Lạp và... tiếng Đức lấy mất. Buổi sáng, khi tôi sắp đặt các cuốn sách cho vào cặp cho cậu bé và khi tôi nhìn thấy đôi vai gầy guộc của nó phải oằn xuống dưới sức nặng của các tập sách đó, trái tim tôi thực tình đau nhói. Thỉnh thoảng, tôi cầu xin sự thông cảm và độ lượng đối với cậu bé, nhưng các giáo sư người Đức chỉ đáp lại với tôi là tôi làm hỏng và nuông chiều đứa bé, rằng Michas rõ ràng làm việc chưa đủ độ, rằng còn mang trọng âm Ba Lan và rằng cậu bé thường khóc lóc vì những chuyện vớ vẩn. Bản thân tôi cũng bị bệnh ở ngực, cô đơn và hay cáu bẳn, vì vậy những lời quở trách đó nhiều lúc làm tôi khó chịu. Tôi là người biết rõ nhất Michas làm việc như thế nào! Đó là một cậu bé năng lực trung bình, song nhẫn nại và có tính cách mạnh mẽ hết sức ngọt ngào mà tôi chưa bao giờ gặp ở bất cứ đứa trẻ nào khác. Cậu bé Michas khốn khổ gắn bó cuồng nhiệt và mù quáng với người mẹ, khi người ta nói với cậu rằng mẹ cậu đang bất hạnh, đang ốm đau, và rằng nếu cậu còn tiếp tục học kém nữa thì có thể làm cho bà đau thêm - thế là cậu run rẩy trước ý nghĩ đó và hằng đêm cậu ngồi trước các cuốn sách chỉ để bà mẹ không lo lắng buồn phiền. Cậu bật khóc khi nhận được điểm kém, nhưng không một ai nghĩ rằng tại sao cậu khóc, cậu cảm thấy trách nhiệm của mình trong những giây phút đó kinh khủng như thế nào. Ối dào! Ai nghĩ đến chuyện đó làm gì cơ chứ? Cậu bé nói giọng có trọng âm Ba Lan và thế là đủ! Tôi không làm hư hỏng cũng như nuông chiều cậu bé, chỉ có điều tôi hiểu cậu ta hơn những người khác; vì vậy thay cho quát mắng cậu vì những thất bại, tôi cố gắng động viên, đó là chuyện của tôi. Bản thân tôi trong cuộc sống cũng đã làm việc hết sức mình, đã chịu đựng đói khát khổ đau, tôi đã không hạnh phúc và sẽ không hạnh phúc và - thây kệ số phận chứ biết làm thế nào! Thậm chí, tôi không thèm nghiến răng lại khi nghĩ về điều đó; tôi không tin là nên sống trên đời này, nhưng có lẽ cũng chính vì thế mà tôi có sự đồng cảm thực sự trước mỗi nỗi khổ đau.
Ít nhất là trong độ tuổi của Michas, khi tôi còn chạy nhảy đuổi theo lũ chim bồ câu dọc các đường phố hoặc chơi bóng trước tòa thị chính, tôi còn có thời gian của riêng mình dành cho bồi bổ sức khỏe và trò vui. Tôi không bị các trận ho hành hạ; khi bị động chạm đến da thịt thì tôi khóc cho đến lúc người ta ngưng đánh; hơn nữa, tôi được tự do như con chim và không quan tâm đến bất cứ điều gì. Còn Michas thì thậm chí điều đó cũng không có. Có thể sẽ có đầy sức sống, dù cho có bị đặt trên đe dưới búa; cậu sẽ giành được chiến thắng, nếu như được cười một cách thoải mái trước các trò mà trẻ em chơi, được tham gia vào các trò đùa nghịch và bay nhảy trong không gian khoáng đãng dưới tia nắng mặt trời. Nhưng tôi không được chấp thuận làm việc với cậu bé như vậy. Ngược lại, tôi đã nhìn thấy đứa trẻ đi đến trường và từ trường trở về ảm đạm, gù lưng dưới sức nặng của những cuốn sách, gắng sức, với những nét nhăn trên khóe mắt, cố kìm hãm để khỏi bật ra tiếng khóc - vì vậy, tôi tỏ thái độ thương cảm đối với cậu và tôi muốn làm nơi trốn chạy của cậu bé.
Bản thân tôi là giáo viên, nhưng chỉ là giáo viên tư thục, và tôi không biết mình có thể làm gì trên thế giới này nếu như mất cả niềm tin vào giá trị của khoa học và tác dụng mà nó mang lại. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là khoa học không nên biến thành thảm họa đối với trẻ em, rằng môn tiếng Latinh không thể thay thế cho không khí và sức khỏe, còn trọng âm tốt hoặc tồi không thể quyết định số phận và cuộc sống của những con người nhỏ bé.
Tôi cũng nghĩ rằng ngành sư phạm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, khi trẻ em cảm nhận được bàn tay dịu dàng dẫn dắt nó, chứ không phải bàn chân đạp vào ngực nó và giẫm đạp lên mọi thứ, điều mà ở trong nhà người ta dạy nó phải tôn sùng và yêu thương... Tôi là kẻ theo chính sách “ngu dân” như vậy và chắc chắn sẽ không thay đổi chính kiến của mình về vấn đề này, vì tôi đã tự củng cố cho mình lòng tin vào nó ngày càng vững chắc hơn, mỗi khi tôi nhớ về Michas của mình, đứa bé mà tôi yêu thương chân thành. Đã sáu năm nay, tôi là thầy giáo của cậu bé, đầu tiên với tư cách gia sư, sau đó, khi cậu học lên lớp Hai, tôi là người dạy thêm, vì vậy tôi có thời gian gắn bó với cậu. Hơn nữa, tại sao tôi phải che đậy trước chính bản thân mình: cậu bé quý báu đối với tôi, bởi cậu là con trai của một người quý giá hơn hết thảy mọi thứ trên thế gian này đối với tôi... Nàng không bao giờ biết được điều đó và sẽ không bao giờ biết điều đó. Tôi nhớ rằng tôi là... mà thôi, nói làm gì, chỉ đơn giản là ông Wawrzynkiewicz, giáo viên tư thục, hơn nữa lại là một người đau bệnh, còn nàng là con gái một gia đình quý phái, đơn giản là một bà chủ, mà đứng trước người đó, tôi không dám ngước mắt lên nhìn. Nhưng vì trái tim cô đơn, bị cuộc đời hành hạ, cuối cùng buộc phải tìm một nơi móc nối, giống như vỏ ốc bị quăng quật gắn với con sóng - vì vậy trái tim tôi đã gắn bó vào nàng. Tôi biết làm cái gì trước tình cảnh đó? Và thực ra thì cuối cùng nàng có bị thiệt hại gì đâu cơ chứ? Tôi không muốn có từ nàng nhiều ánh sáng hơn vầng mặt trời, thứ mà mùa xuân sưởi ấm bộ ngực bệnh tật của tôi. Từ sáu năm nay, tôi sống trong nhà nàng, tôi có mặt khi chồng nàng chết, tôi nhìn thấy nàng bất hạnh, cô đơn, và luôn luôn tốt bụng như một thiên thần, yêu thương con trẻ, gần như là thần thánh trong cuộc đời góa bụa, vì vậy... điều đó buộc phải đến. Tuy nhiên, đó không phải là tình yêu trong tôi, đúng hơn đó là sự sùng bái của tôi.
Michas trông rất giống mẹ. Nhiều lần, khi cậu bé ngước mắt nhìn tôi, tôi có cảm giác rằng mình đang nhìn thấy nàng. Cũng vẫn những đường nét tinh tế ấy, cũng vầng trán với bóng của những mớ tóc dày hắt lên ấy, cũng nét dịu dàng của cặp lông mày ấy, và đặc biệt là giọng nói gần như giống hệt nhau ấy. Trong tính khí của người mẹ và đứa trẻ cũng có một biểu hiện chung ở chỗ đều có khuynh hướng thích phô trương cả về tình cảm cũng như quan điểm. Cả hai mẹ con đều thuộc nhóm người nóng nảy, nhạy cảm, cao thượng và giàu lòng yêu thương, những người sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn nhất, song trong cuộc sống và khi đối mặt với thực tế của cuộc sống đó thì ít tìm được hạnh phúc, vì họ cho đi nhiều hơn là nhận lại. Loại người ấy cũng sẽ sớm tuyệt chủng nay mai và tôi nghĩ rằng người theo chủ nghĩa tự nhiên ngày nay có thể nói về họ rằng những người loại đó buộc phải chết, vì họ đến với thế giới với nhược điểm của con tim - bệnh quá yêu thương.
Gia đình Michas trước đây rất giàu có, nhưng - họ quá yêu thương... vì vậy những cơn bão táp khác nhau đã phát tán của cải, thứ còn lại giờ đây, đúng ra không phải là sự bần hàn, thậm chí không phải là nghèo khổ, nhưng nếu so với thời xa xưa - thì đó là sự tầm thường. Michas là đứa bé cuối cùng của gia đình; vì vậy, bà Maria yêu thương không chỉ vì cậu là con đẻ của mình, mà đồng thời là toàn bộ niềm hi vọng của mình trong tương lai. Thật bất hạnh, với sự mù quáng thông thường của người mẹ, bà đã nhìn thấy trong cậu những khả năng khác thường. Đúng ra cậu bé không phải loại ngu dốt, nhưng cậu thuộc loại trẻ em mà khả năng ngay từ ban đầu chỉ là loại trung bình, sau này chỉ có thể phát triển cùng với thể lực và sức khỏe. Trong những điều kiện khác, có lẽ cậu có thể tốt nghiệp trường trung học, đại học và trở thành nhân viên có ích ở bất kì lĩnh vực nào. Trong điều kiện hiện hành, cậu chỉ mệt mỏi và vì biết về sự tưởng tượng quá cao mà mẹ cậu hình dung về khả năng của mình, cậu cố sức một cách vô ích.
Mắt tôi đã nhìn thấy nhiều điều trên thế giới này và tôi quyết định không để mình ngạc nhiên trước bất cứ điều gì, nhưng thú thật tôi khó mà tin được rằng có thể tồn tại tình trạng hỗn độn đến mức, trong đó đứa trẻ kiên nhẫn, có cá tính và chịu khó lại gặp chuyện tồi tệ. Ở đây có điều gì đó không lành mạnh và nếu như những lời nói có thể diễn tả được nỗi đau đớn và đăng cay thì đúng ra tôi nói cùng với Hamlet rằng trên thế giới đang diễn ra những thứ mà ngay các nhà triết học cũng không lường trước được...
Tôi làm việc với Michas cứ như tương lai của mình phụ thuộc vào những điểm số mà cậu bé đạt được vì những tiến bộ của cậu. Do cả tôi và cậu bé quý mến đó đều có chung mục tiêu, đó là: không để nàng lo lắng, trưng bày ra nhận xét tốt, làm cho nụ cười nàng nở trên môi.
Khi cậu bé nhận được điểm tốt, cậu ra khỏi lớp học với khuôn mặt rạng ngời và hạnh phúc. Tôi có cảm giác rằng trong những lần như vậy, cậu bỗng nhiên lớn hẳn lên, cứ như được nới lỏng ra; đôi mắt thông thường ảm đạm lúc bấy giờ cười tươi với niềm vui chân thành của tuổi thơ và sáng lên như hai cục than hồng. Ngay lập tức, cậu vứt bỏ chiếc cặp đầy sách từ đôi vai gầy guộc của mình xuống và vừa nhấp nháy mắt nhìn tôi vừa nói từ ngưỡng cửa:
- Thầy Wawrzynkiewicz ơi, mẹ con sẽ hài lòng! Hôm nay môn Địa lí con được điểm... thầy thử đoán xem bao nhiêu?
Khi tôi giả vờ không đoán được, cậu chạy đến tôi với nét mặt kiêu căng và sau khi giơ hai tay lên quàng ngang cổ tôi, liền nói như thầm thì vào tai tôi nhưng lại rất to:
- Điểm 5*! Thực sự là điểm 5!
Điểm tuyệt đối theo thang điểm Ba Lan, tương đương điểm 10 ở Việt Nam (BT).
Đó là những giây phút hạnh phúc đối với hai chúng tôi. Tối tối trong những ngày như vậy, Michas mơ ước và tưởng tượng cảnh nếu như tất cả các môn cậu đều được điểm tuyệt đối, cậu nửa như nói với tôi, nửa như nói với bản thân mình:
- Đến ngày lễ Giáng sinh chúng ta sẽ đi về Zalesin: tuyết sẽ rơi - giống như nó vẫn rơi vào mùa đông - vì vậy chúng ta sẽ đi xe trượt tuyết. Đêm chúng ta đến nơi, nhưng, chao ôi, mẹ sẽ chờ con, sẽ ôm con vào lòng, hôn con, còn sau đó sẽ hỏi về sổ điểm. Con sẽ làm ra vẻ buồn rầu, còn mẹ thì đọc sổ: Môn Tín ngưỡng: điểm tuyệt đối; tiếng Đức: điểm tuyệt đối; tiếng Latinh: điểm tuyệt đối... toàn điểm tuyệt đối! Ôi, thầy Wawrzynkiewicz ơi!
Và trong mắt cậu bé khốn khổ nước mắt ngấn đầy, còn tôi thay cho việc phanh bớt cậu lại, tôi chạy ngay theo cậu bằng trí tưởng tượng mệt mỏi và hình dung lại căn nhà ở Zalesin, uy lực, sự bình yên của nó, con người cao cả, quý phái đang là bà chủ ở đó và niềm hạnh phúc mà sự trở về của cậu con trai mang lại cho nàng với những điểm tuyệt đối ghi trong sổ điểm.
Tôi đã tận dụng những giây phút như vậy và giảng cho Michas bài học, giải thích cho cậu bé hiểu rằng mẹ cậu vô cùng quan tâm đến kết quả học tập của cậu, song cũng quan tâm cả đến sức khỏe của cậu nữa, rằng vì vậy cậu không nên khóc khi tôi dẫn cậu đi dạo, cần ngủ đủ số thời gian mà tôi ra lệnh cho cậu và không ngoan cố ngồi thâu đêm nữa. Cậu bé mủi lòng liền ôm ngang cổ tôi và nhắc lại:
- Vâng, thưa thầy vàng ngọc, con sẽ khỏe mạnh đến mức thầy phải kinh ngạc và con sẽ trở thành con người to lớn đến mức cả mẹ con, lẫn bé Lola không nhận ra con nữa.
Tôi cũng thường nhận được các bức thư của bà Maria đề nghị tôi chăm nom sức khỏe của cậu bé, nhưng ngày lại ngày với sự thất vọng, tôi nhận thấy rằng việc kết hợp giữa chuyện học hành với sức khỏe là điều gần như không thể làm được. Giá như các môn học giảng dạy là quá khó thì tôi còn có thể giải quyết được bằng cách rút Michas từ lớp Hai xuống lớp Một; nhưng với những môn học đó, mặc dầu không dễ dàng gì, cậu bé vẫn hiểu nó một cách tuyệt vời, vì vậy không phải là chuyện khoa học, chỉ là chuyện thời gian và cái môn tiếng Đức khốn khổ kia làm hại sức cậu. Một lần, khi tôi dạy cậu môn Lịch sử, môn mà “Chú bác thường kể cho con cháu nghe”, điều mà bà Maria yêu cầu tôi phải thực hiện hằng ngày, Michas đứng bật dậy với cặp mắt phát ra những tia sáng long lanh, còn tôi gần như phát hoảng sau khi nhìn thấy biểu hiện dò xét và sự nghiêm khắc trên nét mặt cậu, khi cậu lên tiếng:
- Thưa thầy, vậy đúng ra đó không phải chuyện cổ tích? Bởi vì...
- Bởi vì sao, Michas? - Tôi ngạc nhiên hỏi.
Thay cho lời đáp, cậu nghiến chặt hai hàm răng lại; và cuối cùng bật khóc nức nở khiến tôi không cách gì làm cậu im lặng lại.
Tôi hỏi Owicki để tìm hiểu điều gì làm cậu bật khóc, cậu ta không biết hoặc không muốn nói, nhưng tôi cũng đoán được. Rõ ràng là cậu bé Ba Lan đã nghe trong trường học của Đức khá nhiều chuyện khiến những tình cảm sâu lắng nhất bị tổn thương và là những chuyện phản bác lại hoặc nói xấu và nhạo báng đất nước, ngôn ngữ, truyền thống dân tộc, tóm lại là tất cả những gì mà ở trong nhà người ta dạy nó phải tôn thờ và yêu thương. Những ý kiến đó trượt ra khỏi các cậu bé khác không để lại cái gì ngoài lòng căm hận sâu sắc đối với các giáo viên và cả dòng giống của họ; song cậu bé lương thiện như Michas lại cảm nhận chuyện đó một cách đau đớn; cậu không dám phủ nhận, mặc dù nhiều lần định hét to lên vì nỗi đau, nhưng cậu lại nổi loạn, nghiến răng lại, cắn rứt và buồn rầu. Và thế là cùng với những nỗi ưu phiền mà cậu phải nuốt vào mình do những thất bại và điểm xấu, sự bất mãn về đạo đức không thể nào diễn tả nổi đã đổ lên người cậu, khiến cậu liên tục phải chịu đựng. Hai thế lực, hai giọng nói mà đứa bé có trách nhiệm phải nghe, hai cái đó lẽ ra phải phù hợp với nhau, lại giằng xé đẩy Michas ra hai hướng ngược nhau. Cái mà một bên gọi là trắng, là đạo đức, là yêu thương thì bên kia lại đánh giá là sự ướp xác và khôi hài; cái mà một bên gọi là đức hạnh, bên kia là lầm lỗi. Vì vậy trong sự chia đôi đó, cậu bé đi theo thế lực mà trái tim cậu hướng đến, tuy vậy cậu phải giả vờ lắng nghe và ghi nhận trong tim những lời nói ngược lại; phải sống giả vờ từ sáng đến tối trong sự bắt buộc mệt mỏi ấy mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng... Ôi, tình cảnh của đứa bé.... như vậy đấy!
Số phận của Michas thật kì lạ. Những tấn bi kịch cuộc đời thông thường bắt đầu sau này, khi những chiếc lá đầu tiên của cái cây tuổi trẻ rơi xuống; đối với cậu thì tất cả những gì tạo nên nỗi bất hạnh: sự cưỡng bức về đạo đức, nỗi ưu phiền bị giấu kín, sự bất an, những cố gắng vô ích, sự giãy giụa đấu tranh với những khó khăn, sự dần dần mất niềm hi vọng, tất cả những chuyện đó bắt đầu ở tuổi mười một của cậu bé. Cả hình dáng gầy còm của nó, cả sức lực còm cõi của nó không thể đương đầu được, đứa bé không đủ sức làm chủ được bản thân. Đối với điều đó thì tôi không thể làm gì được và tôi chỉ còn trông chờ vào dịp Tết đến, sự nghỉ ngơi sẽ làm lành những vết nứt trong sức khỏe của cậu bé do lao động quá sức tạo nên.
Giá như Michas là đứa trẻ lãnh đạm, tôi sẽ ít phải quan tâm đến cậu ta hơn; đằng này cậu bé gần như cảm thấy đau đớn trước mỗi thất bại hơn là thành công. Những giây phút vui vẻ và những điểm 5 mà tôi nhắc đến kia thường xảy ra ít hơn nhiều so với nỗi bất hạnh.
Tôi đã học được cách đọc trên khuôn mặt cậu, chỉ cần cậu bước vào, bằng ánh mắt đầu tiên của cậu, tôi đã biết được cậu có thành công hay không.
- Con được điểm xấu phải không? - Tôi hỏi.
- Vâng!
- Con không biết bài à?
Đôi lúc cậu trả lời:
- Con không biết.
Nhưng thường thì cậu đáp:
- Con biết, nhưng không thể nói được.
Cậu bé Owicki, học sinh đứng đầu lớp Hai mà tôi cố tình dẫn đến để cùng học với Michas đã nói rằng Michas chủ yếu bị điểm kém là vì không biết... ứng phó.
Khi đứa bé càng cảm thấy mệt mỏi hơn về trí tuệ và thể lực thì những lần thất bại như vậy càng xảy ra thường xuyên hơn. Tôi nhận thấy rằng sau khi khóc xong, ngồi vào học bài tiếp theo, cậu thường im lặng và gần như bình thản, nhưng trong sự cố gắng căng người ra làm hai, thứ nghị lực mà cậu cố cóp nhặt để hoàn thành nhiệm vụ ấy, có một cái gì đó bao gồm cả nỗi tuyệt vọng lẫn nhiệt tình nóng bỏng. Thỉnh thoảng, cậu đi vào góc nhà, lấy hai tay vò đầu và im lặng: cậu bé bị kích động đó tưởng tượng rằng mình đang giẫm đạp lên mộ người mẹ thân yêu, nhưng không biết cách nào làm ngược lại được điều đó, và cậu cảm thấy mình đang ở trong vòng tròn lầm lỗi mà không có cách thoát ra khỏi đó.
Những cuộc ngồi đêm ngày càng trở nên thường xuyên hơn. Tôi rất sợ khi tôi thức dậy, ra lệnh cho cậu đi ngủ, cậu đứng dậy lặng lẽ, trong bóng đêm, mang đèn ra phòng ngoài, tại đó cậu thắp đèn và ngồi vào học tiếp. Trước khi tôi bắt được quả tang, đã vài đêm cậu ngồi như vậy giữa các bức tường lạnh lẽo. Tôi không còn cách nào khác, chỉ biết ngồi dậy, gọi cậu quay về phòng và cùng với cậu chuẩn bị lại một lần nữa toàn bộ số bài học, nhằm làm cho cậu tin rằng đã biết làm bài và rằng không cần thiết phải bắt mình cảm lạnh như vậy. Thế nhưng bản thân cậu cuối cùng cũng không biết mình đã biết những gì, cái gì còn chưa biết. Cậu bé mất sức, gầy còm, vàng vọt và mỗi lúc một thêm cau có hơn. Thỉnh thoảng xảy ra một chuyện khiến tôi tin rằng không phải chỉ công việc đè nặng lên người cậu. Ngày tháng qua đi, cậu bé khốn khổ cố căng sức ra làm hai, nhưng hiệu quả ngày càng teo lại, cậu càng hay khóc hơn. Những bức thư của bà Maria, mặc dù rất ngọt ngào, lại càng làm tăng thêm gánh nặng.
“Michas ơi, Chúa đã ban cho con những năng lực khác thường, - mẹ cậu viết - vì vậy mẹ tin rằng con sẽ không làm mất niềm hi vọng mà mẹ đặt vào con và con sẽ trở thành niềm an ủi của mẹ và của đất nước.”
Khi cậu bé lần đầu tiên nhận được bức thư như vậy, cậu vồ lấy tay tôi như người bị chứng co giật và vừa sắp bật khóc vừa nhắc đi nhắc lại:
- Con biết làm gì đây, thưa thầy Wawrzynkiewicz, con biết làm gì đây?
Rõ ràng là cậu có thể làm được cái gì cơ chứ? Cậu có thể làm gì khi sinh ra trên đời này không phải với năng khiếu bẩm sinh về ngoại ngữ và không biết ứng phó thế nào với môn tiếng Đức?
Đã đến thời gian nghỉ Lễ Các Thánh*; việc đánh giá quý hoàn toàn không có gì đặc biệt: cậu đạt điểm trung bình kém ở cả ba môn học quan trọng nhất. Vì những đề nghị khẩn khoản và thề thốt của cậu, tôi không gửi bản đánh giá đó cho bà Maria.
Lễ Các Thánh hay còn gọi là Lễ Người chết, diễn ra vào ngày 01/11 hằng năm (ND).
- Thưa thầy quý mến! - Cậu lên tiếng sau khi chắp hai tay lại - Mẹ con không biết rằng người ta cho điểm nhân dịp Lễ Các Thánh đâu, đến Thiên Chúa giáng sinh biết đâu Chúa sẽ thương hại con.
Cậu bé khốn khổ nuôi hi vọng rằng còn có thể cải thiện được điểm số, và đúng ra cả tôi nữa cũng hi vọng như vậy. Tôi nghĩ rằng cậu sẽ có kinh nghiệm học tập, rằng cậu sẽ quen với mọi chuyện, rằng cậu sẽ quen với ngoại ngữ và biết nói đúng trọng âm, và trước hết sẽ cần ít thời gian hơn để học bài. Nếu không như vậy thì từ lâu tôi đã viết thư cho bà Maria và trình bày thực tình hình cho bà rõ. Hình như nuôi niềm hi vọng không phải là vô ích. Ngay sau Lễ Các Thánh, Michas nhận được ba điểm tuyệt đối, trong đó một điểm là của môn tiếng Latinh. Trong tất cả các học sinh ở lớp chỉ mình cậu biết từ gaudeo là động từ thời quá khứ của gavisus sum , còn cậu biết là vì sau khi nhận được hai điểm tuyệt đối trước đó, cậu hỏi tôi, tiếng Latinh cụm từ “tôi vui sướng” nói thế nào. Tôi nghĩ rằng cậu bé phát điên lên vì hạnh phúc. Cậu viết thư cho mẹ bắt đầu bằng câu:
“Thưa mẹ yêu quý nhất! Liệu mẹ yêu của con có biết rằng từ gaudeo ở thể hoàn thành chia thế nào không? Chắc cả mẹ lẫn em Lola đều không biết, vì trong cả lớp chỉ một mình con biết điều đó.”
Đơn giản là Michas tôn sùng mẹ cậu. Kể từ lúc đó, cậu thường xuyên hỏi tôi về các động từ hoàn thành và các phân từ. Giữ được các điểm tuyệt đối đó bây giờ trở thành nhiệm vụ sống còn của cậu bé. Nhưng đó chỉ là những luồng sáng ngắn ngủi của hạnh phúc. Ngay sau đó, trọng âm Ba Lan tồi tệ của cậu đã phá vỡ mọi cố gắng của cậu, và số lượng môn học quá lớn không cho phép cậu bé dành cho mỗi môn một thời lượng cần thiết mà trí nhớ đã căng ra của cậu đòi hỏi. Chuyện không may cũng góp phần làm tăng thêm nỗi bất hạnh của cậu. Cả Michas lẫn Owicki đều quên không nói cho tôi biết về một bài tập viết và chúng đã không làm bài đó. Owicki thoát vì với tư cách là học sinh đứng đầu lớp, cậu ta thậm chí không bị hỏi về bài tập ấy, tuy nhiên Michas thì nhận được lời quở trách công khai trước toàn trường cùng với lời cảnh cáo có thể bị đuổi học.
Người ta cho rằng cậu đã cố tình giấu tôi về bài tập đó để khỏi phải làm, còn cậu bé, kẻ không có khả năng nói dối bất cứ điều gì thì không còn cách nào làm cho mọi người tin vào sự vô tội của mình. Để bảo vệ mình, cậu có thể nói rằng cả Owicki cũng quên giống như cậu, nhưng danh dự của nhà trường không cho phép làm điều đó. Trước sự bảo lãnh của tôi, những người Đức trả lời bằng sự nhắc nhở rằng tôi khuyến khích học sinh lười biếng. Chuyện đó làm tôi khá lo lắng, song hình ảnh của Michas còn làm tôi bất an hơn. Buổi tối hôm ấy, tôi nhìn thấy cậu ta lấy hai tay vò đầu, vừa thầm thì, vừa nghĩ rằng tôi không nghe thấy: “Đau quá! Đau quá! Đau quá!” Bức thư của người mẹ, đến vào sáng ngày hôm sau, trong đó bà Maria đổ lên đầu Michas những lời vuốt ve âu yếm vì những điểm tuyệt đối nọ lại là đòn mới giáng thêm vào cậu ta.
- Ôi, con mang lại cho mẹ niềm an ủi đẹp quá! - Cậu lớn tiếng sau khi lấy bàn tay che mặt.
Ngày hôm sau, khi tôi khoác lên vai cậu cặp sách, cậu lảo đảo và suýt nữa thì ngã. Tôi định không cho cậu đến trường, tuy vậy, cậu nói rằng không có gì xảy ra đối với cậu; chỉ đề nghị tôi dẫn đến trường, do cậu sợ bị chóng mặt. Buổi chiều, cậu về với một điểm kém mới. Cậu nhận được điểm đó vì bài học mà cậu biết hết sức thuần thục, nhưng theo lời kể của Owicki, cậu đã lắp bắp và không nói ra được. Một dư luận quả quyết về cậu được củng cố, rằng đó là cậu bé bị bão hòa “với các cơ sở và bản năng thụt lùi”, ngu ngốc và lười biếng.
Với hai lời buộc tội cuối cùng mà cậu biết được, cậu đã chiến đấu như một kẻ đang bị đánh chìm vật lộn với sóng - chiến đấu một cách tuyệt vọng, vô ích.
Cuối cùng, cậu mất toàn bộ niềm tin vào bản thân, toàn bộ sự tín nhiệm vào sức lực của mình; cậu tin rằng mọi cố gắng và lao động đều vô ích, rằng cậu không bao giờ có được trọng âm và buộc phải học kém, đồng thời cậu cũng hình dung được mẹ sẽ nói gì, đau đớn như thế nào, việc đó có thể ảnh hưởng thế nào đối với sức khỏe bạc nhược của bà.
Cha đạo ở Zalesin, người thỉnh thoảng viết thư cho cậu, một người rất thiện ý, nhưng không thận trọng, mỗi bức thư thường kết thúc bằng những lời sau:
“Michas hãy nhớ rằng không chỉ niềm vui, mà cả sức khỏe của mẹ đều phụ thuộc vào sự tiến bộ trong học tập và đạo đức của con.” Cậu nhớ, cậu quá nhớ điều đó, vì ngay cả trong mơ cậu thường gọi bằng giọng ai oán: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” - cứ như cầu xin bà tha lỗi.
Nhưng trong thực tế, cậu đang nhận được các điểm số ngày càng tồi tệ hơn. Lễ Giáng sinh đã sắp đến và về sổ nhận xét thì không thể nuôi ảo tưởng được nữa, tôi đã viết thư cho bà Maria để báo trước cho bà biết về điều đó. Tôi nói thẳng và dứt khoát, rằng cậu bé đang khá yếu và chịu áp lực, rằng mặc dầu đã vô cùng cố gắng, nhưng không thể giải quyết được vấn đề và có lẽ sau Lễ cần đưa cậu về nhà, giữ lại ở quê và trước hết là bồi bổ sức khỏe cho cậu. Mặc dù từ bức thư trả lời, tôi cảm nhận được rằng tình yêu của người mẹ đẻ đã bị tổn thương ở mức độ nào đó, nhưng bà trả lời lại giống như một người đàn bà hiểu biết và yêu thương con cái. Tôi không nói cho Michas bất cứ điều gì về bức thư đó và về dự định không tiếp tục cho nó đi học nữa, bởi tôi sợ bất cứ một sự xúc động mạnh nào của cậu; tôi chỉ nhắc một điều là dù có xảy ra chuyện gì thì mẹ đều biết rằng cậu đã làm việc và sẽ thông cảm trước sự thất bại của cậu. Chuyện đó làm cậu giảm bớt lo ngại, vì cậu khóc rất lâu và thực lòng, điều mà lâu nay không xảy ra với cậu. Vừa khóc cậu vừa nhắc lại: “Con đã gây ra cho mẹ biết bao nỗi lo lắng!” Nhưng trước ý nghĩ rằng không lâu nữa sẽ về làng, sẽ gặp mẹ và em Lola, nhìn thấy cả Zalesin, cả cha Maszynski, cậu cười ra nước mắt. Tôi cũng rất mong được về Zalesin, vì gần như không thể nhìn vào tình trạng đứa bé. Ở đó, trái tim người mẹ và lòng tốt của con người chờ đợi nó, và sự tĩnh lặng, và cả sự tiện nghi nữa. Ở đó, việc học hành mang dáng vẻ gia đình, chân thực, không xa lạ và không ghê tởm; ở đó, cả bầu không khí cũng quen thuộc và sạch sẽ, bầu không khí mà bộ ngực trẻ thơ có thể hít thở.
Vì vậy, tôi trông đợi ngày lễ đến như một sự cứu giúp đối với nó và tính từng phút từng giây khoảng thời gian ngăn cách đó, còn đối với Michas thời gian đó càng lúc càng mang lại những ưu phiền mới. Có cảm giác rằng mọi thứ đều liên kết với nhau chống lại nó. Để rèn luyện thói quen lớn hơn trong ngôn ngữ giảng dạy, trẻ em được lệnh không sử dụng thứ tiếng nào khác khi nói chuyện với nhau.
Một lân, Michas quên và bị quở trách trước toàn thể vì đã phá hoại đạo đức các học trò khác. Chuyện đó xảy ra ngay trước ngày lễ, vì vậy càng có ý nghĩa lớn hơn. Trường hợp ấy một đứa trẻ có lòng tự trọng và nhạy cảm cảm thấy như thế nào - tôi không thể diên tả nổi: tình trạng hỗn loạn ra sao diễn ra trong đầu óc nó! Mọi thứ đều nổ tung ra trong bộ ngực trẻ em của nó và trước mắt nó nhìn thấy không phải là ánh sáng mà là bóng tối. Nó cúi gằm xuống như nhánh lúa trước ngọn gió. Cuối cùng thì khuôn mặt đứa trẻ mười một tuổi ấy mang dáng vẻ vô cùng thảm hại; trông nó giống như vừa bị một trận khóc bóp nghẹt và đang cố kìm giữ nỗi tức tưởi; nhiều lúc mắt nó nhìn như mắt một con chim đau đớn; sau đó một sự trầm ngâm và buồn ngủ kì lạ chế ngự nó; những cử động của nó trở nên giống như vô thức, còn giọng nói thì chậm rãi đến kì lạ. Cậu bé trở nên đặc biệt lặng lẽ, bình thản và nghe lời như một cái máy. Khi tôi nói với cậu rằng đã đến thời điểm đi dạo, cậu không ngoan cố phản ứng lại như trước, mà đội ngay mũ lên đầu và đi theo tôi trong im lặng. Thậm chí, tôi có thể hài lòng nếu như điều đó phản ảnh sự dửng dưng, song tôi biết rằng vẻ dửng dưng đó ẩn giấu một sự kích động, sự chối bỏ đau đớn. Cậu vẫn ngồi vào bàn học và làm các bài tập giống như trước đây, nhưng có lẽ là do thói quen mà thôi. Rõ ràng là vừa nhắc lại máy móc cách chia động từ cậu vừa nghĩ đến một điều gì khác, hoặc có lẽ chẳng nghĩ về điều gì thì đúng hơn. Một lần, tôi hỏi cậu liệu cậu đã học xong hết chưa, cậu trả lời bằng giọng từ tốn của mình và gần như buồn ngủ: “Thưa thầy, con nghĩ rằng, chuyện này sẽ không mang lại kết quả gì.” Tôi thậm chí sợ không dám nhắc về mẹ với cậu, để khỏi làm tràn ly đắng cay mà đôi môi trẻ thơ của cậu phải uống.
Tôi cũng lo lắng càng lúc càng nhiều hơn về sức khỏe của cậu, trông cậu rất tiều tụy và cuối cùng trở nên gần như trong suốt. Mạng mạch máu nhỏ của cậu trước đây hằn rõ trên thái dương khi cậu tỏ ra cực kì sôi động, bây giờ nhìn thấy thường xuyên. Cậu đẹp ra đến mức trông gần giống một bức tranh. Thật buồn khi phải nhìn lên cái đầu nhỏ nhắn của đứa trẻ nửa thiên thần, cái đầu gây cho ta cảm giác một bông hoa tàn úa. Thoáng nhìn thì hình như cậu chẳng bị làm sao cả, nhưng cậu đã tàn lụi và kiệt sức. Cậu không thể nâng được tất cả sách trong cặp lên nổi, vì vậy tôi chỉ đặt vào đó một số cuốn, số còn lại tôi mang, vì bây giờ hằng ngày tôi dẫn cậu tới trường và đưa cậu về.
Cuối cùng thì ngày lễ cũng đã đến. Lũ ngựa từ Zalesin tới chờ đã hai ngày rồi, còn thư của bà Maria đến cùng với chúng kể rằng mọi người đều vô cùng sốt ruột mong ngóng chúng tôi. “Mẹ nghe nói rằng con, Michas, đang gặp khó khăn - bà Maria kết thúc - mẹ không mong chờ những điểm tuyệt đối nữa, mà mẹ chỉ muốn các thầy giáo của con cũng nghĩ giống như mẹ, rằng con đã làm mọi việc hết sức mình và đã cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ để bù đắp lại những bước tiến chưa đúng mực của mình.”
Nhưng ở bất cứ phương diện nào, các giáo viên cũng đều nghĩ khác, vì vậy kết quả đánh giá đã đi ngược lại với điều mong đợi đó. Lần quở trách công khai cuối cùng liên quan trực tiếp đến việc thực hành nhiệm vụ của cậu bé, mà về điều đó bà Maria cũng có một quan điểm khác. Trong cách nhìn của các giáo sư người Đức thì đứa bé chỉ làm tốt được công việc gây cười vì những lời chế nhạo sự lạc hậu của Ba Lan, môn ngôn ngữ và truyền thống. Vì hậu quả của những khái niệm luân lí đó mà Michas, như một đứa bé không có triển vọng, trong tương lai không thể tiếp tục nghe giảng được, và chiếm chỗ của người khác một cách vô ích, nên buộc phải thôi học ở trường. Buổi tối cậu mang bản án đó về. Trong căn nhà gần như đã tối đen, tuyết rơi dày đặc ngoài trời, nên tôi không thể nhìn rõ mặt đứa bé. Tôi chỉ thấy là nó đi đến chỗ cửa sổ, đứng ở đó và không nghĩ ngợi gì, im lặng, nhìn vào những cánh tuyết rơi đang bay lượn trong không trung. Tôi không ghen tị với ý nghĩ của cậu bé khốn khổ, những ý nghĩ giống như bông tuyết kia đang bay lượn trong đầu óc, song tôi thích nói với nó về những chuyện khác hơn là kết quả đánh giá và bản án nọ. Cứ như thế mười lăm phút đã trôi qua và chúng tôi chìm trong sự im lặng khó chịu, trong khi ngoài trời đã gần như tối hẳn. Tôi bắt tay vào việc sắp xếp đồ đạc trong hòm và biết rằng Michas vẫn còn đứng bên cửa sổ, cuối cùng tôi lên tiếng:
- Con đang làm gì thế, Michas ơi?
- Đúng là, - cậu bé đáp bằng giọng run rẩy và ngập ngừng ở mỗi âm tiết - mẹ con bây giờ đang ngồi với em Lola trong phòng làm việc màu xanh lá cây trước ngọn lửa và nghĩ về con chứ?
- Có thể như vậy. Tại sao giọng con lại run rẩy như vậy? Liệu con có bị ốm không đấy?
- Con không bị làm sao, thưa thầy, con chỉ thấy rất lạnh thôi.
Tôi vừa cởi quần áo cậu bé và lập tức đặt cậu nằm lên giường, vừa nhìn với lòng thương hại lên đầu gối gầy còm và cẳng tay mỏng manh đến mức trông như cây sậy của cậu. Tôi ra lệnh cho cậu uống cốc nước chè và đắp lên người cậu những gì có thể.
- Bây giờ con đã thấy ấm hơn chưa?
- Ồ, vâng! Đầu con hơi đau.
Cái đầu khốn khổ có cái gây đau đớn. Đứa bé mệt mỏi liền ngủ thiếp đi và thở nặng nề trong giấc mơ bằng bộ ngực còm cõi của mình, còn tôi cũng làm xong việc đóng gói đồ đạc của cậu và đồ đạc của mình; vì cảm thấy không được khỏe, tôi đi nằm. Sau khi thổi tắt nến, tôi ngủ gần như ngay lập tức.
Khoảng ba giờ đêm, ánh sáng và giọng lầm bầm đều đều quen thuộc đánh thức tôi dậy. Tôi mở mắt ra và tim tôi đau thắt lại một cách đầy lo ngại. Trên bàn thắp sáng đèn, bên cạnh là cậu bé Michas trong chiếc sơ mi mỏng đang ngồi trước quyển sách: hai gò má cậu cháy sáng, đôi mắt nhắm nghiền như để tăng cường trí nhớ, đầu hơi ngửa về phía sau, còn giọng nói buồn ngủ thì lặp đi lặp lại:
- Chia động từ: Amem, ames, amet, amemus, ametis...
- Michas ơi!
- Chia động từ: Amem, ames...
Tôi lay vai cậu:
- Michas ơi!
Cậu tỉnh dậy và vừa bắt đầu nháy nháy mắt với sự ngạc nhiên, vừa nhìn tôi cứ như không nhận ra tôi là ai.
- Con làm cái gì vậy? Con bị làm sao thế, bé ơi?
- Thưa thầy, - cậu vừa đáp vừa cười - con học lại tất cả từ đầu; ngày mai con phải được điểm tuyệt đối...
Tôi cầm lấy tay nó và bế lên giường; thân thể nó làm tay tôi bỏng rát như chạm lửa. Cũng may là bác sĩ ở cùng ngôi nhà của tôi, vì vậy ngay tức khắc tôi dẫn ông đến. Ông không phải nghĩ ngợi gì lâu. Trong giây lát, ông đo mạch đập của đứa bé, rồi đặt tay lên trán nó: Michas bị viêm não.
Ôi! Quá nhiều chuyện rõ ràng là không thể chất hết lên đầu nó được.
Căn bệnh nhanh chóng chuyển biến đến mức độ đáng sợ. Tôi gửi điện tín đến cho bà Maria và ngay ngày hôm sau, tiếng chuông vang lên dữ dội ở phòng ngoài báo cho tôi biết sự có mặt của bà. Sau khi mở cửa, tôi nhìn thấy bà nhợt nhạt dưới tấm vải che mặt màu đen giống như tấm vải đay; những ngón tay bà tì lên vai tôi với sức mạnh khác thường và cả tâm hồn bà dồn vào đôi mắt nhìn lên tôi, bà chỉ hỏi ngắn gọn:
- Nó còn sống?
- Còn sống. Bác sĩ nói bây giờ đã khá hơn.
Tháo bỏ tấm vải che mặt, trên đó còn đọng những hạt sương do hơi thở để lại, bà chạy vào phòng đứa bé. Tôi đã nói dối. Đúng là Michas còn sống, nhưng tình trạng của nó không khá hơn. Nó thậm chí không nhận được ra mẹ, khi bà ngồi bên cạnh và cầm lấy hai bàn tay nó. Mãi đến khi tôi đặt lên đầu nó tấm khăn nước đá mới thay, cậu bé mới nheo nheo mi mắt và cố gắng nhìn vào khuôn mặt đang cúi gằm trên người nó. Ý nghĩ của nó rõ ràng đang cố căng ra vừa để chiến đấu với cơn nóng và chứng điên, miệng run run, vừa mỉm cười lần thứ nhất rồi lần thứ hai, cuối cùng môi cậu bật lên tiếng thầm thì:
- Mẹ ơi!...
Bà nắm cả hai bàn tay nó và ngồi như vậy bên cạnh nó suốt mấy tiếng đồng hồ, thậm chí không cởi quần áo đi đường ra. Mãi đến khi tôi nhắc bà về điều đó, bà mới nói:
- Đúng rồi. Tôi quên không bỏ mũ xuống.
Khi bà bỏ mũ ra, tim tôi co lại vì một cảm giác kì lạ: thì đây giữa mái tóc vàng trang điểm cho một cái đầu trẻ đẹp bỗng thấy long lanh phát sáng những sợi tóc bạc trắng. Ba ngày trước đây có lẽ nó còn chưa xuất hiện tại đó.
Tự tay bà thay khăn chườm cho đứa bé và cho nó uống thuốc. Michas ngước mắt theo mỗi cử động của mẹ, nhưng bây giờ nó lại không nhận ra bà nữa. Buổi tối, cơn sốt nóng tăng cường. Trong cơn mê sảng, nó đọc thơ nói lên lòng tự hào về người anh hùng Zolkiewski trích từ bài Tiếng hát của Niemcewicz, đôi lúc nó nói bằng thứ tiếng dùng để giảng bài, rồi lại nhắc đến cách biến đổi các từ Latinh khác nhau. Chốc chốc tôi lại đi ra khỏi phòng, vì tôi không thể nghe tiếp được điều đó. Khi nó còn khỏe, nó đã lén học bài hầu lễ với ý định gây ra cho mẹ sự ngạc nhiên khi về quê - và bây giờ tôi bỗng rùng mình khi giữa đêm khuya tĩnh lặng nghe thấy đứa trẻ mười một tuổi nhắc đi nhắc lại trước khi chết bằng giọng đều đều, lịm dần: - Deus meus, Deus meus, quare me repulisti et quare tristis incedo, dum affligit me inimicus!*
Deus meus, Deus meus, quare me repulisti et quare tristis incedo, dum affligit me inimicus? (Bài Thánh thư tiếng Latinh): Chúa ơi, tại sao Người lại rời bỏ con, tại sao con phải chịu ưu phiền và bị kẻ thù ngược đãi? (ND).
Tôi không biết diễn tả những lời nói đó đã gây ra ấn tượng khủng khiếp như thế nào. Đó là Đêm Thiên Chúa giáng sinh. Từ ngoài phố, tiếng người nói ồn ào và tiếng chuông gắn trên các cỗ xe trượt tuyết vẳng đến. Thành phố mang bộ mặt bên ngoài đầy vẻ lễ hội và vui tươi. Khi bên ngoài hoàn toàn tối thẫm, qua cửa sổ ở phía đối diện bên kia phố có thể nhìn thấy cây thông Noel sáng lung linh bởi những ngọn nến, trên đó treo những quả thông màu vàng và bạc sáng lấp lánh, còn xung quanh cây thông là những chỏm đầu trẻ con với những mớ tóc màu vàng và đen quăn tít đung đưa trong không trung và nhún nhảy như lò xo. Các cửa sổ cháy bùng lên bởi ánh sáng, còn từ bên trong phát ra những tiếng hét hò vui vẻ và đầy ngạc nhiên. Giữa những giọng nói từ ngoài phố vọng vào không có gì khác hơn là tiếng cười vui vẻ và niềm hân hoan chung; chỉ có duy nhất cậu bé của chúng tôi là lặp đi lặp lại với nỗi bi ai khủng khiếp:
- Deus meus, Deus meus, quare me repulisti?
Trước cánh cổng, những cậu bé khênh lều cỏ khô đang dừng bước và ngay sau đó vẳng đến chỗ chúng tôi giọng hát của chúng: “Đang nằm trong nôi là Chúa hài đồng.” Đêm Giáng sinh đang đến gần, còn chúng tôi thì run rẩy, sợ rằng đó sẽ là đêm chết chóc.
Trong giây lát, chúng tôi có cảm tưởng rằng cậu bé đã tỉnh lại, vì cậu lên tiếng gọi Lola và mẹ, nhưng điều đó chỉ diễn ra rất ngắn. Nhịp thở nhanh của cậu đôi khi hoàn toàn ngừng lại. Không có gì để hi vọng nữa! Linh hồn bé bỏng kia chỉ còn ở lại một nửa với chúng tôi. Trí tuệ của nó đã lìa xa, và giờ đây bản thân cậu cũng đã đi vào nơi xa xôi vô tận đầy tăm tối và không nhìn thấy ai nữa, và không cảm thấy gì nữa, thậm chí cả mái đầu của người mẹ, mái đầu đang nằm như chết trên đôi chân cậu. Cậu trở nên trơ cứng và không nhìn lên chúng tôi nữa. Từng hơi thở của bộ ngực đều làm cậu lìa xa thêm và như nhấn chìm cậu vào khoảng tối tăm. Bệnh tật đã dập tắt dần hết tia lửa này đến tia lửa khác của cuộc sống. Đôi tay của đứa bé đặt trên gối đã nằm yên trên đó không động đậy giống như một đồ vật chết; mũi cậu nhọn ra, còn khuôn mặt thì mang dáng vẻ trầm tư lạnh lùng. Hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp, và cuối cùng thì giống với tiếng tích tắc của đồng hồ. Một giây phút nữa thôi, một hơi thở nữa thôi và hạt cát cuối cùng phải rơi xuống từ chiếc đồng hồ cát: đã đến hồi kết.
Khoảng nửa đêm, chúng tôi cảm thấy chắc chắn rằng cậu đang hấp hối, vì cậu bắt đầu thở khò khè và rên lên như một người bị nước tràn đầy mồm, và sau đó bỗng nhiên câm lặng. Nhưng chiếc gương nhỏ mà bác sĩ đặt vào miệng cậu vẫn bị màn sương hơi thở bao phủ. Một tiếng đồng hồ sau, cơn sốt nóng đột ngột giảm: tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng cậu đã được cứu thoát. Chính bác sĩ cũng nuôi một niềm hi vọng mong manh. Bà Maria khốn khổ cảm thấy mệt yếu.
Trong vòng hai tiếng đồng hồ, tình hình cậu bé càng lúc càng tốt lên. Trước khi trời sáng, vì lúc đó đã là giờ thứ tư tôi không chợp mắt ngồi bên cậu bé và vì chứng ho làm tôi nghẹt thở mỗi lúc một nặng hơn, tôi bước ra phòng ngoài và sau khi đặt mình nằm xuống chiếc đệm cỏ khô, tôi thiếp đi. Giọng nói của bà Maria đánh thức tôi. Tôi nghĩ rằng bà đang gọi tôi, nhưng giữa cảnh tĩnh lặng đêm khuya tôi nghe rõ tiếng gọi:
- Michas ơi! Michas ơi!
Tóc trên đầu tôi dựng đứng, khi tôi hiểu giọng nói kinh khủng đó bà đang dùng để gọi đứa bé; nhưng trước khi tôi bật người ngồi dậy được, thì chính bà chạy ra phòng ngoài với ngọn nến trong tay và với đôi môi run rẩy, bà thì thầm:
- Michas... đã chết!
Tôi chạy không kịp thở đến bên giường cậu bé. Đúng như vậy. Đầu đặt trên chiếc gối, miệng há hốc, đôi mắt không động đậy găm vào một điểm và sự đông cứng của tất cả các đường nét không để lại sự hoài nghi nhỏ nhất nào: Michas đã chết.
Tôi phủ tấm chăn lên cậu, tấm chăn mà bà mẹ khi bật dậy khỏi giường đã làm hở thi thể gầy còm của cậu và tôi vuốt mắt cho cậu, còn sau đó, tôi phải mất khá nhiều thời gian làm bà Maria tỉnh lại. Ngày lễ đầu tiên tôi dùng để chuẩn bị cho đám tang. Đám tang thật khủng khiếp đối với tôi, bà mẹ không muốn rời khỏi thi hài, mà sức lực của bà luôn luôn thiểu não. Bà ngất đi khi mọi người đến đo đạc để làm quan tài, sau đó, khi bắt đầu thay quần áo cho thi thể, cuối cùng, khi mang nhà táng đến đặt. Nỗi tuyệt vọng của bà đôi lúc lại tiếp xúc với vẻ dửng dưng của những người làm dịch vụ chôn cất đã quá quen với cảnh tượng như vậy và bà gần như trở thành điên dại. Chính tay bà bỏ phoi bào vào quan tài dưới tấm vải sa tanh, vừa bỏ vừa không ngớt mê sảng nói rằng đầu đứa bé sẽ bị đặt quá thấp. Còn trong khi đó, Michas đã mặc quần áo đồng phục mới và đi găng tay trắng, nằm trên giường, trông khô cứng, thờ ơ và dịu dàng. Cuối cùng, chúng tôi cũng đặt thi thể vào quan tài và xếp trong nhà táng, còn xung quanh đặt hai hàng nến. Căn phòng, trong đó cậu bé khốn khổ đã phải ngồi để đổi cách các từ tiếng Latinh và làm bài tập giờ đây đã biến thành ngôi nhà thờ nhỏ, các ô cửa sổ đóng kín không để ánh mặt trời lọt qua, còn ánh nến vàng lấp lánh đã làm cho các bức tường có vẻ bề ngoài giống như một nhà thờ nào đó và không khí rất long trọng. Kể từ lúc cậu nhận được những điểm tuyệt đối cuối cùng cho đến nay, chưa bao giờ tôi nhìn thấy khuôn mặt Michas sáng tươi đến như vậy. Khuôn mặt thanh tú của cậu hướng lên trần nhà mỉm cười dịu dàng, giống như trong cuộc nghỉ ngơi vĩnh cửu của cái chết, cậu bé rất thích thú và cảm thấy hạnh phúc. Ánh nến lung linh làm cho gương mặt cậu bé và nụ cười kia mang dáng vẻ của sự sống và giấc ngủ. Đám trẻ, các bạn bè của cậu, những người không về nhà nhân dịp lễ đã dần dần tụ họp lại.
Cặp mắt bọn trẻ mở rộng ra với sự ngạc nhiên trước cảnh tượng các ngọn nến, ngôi nhà táng và cỗ quan tài. Có lẽ những bộ đồng phục bé nhỏ kia bị uy thế và vai trò của bạn mình làm ngạc nhiên. Thì mới cách đó không lâu, cậu bé còn có mặt giữa chúng, còn còng lưng giống như chúng dưới sức nặng của cặp sách chứa đầy các cuốn sách tiếng Đức, cậu nhận được điểm kém, bị quở mắng và phê bình trước toàn trường, có trọng âm tồi; mỗi đứa trong số đó có thể nắm tóc cậu kéo lên hoặc véo tai cậu; còn giờ đây cậu đang nằm cao hơn chúng, rất trọng thể, bình thản, giữa ánh sáng bao bọc; tất cả mọi người nhích dần tới gần cậu với sự kính trọng và nỗi lo lắng, và thậm chí Owicki, mặc dù là học sinh đầu lớp, cũng chẳng có giá trị nhiều nhặn gì so với cậu. Đám trẻ huých khuỷu tay vào nhau, thầm thì nói với nhau, rằng bây giờ đây cậu chẳng quan tâm đến điều gì nữa, rằng thậm chí giá như ngài Thanh tra có đến đây chăng nữa, thì cậu cũng không đứng bật dậy, không sợ hãi, mà vẫn mỉm cười bình thản như thế; rằng cậu ở nơi đó hoàn toàn có thể làm điều mà mình thích, gây ồn ào nếu như cậu muốn và có thể nói dù bằng tiếng Ba Lan với những thiên thần bé nhỏ có đôi cánh mọc dưới cổ.
Vừa thầm thì như vậy, chúng vừa tiến gần tới chỗ dãy nến và đọc kinh cầu nguyện cho sự yên nghỉ cuối cùng của Michas...
Ngày hôm sau, người ta đậy nắp quan tài, đóng đinh và đưa ra nghĩa trang, nơi những nắm đất cát trộn lẫn cùng với tuyết được rắc, ngay sau đó, người ta che khuất cỗ quan tài trước mắt tôi... vĩnh viễn...
Hôm nay, khi tôi viết điều này, đã gần một năm trôi qua kể từ thời gian đó, nhưng tôi nhớ con và thương con vô cùng, Michas bé nhỏ của tôi, đóa hoa sớm héo tàn của tôi! Con có trọng âm tồi, nhưng có trái tim chính trực. Tôi không biết bây giờ con đang ở đâu, có nghe thấy tôi không, tôi chỉ biết rằng người thầy giáo xưa kia của con đang bị chứng ho ngày càng nặng hành hạ, rằng hắn sống ngày càng khó khăn, ngày càng cô đơn và sắp tới có thể sẽ ra đi, giống như con đã ra đi...
⚝ HẾT ⚝