← Quay lại trang sách

VÌ MIẾNG BÁNH MÌ ⚝ I ⚝
TRÊN ĐẠI DƯƠNG - NGHĨ SUY - BÃO TÁP - CẬP BẾN

Trên các đợt sóng lớn của đại dương, con tàu Đức “Blucher” chạy từ Hamburg đến New York chòng chành chao đảo. Bốn ngày lênh đênh trên đường, nó đã vượt qua bờ biển xanh của Ireland được hai ngày và bây giờ đang ra tới đại dương. Từ trên boong tàu, phóng tầm mắt ra xa chỉ nhìn thấy dải đồng bằng màu xanh xám, được cày thành từng luống, chòng chành nặng nhọc, đôi chỗ gợn sóng, ở phía xa càng lúc càng thẫm lại và hòa lẫn vào với đường chân trời phủ đầy mây trắng.

Bóng của các đám mây đôi chỗ hắt cả xuống nước và trên nền ngọc trai đó, thân tàu màu đen nổi lên rõ rệt. Con tàu này đang hướng mũi về phía tây, lúc thì bơi trên sóng một cách cần cù, lúc lại lao xuống thấp, giống như chìm nghỉm; đôi lúc biến mất khỏi tầm mắt, đôi lúc lại phơi mình trên đỉnh các con sóng lớn đến mức nhìn rõ cả đáy tàu và giờ đây nó vẫn đang tiến về phía trước. Sóng đánh vào nó, nó bơi vào sóng - và nó dùng ngực mình tách sóng ra. Bám theo sau nó là một vệt nước nổi bọt trắng phau giống như con rắn khổng lồ; vài con hải âu bay sau bánh lái, lượn đi lượn lại trên không trung và vừa lượn vừa kêu chíp chíp giống như chim te te của Ba Lan.

Gió khá lớn; tàu chạy một nửa bằng hơi nước, còn lại dùng buồm. Thời tiết càng lúc càng tốt hơn. Đôi chỗ giữa các đám mây màu thẫm nhìn thấy cả những khoảng trời xanh thẳm đang thay hình đổi dạng liên tục. Kể từ khi tàu “Blucher” rời khỏi cảng Hamburg, trời lúc nào cũng đầy gió nhưng không có bão. Gió thổi về hướng tây, nhưng đôi lúc cũng ngưng thổi: lúc bấy giờ những cánh buồm hạ xuống, để sau đó lại căng ra như ngực thiên nga. Các thủy thủ mặc áo len bó sát người, kéo dây buồm phía dưới của cột buồm lớn và vừa kéo vừa hô đều đều: “Ho-ho-o!”, họ cúi còng xuống và đứng thẳng người lên theo nhịp hát, còn tiếng hò của họ trộn lẫn cùng tiếng còi của viên sĩ quan hàng hải và nhịp thở nóng hổi của ống khói đang phun ra những làn khói đứt quãng hoặc những vòng tròn đen ngòm.

Lợi dụng thời tiết tốt, hành khách kéo đầy lên boong tàu. Ở phía đuôi tàu nhìn rõ cả những chiếc áo bành tô đen và mũ đội đầu của những hành khách hạng nhất; ở phía mũi tàu nổi lên đám dân đen di cư nhiều màu sắc đi tàu tầng dưới. Một số người trong họ ngồi trên những chiếc ghế dài, mồm ngậm tẩu thuốc ngắn, một số ngả lưng xuống nằm, một số nữa thì đứng tựa vào mạn tàu nhìn xuống mặt nước ở phía dưới.

Có cả vài người đàn bà bế trẻ con trên tay với những đồ dùng làm bằng sắt tây giắt ở thắt lưng; vài người trẻ tuổi đi lại dọc boong từ mũi đến cầu tàu, vừa đi vừa cố gắng giữ thăng bằng và thỉnh thoảng lại chao đảo. Những người ấy hát: Wo ist das deutsche Vaterland? * và có thể họ nghĩ rằng cái nước Đức đó họ sẽ chẳng bao giờ còn được nhìn thấy nữa, mặc dù vậy thái độ vui vẻ không biến mất khỏi khuôn mặt họ. Lọt thỏm giữa mọi người có hai kẻ buồn thảm nhất và giống như tách hẳn với toàn thể: đó là ông già và cô gái trẻ. Hai người đó không hiểu tiếng Đức và là những kẻ thực sự đơn độc giữa đám người xa lạ. Họ là ai - bất kì người nào trong chúng ta cũng dễ dàng đoán biết ngay từ cái nhìn ban đầu: đó là những người nông dân Ba Lan.

Wo ist das deutsche Vaterland (nguyên văn tiếng Đức): Đâu rồi nước Đức? - Lời bài hát dân ca Đức (ND).

Người đàn ông tên là Wawrzon Toporek, còn cô gái, Marysia, là con gái lão. Họ đi Mĩ và vừa rồi lần đầu tiên mạnh dạn bước ra khoang tàu. Trên khuôn mặt hốc hác tiều tụy vì bệnh tật của họ hiện rõ nỗi sợ hãi, đồng thời cả sự ngạc nhiên nữa. Bằng đôi mắt hốt hoảng họ nhìn những hành khách cùng đi, nhìn các thủy thủ, nhìn con tàu, nhìn ống khói đang tỏa khói một cách dữ dội và nhìn những đợt sóng dữ tợn phả bọt lên đến tận mạn tàu. Họ không nói gì với nhau, vì họ không dám nói. Lão Wawrzon nắm một tay vào lan can, tay kia giữ chiếc mũ lưỡi trai để gió không đánh bật của lão đi, còn Marysia thì giữ chặt ông bố và cứ mỗi lần con tàu lắc lư mạnh bao nhiêu thì cô lại bám chặt bấy nhiêu vào người cha, vừa bám vừa hét lên khe khẽ vì sợ hãi. Sau một khoảng thời gian, ông già phá vỡ sự im lặng:

- Marysia!

- Gì thế ạ?

- Con có nhìn thấy không?

- Nhìn thấy.

- Có ngạc nhiên không?

- Ngạc nhiên.

Nhưng cô còn thấy khiếp sợ hơn là ngạc nhiên; ông già Toporek cũng như vậy. Cũng may cho họ là sóng đã bớt mạnh, gió cũng ngừng lại và xuyên qua những đám mây mặt trời cũng ló ra. Khi họ nhìn thấy “vầng mặt trời yêu thương” thì họ cảm thấy nhẹ nhõm hẳn ra, vì họ nghĩ rằng “nó cũng giống hệt như mặt trời ở Lipince” quê họ. Có lẽ mọi thứ đối với họ đều lạ lẫm và không quen thuộc, chỉ có vầng mặt trời này, ánh sáng rạng rỡ này đối với họ mới là người bạn thân và người đỡ đầu quen biết xưa nay.

Mặt biển càng lúc càng phẳng lặng; sau một khoảng thời gian những cánh buồm cũng hạ xuống, từ chiếc cầu tàu trên cao vẳng đưa lại tiếng còi của thuyền trưởng và thế là đám thủy thủ lao đến ghim buồm lại. Hình ảnh đám người giống như đang treo lơ lửng trên không trung bên vực sâu hun hút lại khiến cho Toporek và Marysia ngạc nhiên lần nữa.

- Bọn con trai của chúng ta không làm nổi như vậy. - Ông già nói.

- Khi bọn người Đức leo được lên thì cả Jasko cũng sẽ leo được lên như vậy. - Marysia đáp lại.

- Jasko nào?... Sobkow ấy à?

- Sobkow là cái gì? Con đang nói về Smolak, người coi ngựa ấy.

- Nó cũng can đảm đấy, nhưng con phải loại nó ra khỏi đầu óc đi. Nó chẳng hợp với con, con cũng không hợp với nó. Con đi đây là để trở thành bà chủ, còn nó, nó sẽ chỉ là gã coi ngựa suốt đời thôi.

- Anh ấy cũng có đàn ngựa...

- Có, chỉ là ở Lipince thôi.

Marysia không nói gì nữa, cô chỉ nghĩ thầm rằng trời cho ai cái gì thì người đó được hưởng và thở dài đầy nhung nhớ, trong khi đó thì những cánh buồm đã được ghim lại, còn chân vịt bắt đầu khuấy nước mạnh đến mức cả con tàu rung lên do chính những chuyển động của nó. Rồi tình trạng chòng chành gần như ngừng hẳn lại. Ở phía xa mặt nước thậm chí đã gần như phẳng lặng và xanh thẫm. Ngày càng có nhiều nhân vật mới từ tầng dưới leo lên boong tàu: những người công nhân, nông dân Đức, những kẻ ăn không ngồi rồi, cư dân đường phố từ các thành phố ven biển khác nhau, đi đến nước Mĩ để tìm kiếm vận may chứ không phải tìm công ăn việc làm; đám đông chen lấn ở cầu tàu, vì vậy lão Wawrzon và Marysia, để khỏi làm vướng mắt người nào, liền ngồi lại chỗ thắt nút vòng dây ở góc sát ngay mũi tàu.

- Bố ơi, bao lâu nữa mình đi hết biển? - Marysia hỏi.

- Làm sao tao biết được. Hỏi ai cũng chẳng ai trả lời mình bằng tiếng của người Thiên Chúa giáo cả.

- Thế thì ở Mĩ chúng ta sẽ nói chuyện như thế nào?

- Người ta chẳng từng nói là ở đó người mình đông như kiến đó sao?

- Bố ơi!

- Cái gì?

- Ngạc nhiên thì có ngạc nhiên, nhưng ở Lipince vẫn tốt hơn.

- Mày đừng có nguyền rủa vô ích như vậy.

Sau giây lát, lão Wawrzon cũng nói thêm, giống như tự nói với mình:

- Đó là ý Chúa!...

Mắt cô gái ngấn đầy nước mắt, còn sau đó cả hai bắt đầu suy nghĩ về Lipince. Lão Wawrzon Toporek nghĩ tại sao mình lại đi Mĩ, và chuyện gì đã xảy ra khiến mình ra đi. Cái gì đã xảy ra? Nửa năm trước, vào mùa hè, người ta đã bắt con bò của lão ở cánh đồng cỏ ba chẽ. Chủ nhân bắt bò đòi ba mark* đền bù thiệt hại. Lão Wawrzon không đồng ý trả. Họ ra tòa. Vụ kiện kéo dài. Người chủ đòi không chỉ tiền chuộc con bò, mà là tiền chăm nuôi nó, mà tiền chăm nuôi nó mỗi ngày một tăng. Lão Wawrzon ngoan cố, vì lão tiếc tiền. Để theo vụ kiện, lão đã chi ra khá nhiều tiền, vụ kiện cứ kéo dài mãi. Chi phí ngày một tăng. Cuối cùng, lão Wawrzon thua kiện. Vì một con bò, chỉ có Chúa mới biết tốn kém bao nhiêu; cuối cùng thì lão không có gì để thanh toán, người ta giữ ngựa của lão, và vì sự ngoan cố kháng cự, người ta ra lệnh bắt giam lão. Lão Toporek oằn người như con rắn, đúng vào lúc đó là vụ thu hoạch lúa mì, do vậy cả sức lao động, cả sức kéo và xe cộ đều cần dùng cho công việc. Lão lần lữa kéo dài, sau đó lại là những ngày mưa; lúa mì của lão nằm từng đống ngoài đồng, lão nghĩ rằng chỉ vì một chút thiệt hại ở cánh đồng cỏ ba chẽ mà cả gia sản còm cõi của lão bị hoài phí, rằng lão đã mất chừng ấy tiền của, một phần gia súc, vụ thu hoạch của cả một năm và rằng đến mùa xuân, có lẽ hai bố con đành gặm đất mà sống hoặc phải đi ăn mày ăn xin.

Mark: một đơn vị tiền tệ của Ba Lan trước đây (BT).

Còn một điều nữa là trước đây, lão sống trong hoàn cảnh sung túc và lão ăn nên làm ra, vì thế lúc đó, lão cảm thấy vô cùng tuyệt vọng và bắt đầu uống rượu. Trong quán ăn, lão làm quen với một gã người Đức, kẻ đi khắp các làng xã như để đặt món hàng sợi lanh, còn trong thực tế là để gạ gẫm mọi người vượt biên ra nước ngoài. Gã người Đức kể cho lão nghe những điều kì diệu và khó tin về nước Mĩ. Hắn hứa cấp số ruộng đất lớn đến mức ở cả Lipince không có - và cùng với nó là rừng, và cả đồng cỏ, mắt người nông dân chỉ còn biết trợn tròn. Lão tin và không tin, nhưng gã Do Thái vào hùa với tay người Đức và nói rằng ở đó chính phủ cấp đất cho từng người, “ai muốn bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu”. Điều đó gã Do Thái biết được từ người họ hàng của hắn. Chính gã người Đức khoe tiền, số tiền lớn đến mức không chỉ mắt người nông dân sáng ra mà mắt các điền chủ cũng chưa từng nhìn thấy bao giờ trong đời. Người nông dân bị cám dỗ đến mức chấp nhận lời gạ gẫm. Còn ở lại đây làm gì nữa? Vì một chút thiệt hại mà lão mất số tiền có thể mướn một người làm công suốt đời. Liệu lão phải chịu mất mát mãi ư? Liệu lão có phải cầm cây gậy ăn xin đuổi chó và hát dưới nhà thờ “Hỡi Đức Mẹ đồng trinh, hỡi thần thánh Nhà trời”? - Từ đó sẽ chẳng có cái gì cả, lão nghĩ, lão giơ tay ra bắt tay gã người Đức, nguyện đi theo thánh Michas, mang theo con gái và thế là bây giờ bơi sang nước Mĩ.

Nhưng chuyến đi đối với lão không diễn ra tốt đẹp như mong đợi. Ở Hamburg, người ta đã lấy đi của họ rất nhiều tiền; trên tàu họ phải ở trong một căn phòng lớn chung đụng nhau tại tầng dưới. Sự chòng chành của con tàu và sự vô tận của biển khơi khiến họ khiếp đảm. Không ai có thể hiểu lão và lão cũng không hiểu ai. Người ta quăng quật hai người họ như quăng quật một món đồ vật; người ta xô đẩy lão như hất hòn đá bên đường. Những người Đức đồng hành đã chế nhạo lão và Marysia. Vào bữa trưa, khi mọi người cùng với bát đĩa trên tay chen nhau đến chỗ đầu bếp chia thức ăn, người ta đẩy họ ra phía cuối, khiến họ nhiều lần đành chịu đói. Trên tàu này, lão cảm thấy tồi tệ, đơn độc, xa lạ. Ngoài sự che chở của Chúa, lão không cảm thấy sự che chở nào khác đối với mình. Bên cạnh cô con gái, lão làm ra vẻ hài lòng, mũ lão đội lệch, lão lệnh cho Marysia phải ngạc nhiên và bản thân mình cũng ngạc nhiên trước mọi thứ, song không còn tin vào điều gì nữa cả. Đôi lúc lão cảm thấy lo sợ, rằng có thể bọn “tà giáo” đó, cách mà lão vẫn gọi những kẻ đồng hành, sẽ ném hai người họ xuống nước, có thể người ta bắt lão phải thay đổi tín ngưỡng hoặc phải kí vào một tờ giấy, thí dụ như giấy bán linh hồn cho quỷ chẳng hạn!

Chính con tàu, thứ đang ngày đêm tiến về phía trước trên đại dương bao la, thứ đang chòng chành, đang gầm thét, đang làm nước nổi bọt, đang hít thở như một con rồng, còn đêm đến kéo theo sau mình bím tóc dài làm từ những tia lửa nhỏ, lão cảm thấy đó là một sức mạnh nào đó đáng nghi và vô cùng bẩn thỉu. Nỗi sợ hãi thời trẻ con, mặc dù lão không chịu thừa nhận, đang xiết chặt trái tim lão; bởi đó cũng là một người nông dân Ba Lan, khi bị tách ra khỏi quê hương tổ ấm của mình, thật sự chỉ là một đứa trẻ bất lực và thực sự chỉ trông chờ vào ý nguyện của Chúa. Bên cạnh đó, tất cả những gì lão nhìn thấy, những gì bao bọc quanh lão, không thể chứa đựng hết trong đầu óc lão; vì vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi lão ngồi đây, gần chỗ thắt nút vòng dây, cái đầu cúi xuống vì tiếng ngân vang của sự bấp bênh nặng nề và nỗi buồn rầu sâu lắng. Gió biển thổi ù ù bên tai lão và như nhắc lão từ “Lipince! Lipince!”, đôi lúc nó cũng rung lên như tiếng sáo ở Lipince; mặt trời nói: “Ông có khỏe không, ông Wawrzon ơi? Ông đang ở Lipince đấy à?”, nhưng chân vịt khoắng nước ngày càng dữ dội và ống khói cũng thở gấp gáp hơn, mạnh hơn, như thể hai con ác quỷ đang ra sức kéo lão ngày càng rời xa hơn Lipince.

Trong khi đó, bơi theo Marysia là những ý nghĩ và hồi ức khác, bơi theo sau cô như con đường làng đầy cát bụi hoặc như những chú chim hải âu bay sau con tàu. Thì đây những hồi ức đó, hôm đó là buổi tối mùa thu, cách ngày khởi hành không lâu, cô đi xuống giếng ở Lipince để lấy nước. Những ngôi sao đầu tiên đã lấp lánh trên bầu trời, cô kéo cần giếng và vừa kéo vừa hát: “Yasio cho ngựa uống nước - Kasia đi lấy nước” và cô cảm thấy nhớ nhung điều gì đó, giống như con chim én trước khi bay xa cất tiếng hót thảm thương... Sau đó từ sau rừng cây, từ trong bóng tối vang lên tiếng sáo kéo dài... Đó là Jasko Smolak, người coi ngựa, ra hiệu rằng đã nhìn thấy cây cần giếng đang bị kéo xuống và chốc nữa thôi từ trong bụi rậm anh ta sẽ đi đến. Mọi thứ hình như cũng sôi động hẳn lên, anh ta đến, nhảy từ trên yên ngựa xuống, lắc lư mái tóc dày như sợi gai, và giọng anh ấy nói với cô thì cô nhớ lại giống hệt như tiếng đàn. Cô nhắm nghiền mắt lại và có cảm giác rằng Smolak lại đang thì thầm với cô bằng giọng run rẩy:

- Khi bố em vẫn cứ ngoan cố, thì anh sẽ trả lại tiền cọc của chủ lâu đài, bán nhà, bán đàn gia súc và sẽ ra đi. Marysia của anh ơi, - anh nói - em đi đến chỗ nào thì anh sẽ biến thành con chim hạc bay trên không trung ở đó, sẽ thành con vịt bơi dưới nước, anh sẽ lăn như chiếc vòng vàng dọc đường làng, anh sẽ tìm em bằng được, người duy nhất của anh! Sao số phận anh lại phải sống thiếu em được? Em đến chỗ nào thì anh cũng sẽ đến đó; cái gì xảy ra với em thì cũng sẽ xảy ra với anh; chúng ta có cùng một cuộc sống và cùng một cái chết và anh thề với em trên miệng giếng này, nếu anh rời bỏ em thì Chúa sẽ từ bỏ anh. Marysia duy nhất của anh!

Vừa nhớ lại những lời nói đó, Marysia vừa như nhìn thấy cả giếng nước nọ, cả vầng trăng to đùng, đỏ tía nằm trên cánh rừng và cả Jasko như đang hiện ra trước mắt. Trong ý nghĩ đó, cô cũng cảm thấy nhẹ nhõm phần nào cùng một niềm vui lớn. Jasko là một thanh niên hăng hái, vì vậy cô tin rằng điều mà anh ta nói thì anh ấy sẽ thực hiện. Ôi, cô chỉ mong muốn rằng ngay giờ đây anh ở cạnh cô và cùng với cô nghe tiếng sóng biển. Được cùng ở với anh thì vui vẻ và sống động hơn nhiều, vì anh chẳng sợ ai và ở đâu cũng biết cách tự giải quyết vấn đề. Bây giờ anh đang làm gì ở Lipince, khi những bông tuyết đầu tiên đã rơi? Liệu anh có cầm rìu vào rừng, hay anh lo cho lũ ngựa, hoặc có thể người trong dinh đã phái anh đi đâu đó bằng xe trượt tuyết, hay đang khoét lỗ thủng trên băng ở hồ? Bây giờ anh đang ở đâu, hỡi người thân mến? Ở đây, cô gái nhìn rõ ràng Lipince như nó đang hiện ra trước mắt: tuyết kêu cót két trên đường, vầng đông đang ửng hồng giữa những cành cây khẳng khiu đen ngòm không lá, đàn quạ khoang kéo dài kêu quang quác từ cánh rừng đến tận làng, những đụn khói phát ra từ ống khói bay lên cao, cây đòn ở giếng nước đóng băng im lìm, còn ở phía xa là rừng cây, bắt đầu từ vầng dương đỏ thắm đến vùng đất ngập tuyết đằng kia.

Ôi! Bây giờ thì cô đang ở đâu, ý muốn của bố cô đã dẫn dắt cô đến đâu? Ở phía xa kia, khi hướng tầm mắt ra nhìn chỉ thấy nước là nước, chỉ thấy những đường nhăn nheo trên mặt đất xanh rờn và những luống cày gợn sóng, còn trên những cánh đồng nước vô tận nọ con tàu này như một cánh chim lạc lõng; bầu trời phía trên kia, cảnh trống vắng phía dưới này, tiếng ồn ào cực lớn giống như tiếng khóc của sóng, và cả tiếng hú gọi của gió, còn ở đằng kia, phía trước mũi tàu, có lẽ là mảnh đất thứ chín, có lẽ là tận cùng của thế giới.

Ôi anh Jasko khốn khó! Anh có theo kịp cô không, anh có là cánh chim đại bàng bay trên không trung, có là cá bơi dưới nước, ở Lipince anh có nhớ đến cô không?

Mặt trời từ từ ngả về phương tây và lặn xuống đại dương. Trên những lớp sóng nhăn nheo hiện ra một con đường mặt trời rộng lớn, kéo theo vệt vẩy vàng, thay đổi màu sắc, ánh lên, tỏa sáng, rực cháy và tắt ngấm ở đâu đó phía trời xa. Con tàu bơi vào dải băng sáng đó, bây giờ hình như đang đuổi theo vầng mặt trời trốn chạy. Làn khói bật ra từ ống khói trở nên đỏ lựng, những cánh buồm và những sợi dây ẩm ướt rực hồng, thủy thủ bắt đầu ca hát, trong khi đó thì quả cầu lửa mỗi lúc một lớn lên và mỗi lúc một rơi sâu xuống vực thẳm. Không lâu sau, chỉ còn nhìn thấy một nửa vầng mặt trời phía bên trên sóng, sau đó chỉ nhìn thấy những tia sáng, còn sau nữa trên cả phía trời tây chỉ còn lại một vầng ánh dương lớn và không còn nhận biết trong thứ ánh sáng đó, đến đâu thì kết thúc những lớp sóng ánh sáng, và bắt đầu bầu trời, không khí và nước, kể cả những thứ đã thấm ánh sáng, giờ đang tắt dần; đại dương chỉ gầm gừ bằng một thứ tiếng êm đềm, giống như đang thầm thì cầu kinh buổi tối.

Trong những giây phút ấy, tâm hồn như được chắp thêm đôi cánh và cái gì phải nhớ sẽ nhớ, cái gì cần yêu sẽ yêu say đắm, cái gì phải thương sẽ bay về với cái đó. Lão Wawrzon và Marysia cả hai đều cảm thấy rằng mặc dầu gió đưa họ về nơi ấy giống như đưa những chiếc lá khô, nhưng cái cây quê hương họ không phải là phương trời kia, nơi họ đang đi tới, mà là phương trời mà họ đã rời xa: đó là mảnh đất Ba Lan, mảnh đất sùng đạo, đung đưa cánh đồng, rậm rạp cánh rừng, tràn đầy lau sậy, đầy đồng cỏ với những khóm cúc vàng và nước lóng lánh bạc, đầy những đàn cò, chim én, những cây thánh giá ven đường, những lâu đài màu trắng nằm giữa rặng bồ đề; mảnh đất mà mỗi người khi lật chiếc mũ lưỡi trai xuống chân đều được chào mừng bằng câu: “Vinh danh Chúa!” và đáp lại: “Đời đời kiếp kiếp”, mảnh đất quyền quý, đó là người mẹ ngọt ngào nhất, người mẹ chính trực, người mẹ yêu thương hơn mọi thứ trên thế gian này. Vậy thì tại sao trái tim nông dân của họ trước đây không cảm nhận được, mà bây giờ mới thấy? Lão Wawrzon bỏ mũ xuống, ánh mặt trời chiều chiếu vào mái tóc bạc phơ; lão suy nghĩ, con người khốn khổ đó không biết liệu có nên nói cho Marysia điều mà lão cảm nhận được hay không; cuối cùng lão lên tiếng:

- Marysia ơi, bố thấy hình như có cái gì đó nằm lại đằng kia phía sau biển.

- Số phận nằm lại đó và tình yêu thương nằm lại đó. - Cô gái đáp lại nhỏ nhẹ, vừa nói vừa ngước cặp mắt lên như để cầu kinh...

Trong khi đó, trời đã tối thẫm. Hành khách bắt đầu đi xuống dưới boong tàu. Trên tàu lại diễn ra chuyển động khác thường. Sau buổi hoàng hôn đẹp không phải lúc nào cũng là một đêm tĩnh lặng, tiếng còi của sĩ quan chỉ huy liên tiếp vang lên, còn các thủy thủ thì không ngừng kéo sợi dây. Ánh hồng cuối cùng vừa tắt trên biển, cũng đồng thời ngay lúc đó từ dưới nước, làn sương mù dâng lên; những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời và biến mất. Sương mù dày đặc trước mắt, che lấp cả bầu trời, đường chân trời và cả con tàu. Chỉ còn nhìn thấy ống khói và chiếc cột buồm lớn ở giữa tàu; hình dáng các thủy thủ cũng thấy lờ mờ từ xa giống như những cái bóng. Một tiếng đồng hồ sau tất cả đều chìm ngập trong làn sương trắng, thậm chí cả chiếc đèn pha treo trên đỉnh cột buồm, cả những tia lửa do ống khói phun ra.

Con tàu hoàn toàn không còn lắc lư chòng chành nữa. Ai đó sẽ nói rằng sóng đã yếu đi và tràn ra dưới sức nặng của sương mù.

Màn đêm đã buông xuống hoàn toàn mù mịt và câm lặng. Bỗng nhiên giữa cảnh tĩnh mịch đó từ nơi xa tít tắp trên đường chân trời bỗng vang lên những tiếng rầm rì kì lạ. Nó giống như tiếng thở nặng nề phát ra từ một lồng ngực khổng lồ đang tiến đến gần. Đôi lúc, có cảm giác như ai đó đang lên tiếng gọi từ trong bóng tối, sau đó vang lên cả dàn hợp xướng những giọng nói xa vời, vô cùng ai oán và đang khóc lóc bi thương. Những âm thanh ấy phát ra từ bóng đêm và từ vô cực hướng về phía con tàu.

Những người thủy thủ khi nghe tiếng ồn ào ấy nói rằng đó là do bão đang triệu tập gió từ địa ngục tới.

Những lời cảnh báo đó hiện ra ngày càng rõ rệt. Thuyền trưởng mặc áo choàng bằng cao su có mũ trùm đầu đứng trên cầu tàu cao nhất; viên sĩ quan chiếm vị trí của mình phía trước chiếc địa bàn được chiếu sáng. Trên boong tàu không còn một hành khách nào. Lão Wawrzon và Marysia cũng đã đi xuống phòng chung ở tầng dưới. Quang cảnh trong đó lặng lẽ. Ánh sáng của những ngọn đèn lắp ở mái vòm thấp tỏa ra yếu ớt nhạt nhòa soi vào bên trong và soi vào đám dân di cư đang ngồi trên những chiếc giường kê cạnh tường. Căn phòng lớn tối tăm, đúng như phòng khách hạng tư. Trần của nó gần như nối với thành tàu, những chiếc giường lắp ở đầu mép giữa các lối đi trông giống chiếc hang tối hơn là giường ngủ, còn cả căn phòng tạo cho ta cảm giác đó là một căn hầm lớn. Không khí trong đó pha trộn đầy mùi vải đay khét lẹt, mùi những sợi dây cáp của tàu, mùi dầu máy và ẩm ướt. Làm sao mà so sánh được với những phòng đẹp đẽ hạng nhất! Đi trong những phòng đó dù chỉ hai tuần cũng làm cho phổi bị ảnh hưởng vì không khí độc hại, da mặt bị mốc trắng và thường sẽ dẫn đến bệnh hoại huyết. Lão Wawrzon và cô gái mới đi được bốn ngày, nhưng giá như ai đó so sánh cô Marysia làng Lipince xưa kia, khỏe khoắn, ửng hồng, với cô gái hốc hác vì bệnh tật hiện giờ, thì người đó sẽ không nhận ra cô. Ông già Wawrzon cũng trở nên vàng vọt như sáp nến, những ngày đầu tiên hai người họ hoàn toàn không đi lên boong tàu, họ nghĩ rằng không được phép. Mà thực ra họ cũng chẳng biết cái gì được phép làm, cái gì không. Họ gần như không dám nhúc nhích, hơn nữa họ cũng sợ rời xa đồ đạc của mình. Và giờ đây không chỉ họ ngồi, mà tất cả mọi người đều ngồi cạnh những người thân của mình. Những mối liên kết dân di cư đã gắn cả phòng lại với nhau, điều đó càng làm nôi bật sự hỗn độn và tình cảnh buồn thảm của căn phòng. Chăn đệm, quần áo, lương thực dự trữ, các đồ dùng khác nhau và nồi niêu xoong chảo để lẫn lộn với nhau, vứt thành từng đống lớn nhỏ trên khắp nền khoang. Trên đó, những người di cư ngồi, gần như toàn người Đức cả. Người thì hít thuốc lá, kẻ lại ngậm tẩu. Những làn khói hắt từ trần thấp xuống tạo thành những dải khói dài che lấp cả ánh đèn. Vài đứa trẻ khóc ở góc phòng, song tiếng ồn ào thông thường bỗng ngừng lại, sương mù đan vào lòng mọi người một nỗi buồn, nỗi lo sợ và sự bất an mơ hồ. Những người di cư dày dạn kinh nghiệm biết rằng sắp có bão lớn. Hơn nữa cũng không ai còn không biết rằng nguy hiểm, thậm chí cái chết đang đến gần. Lão Wawrzon và Marysia không thể đoán biết được bất cứ điều gì, mặc dù có khi ai đó trong giây lát hé mở cửa ra, có thể nghe thấy rất rõ rệt cả những giọng nói báo điềm dữ nọ từ xa, từ vô cực vọng đến.

Hai người họ ngồi phía cuối phòng, ở góc khuất nhất, vì vậy cách mũi tàu không xa. Sự chòng chành ở đó cảm nhận rất rõ, vì vậy những người bạn đường đã xô đẩy họ đến đó. Ông già đang nhai bánh mì mang theo từ Lipince, còn cô gái cảm thấy buồn vì không biết làm gì liền tết tóc để chuẩn bị đi ngủ.

Nhưng dần dần tất cả đều im lặng, chỉ còn tiếng trẻ khóc đứt quãng, điều đó khiến cô ngạc nhiên.

- Tại sao bọn người Đức hôm nay ngồi yên lặng như vậy nhỉ? - Cô lên tiếng hỏi.

- Làm sao tao biết được! - Lão Wawrzon trả lời như thường lệ - Chắc là ngày lễ của họ hoặc ngày gì đó...

Bỗng dưng con tàu rung động mạnh, giống hệt như giật nảy mình trước một cái gì đáng sợ. Nồi niêu xoong chảo nằm cạnh nhau kêu lên thảm khốc, ánh đèn nhảy rung lên và phát ra tia sáng mạnh hơn, vài giọng nói sợ hãi lên tiếng hỏi:

- Cái gì thế? Cái gì thế?

Nhưng không có câu trả lời. Lần rung động thứ hai, mạnh hơn lần trước làm con tàu chồm lên; mũi tàu bỗng nhiên nâng cao và cũng bỗng nhiên chìm xuống, đồng thời một làn sóng đánh mạnh vào chiếc cửa sổ tròn ở một bên thành tàu.

- Bão đang đến! - Marysia thì thầm bằng giọng sợ hãi.

Trong khi đó, có cái gì đó nổi lên ầm ầm ở gần con tàu, giống như cánh rừng già bỗng nhiên bị gió lốc nhai nghiến ngấu; một cái gì đó rống lên, giống như cả đàn chó sói cùng gầm rống. Gió đập lần một, rồi lần hai, đánh vào sườn tàu, sau đó xoay con tàu một vòng, nhấc nó lên cao và dìm xuống vực sâu. Các thanh dầm ngang bắt đầu kêu cót két, nồi niêu xoong chảo, tay nải đồ đạc, gói bọc và dụng cụ bay tứ tung trên nền, hất từ góc nọ sang góc kia. Vài người ngã xuống, lông chim trong các đệm gối bay khắp không trung, còn thủy tinh trong những chiếc đèn kêu lên rèn rẹt.

Nổi lên tiếng ồn ào, tiếng động ầm ầm, tiếng nước tràn qua khoang tàu, tiếng giằng xé của con tàu, tiếng thét của phụ nữ và tiếng khóc của trẻ con, tiếng đuổi theo các đồ vật, còn giữa những tiếng động hỗn độn và ồn ào ấy chỉ nghe thấy tiếng hú kinh hồn của gió và thỉnh thoảng tiếng bước chân chạy ầm ầm trên boong tàu của các thủy thủ.

- Ôi, Thánh đồng trinh Czestochowa! - Marysia thầm thì kêu.

Mũi tàu, nơi hai người đang ngồi bay lên cao, sau đó lại hạ xuống như một người điên rồ. Mặc dù đã nắm chắc vào thành giường, nhưng họ bị đánh bật đi đến mức nhiều lúc đập người vào tường. Tiếng gầm của sóng tăng lên, tiếng cót két của trần cũng trở nên kinh hoàng đến mức có cảm giác rằng chỉ chốc nữa thôi cả những thanh dầm và ván gỗ cũng sẽ vỡ toác ra kêu răng rắc.

- Hãy giữ chắc vào, Marysia ơi! - Lão Wawrzon hét to để át tiếng gầm thét của bão, nhưng ngay sau đó nôi lo sợ đã bóp nghẹt cả họng ông già và những người khác nữa.

Trẻ con không dám khóc, phụ nữ không gào; những lồng ngực chỉ còn biết hít thở vội vã, còn các bàn tay thì giữ chặt vào những đồ vật bất động khác nhau.

Sự điên cuồng của cơn bão tăng lên liên tục. Thiên tai hoành hành, sương mù trộn lẫn vào bóng đêm, mây pha trộn với nước, gió lốc với bọt; những đợt sóng đánh vào tàu giống như đạn đại bác và quăng quật nó sang phải, sang trái và ném nó từ trên mây xuống đến tận đáy biển. Đôi lúc những cái bờm đầy bọt của các làn sóng lớn trườn qua cả thân tàu; một khối lượng nước khổng lồ sôi lên hỗn độn kinh hoàng.

Những ngọn đèn dầu hỏa bắt đầu tắt trong phòng. Mỗi lúc một tối hơn, lão Wawrzon và Marysia có cảm giác rằng thời khắc tối tăm chết chóc đã điểm.

- Marysia ơi! - Người đàn ông bắt đầu bằng giọng nói ngắt quãng, do thiếu không khí để thở - Marysia ơi, hãy rời xa ta ra, vì ta đã làm con gục ngã. Giờ khắc cuối cùng của chúng ta đã điểm. Chúng ta sẽ không được nhìn thế giới bằng đôi mắt tội lỗi của mình nữa. Chúng ta không thể xưng tội, cũng không thể phỉ báng, không thể nằm xuống đất, từ dưới nước cũng không thể đi kiện ai, thật khốn khổ.

Còn khi lão nói như vậy thì Marysia hiểu rằng đã không thể cứu vãn được nữa rồi. Nhiều ý nghĩ khác nhau bay qua đâu óc cô, còn trong lòng thì có một cái gì đó đang gào thét:

- Jasko ơi, Jasko yêu quý ơi, ở Lipince anh có nghe thấy em không?

Và nỗi tiếc nuối dâng lên bóp nghẹt tim cô đến mức cô bắt đầu khóc nức nở rất to. Tiếng khóc nức nở vang lên trong căn phòng, nơi tất cả mọi người đều im lặng giống như trong đám tang. Một tiếng hét vang lên từ góc phòng: Still! *, nhưng lập tức khựng lại, giống như hoảng sợ chính tiếng nói của mình. Thủy tinh trên đèn lại rơi xuống đất, tia sáng tắt ngấm. Mọi thứ càng trở nên tối tăm hơn. Mọi người tụ tập lại một góc, để được gần nhau hơn. Mối lo ngại ngự trị khắp nơi, bỗng nhiên từ giữa sự tĩnh lặng vang lên giọng nói của lão Wawrzon:

Still (nguyên văn tiếng Đức): Im lặng (ND).

- Xin Chúa đoái thương.

- Xin Chúa Jesus đoái thương. - Marysia vừa đáp lại vừa nức nở.

- Chúa Jesus xin hãy nghe chúng con!

- Chúa từ trên trời ơi, Chúa ơi, hãy đoái thương chúng con! - Cả hai người đều cầu kinh. Trong căn phòng tối giọng của ông già và tiếng khóc đứt quãng của cô gái đáp lại vang lên một cách trịnh trọng hết sức lạ kì. Một số người di cư để lộ đầu mình ra. Dần dần tiếng khóc của cô gái ngừng lại, những giọng nói trở nên bình thản hơn, trong trẻo hơn. Từ bên ngoài đáp lại họ là tiếng bão gào thét.

Bỗng một tiếng thét vang lên giữa những người đứng gần cửa ra vào. Đợt sóng lớn ập vào cánh cửa và tràn vào căn phòng: nước sủi bọt tràn vào mọi ngóc ngách; phụ nữ bắt đầu kêu thét và giữ chặt lấy giường. Mọi người đều cho rằng đã đến giờ kết thúc.

Sau đó giây lát, viên sĩ quan trực với chiếc đèn pin trong tay bước vào, cả người ông ta ướt đẫm và ửng đỏ. Ông an ủi đám phụ nữ bằng vài lời giải thích rằng nước tràn vào chỉ là tình huống bất ngờ, sau đó bổ sung rằng tàu đang đi trên biển khơi, tình trạng bất an không phải là lớn. Tình trạng như vậy kéo dài một, hai tiếng đồng hồ. Bão gầm rú càng lúc càng dữ tợn. Con tàu kêu lên ken két, ngập mũi xuống, lật sang bên nọ bên kia, nhưng nó không chìm. Mọi người tương đối yên tâm; một số đi ngủ. Lại mấy tiếng đồng hồ nữa trôi qua; ánh sáng mờ nhạt bắt đầu len lỏi qua ô cửa sổ ở tầng trên rọi xuống căn phòng tối tăm. Ngày bắt đầu trên đại dương nhợt nhạt, như vẫn đang còn sợ hãi, buồn rầu, tối tăm; song cũng mang đến một sự động viên và hi vọng. Sau khi lầm bầm những đoạn kinh mà mình thuộc lòng, lão Wawrzon và Marysia bò lên giường mình và thiếp đi mê mệt.

Mãi đến khi nghe tiếng chuông gọi dậy ăn sáng, họ mới tỉnh giấc. Tuy nhiên họ không thể ăn nổi. Đầu óc họ nặng như chì; ông già cảm thấy khó chịu hơn cô gái. Trong đầu óc già nua của lão giờ đây không thể chứa đựng được bất cứ thứ gì. Gã người Đức, kẻ gạ gẫm lão đi Mĩ cũng có nói phải vượt biển, nhưng không bao giờ lão nghĩ rằng phải qua biển nước lớn đến như vậy, rằng phải đi chừng ấy ngày đêm. Lão nghĩ rằng sẽ đi bằng phà, giống như nhiều lần trong đời lão đã từng vượt qua. Giá như biết rằng biển lớn đến chừng ấy thì có lẽ lão đã ở lại Lipince. Ngoài ra còn một ý nghĩ nữa đang ngự trị trong lão một cách bất an: đó là liệu linh hồn lão và con gái lão có bị mất đi hay không, liệu đối với một tín đồ Công giáo ở Lipince có phải là tội lỗi khi làm náo động đến Chúa và đi xuống đáy sâu như vậy, qua đó phải đi đến ngày thứ năm mà chưa đến bờ bên kia, nếu như nói chung là có bờ ở bên kia? Những nỗi hoài nghi của lão và nỗi sợ hãi còn lớn lên hơn nữa trong suốt bảy ngày; cơn bão còn hoành hành điên cuồng thêm bốn mươi tám giờ nữa, sau đó rồi nó cũng chấm dứt. Lão lại cùng với Marysia mạnh dạn đi lên boong tàu. Khi nhìn thấy những đợt sóng lớn đen ngòm vẫn tiếp tục tràn lên, nhìn thấy những núi nước kéo đến đổ ập vào tàu và những vực thẳm sâu không đáy, lão lại nghĩ rằng có lẽ bàn tay Chúa hoặc một sức mạnh nào đó khác thường, chứ không phải sức người đã cứu họ thoát ra khỏi bờ vực thẳm.

Cuối cùng, thời tiết cũng đẹp trở lại. Ngày lại ngày trôi qua mà phía trước mũi tàu vẫn chỉ nhìn thấy vực thẳm và vực thẳm không đáy, đôi lúc có màu xanh lá cây, đôi chỗ màu da trời hòa lẫn với bầu trời. Trên bầu trời ấy đôi khi có những đám mây nhỏ trắng sáng lượn lờ, rồi buổi tối trở nên đỏ ửng nằm phơi mình ở phía tây xa thẳm. Tàu đuổi theo chúng trên mặt nước. Lão Wawrzon thực tình nghĩ rằng có lẽ biển hoàn toàn không bao giờ kết thúc, nhưng lão cũng dũng cảm và quyết định hỏi.

Một lần, lão bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống và sau khi nhún nhường cúi đầu trước chân người thủy thủ đang đi ngang qua và lên tiếng:

- Thưa ngài quyền quý, chúng ta còn đi lâu nữa không ạ?

Thật ngạc nhiên! Thủy thủ nọ không bật cười, mà còn đứng lại và lắng nghe. Trên khuôn mặt đỏ ửng nhăn nheo sóng gió của anh ta có thể nhận thấy anh đang cố nhớ lại và những hồi ức từ xa xôi ấy không thể ngay lập tức tạo thành một ý thức trong đầu... Sau giây lát, anh ta hỏi:

- Cái gì?

- Còn bao lâu nữa chúng ta sẽ đến đất liền, thưa ngài quyền quý?

- Hai ngày! Hai ngày nữa! - Người thủy thủ nhắc lại một cách khó khăn, vừa nói vừa giơ hai ngón tay ra.

- Cảm ơn ông vô cùng.

- Ông từ đâu đến?

- Từ Lipince.

- Lipince là cái gì?

Marysia, kẻ đi đến trong lúc cuộc nói chuyện diễn ra, đỏ ửng cả mặt mày, nhưng sau khi bẽn lẽn mở to đôi mắt ra nhìn người thủy thủ, liền lên tiếng bằng giọng nhỏ nhẹ, giống như các cô gái làng thường nói:

- Chúng tôi ở gần Poznan, thưa ngài...

Người thủy thủ bắt đầu vừa nghĩ ngợi, vừa nhìn lên đầu đinh bằng đồng thau nối giữa mạn tàu; sau đó nhìn lên cô gái, nhìn lên mái tóc sáng như lanh của cô và một cái gì đó, giống như sự mủi lòng hiện lên trên khuôn mặt nứt nẻ của anh ta.

Sau giây lát anh trịnh trọng lên tiếng:

- Tôi đã từng sống ở Gdansk... Tôi hiểu tiếng Ba Lan... Tôi là người Kashuba... người anh em của các bạn, nhưng đó là từ ngày xưa!... Jetzt ich bin Deutsch... *

Jetzt ich bin Deutsch... (nguyên văn tiếng Đức): Bây giờ tôi là người Đức... (ND).

Sau khi nói hết câu, anh ta nhấc đầu dây mà trước đây vẫn nắm trong tay lên, quay người lại và cất tiếng hò theo kiểu thủy thủ: “Ho! Ho! O!”, rồi bắt đầu kéo dây...

Kể từ đó, cứ mỗi lần lão Wawrzon và Marysia có mặt trên boong tàu, nhìn thấy họ, anh đều mỉm cười với Marysia với vẻ thân thiện. Họ cũng tỏ ra vô cùng vui mừng, vì đã có một tâm hồn sống để ý đến họ trên con tàu Đức này. Hơn nữa, con đường cũng không còn dài nữa. Sáng ngày thứ Hai, khi họ lên boong tàu, một cảnh tượng lạ đập vào mắt họ. Họ nhìn thấy từ phía xa một cái gì đó chòng chành trên biển, còn khi con tàu đến gần vật đó, thì họ nhận ra đó là một cái thùng phi lớn màu đỏ mà sóng đập vào êm dịu: ở phía xa lại có một thùng đỏ giống như vậy, rồi cái thứ ba và cái thứ tư nữa. Không khí và nước tương đối mờ mịt, nhưng không quá đáng, thường có màu bạc và êm dịu, nước không sâu lắm, không dào dạt, song khi hướng ánh mắt lên nhìn thì ngày càng thấy nhiều thùng phi dập dờn trên biển. Chim chóc cánh trắng và đen, từng đàn bay đến phía sau tàu và kêu lên inh ỏi. Cảnh tượng trên boong tàu nhộn nhịp hẳn lên. Thủy thủ mặc áo nẹp mới; người thì rửa boong, kẻ thì lau chùi những mối nối bằng đồng thau giữa mạn tàu và cửa sổ, trên cột buồm treo một lá cờ đuôi nheo trắng, còn ở đuôi tàu gắn một lá cờ khác lớn hơn.

Sự sôi động và niềm vui bao trùm lên mọi hành khách. Tất cả những gì còn sống đều chạy lên boong tàu; một số người mang cả lên boong các bao tải và bắt đầu tháo nút buộc ra.

Nhìn thấy tất cả những thứ đó, Marysia kêu lên:

- Chắc chắn chúng ta đã đến đất liền rồi.

Tinh thần phấn khởi rạo rực trong cô và lão Wawrzon. Cứ như thế cho đến lúc ở phương tây hiện ra trước tiên là đảo Sandy Hook và đảo thứ hai, với một tòa nhà cực lớn đứng sừng sững ở ngay chính giữa, còn ở đằng xa, hình như sương mù đang dâng lên dày đặc, cũng có lẽ là mây, hoặc khói gì đó bay thành từng dải trên mặt biển hỗn độn, không rõ ràng, xa tít tắp, đục ngầu, không hình dạng... Nhìn thấy cảnh tượng đó, mọi người đều ồn ào hẳn lên; tất cả đều chỉ trỏ bằng tay, con tàu cũng huýt còi thất thanh như tỏ ra vui mừng.

- Cái gì thế nhỉ? - Lão Wawrzon hỏi.

- New York. - Gã người Kashuba đứng bên cạnh đáp.

Ngay lúc đó, những làn khói bắt đầu như tản mát đi rồi mất hút, và trên nền các đám mây đó, khi con tàu xé làn nước bạc tiến tới, bắt đầu xuất hiện hình dáng những ngôi nhà, mái ngói, ống khói; những tháp nhọn hoắt càng lúc càng hiện lên rõ rệt trên nền xanh thẳm. Bên cạnh tháp là những ống khói cao ngất của các nhà máy, trên ống khói là các đám khói vật vờ như những chùm lông tơ trên cao. Ở dưới phía trước thành phố là một rừng cột buồm, còn trên đỉnh của chúng là hàng ngàn những lá cờ đuôi nheo sặc sỡ, đung đưa theo gió biển như những bông hoa trên đồng cỏ. Con tàu tiến ngày càng gần hơn, một thành phố tuyệt vời như nổi lên từ dưới nước. Một niềm vui lớn xen lẫn cả sự ngạc nhiên trào dâng trong lão Wawrzon; lão bỏ mũ xuống, mở to miệng và chăm chú nhìn, sau đó nói với cô gái:

- Marysia ơi!

- Ôi, Chúa ơi!

- Con có nhìn thấy không?

- Con nhìn thấy.

- Có ngạc nhiên không?

- Có ngạc nhiên.

Nhưng lão Wawrzon không chỉ tỏ ra ngạc nhiên, mà đã líu lưỡi. Khi nhìn thấy những bờ xanh rờn ở cả hai phía của thành phố và những vành thẫm màu của các công viên, lão nói tiếp:

- Ôi! Vinh danh Chúa! Giá như người ta cho chúng ta đất ngay gần thành phố với đồng cỏ này nhỉ, lúc ấy thì đi chợ thật gần. Khi chợ phiên tới: lùa bò, lùa lợn đến và thế là tha hồ bán. Dân chúng ở đây rõ thật là đông đúc. Ở Ba Lan mình là nông dân, còn ở đây sẽ là ông chủ...

Trong giây phút đó, công viên Dân tộc tuyệt vời, dài tít tắp đã hiện ra ngay trước mắt lão. Lão Wawrzon, sau khi nhìn thấy công viên nọ cùng các khóm cây, lại nói:

- Tôi xin cúi đầu trước ngài ủy viên hội đồng đáng kính, xin phép nói thẳng ra rằng, chỉ cần cho tôi hai mẫu rừng kia thôi, còn lại tôi sẽ gom đủ. Khi là của thừa kế thì đó là của thừa kế. Gã người làm cùng với cây cối sẽ được phái vào thành phố buổi sáng. Vinh danh Chúa tối thượng, bởi tôi thấy rằng gã người Đức không lừa dối...

Marysia cũng cảm thấy như có cặp vợ chồng đang mỉm cười và chính bản thân cô không hiểu tại sao lại nảy sinh trong đầu bài hát mà hồi ở Lipince các cô gái chưa chồng trong đám cưới thường hát cho các chàng rể nghe:

Anh đã làm gì, chàng rể?

Anh đã làm gi, chàng rể?

Cả gia tài thừa kế của anh

Cả mũ mãng và y phục kia.

Liệu cô có ý định hát một bài gì đó giống như vậy cho anh chàng Jasko khốn khổ nghe, khi anh đến đây với cô, và lúc đó cô đã là một bà chủ giàu có?

Trong khi đó, một tàu nhỏ ở bộ phận kiểm dịch bơi đến chỗ con tàu. Bốn, năm người leo lên boong. Họ bắt đầu các cuộc đối thoại và hỏi han. Sau đó không lâu, tàu thứ hai từ chính thành phố bơi đến, mang theo những nhân viên khách sạn và người cho thuê nhà, người dẫn đường, người đổi tiền, nhân viên đường sắt: tất cả đều hò hét váng trời, xô đẩy nhau, lượn lờ khắp boong tàu.

Lão Wawrzon và Marysia như lọt vào giữa chiếc cối xay bột và không biết phải làm gì.

Gã người Kashuba khuyên ông già đổi tiền và hứa là không để lão bị lừa, vì vậy lão Wawrzon đã nghe theo. Với những thứ mà lão có, lão nhận được bốn mươi bảy đô la bằng bạc. Trước khi mọi chuyện đó diễn ra, con tàu đã tiến gần tới thành phố đến mức không chỉ nhìn thấy những ngôi nhà, mà còn thấy người đứng trên các đại lộ, sau đó tàu cứ từng giây từng phút vượt qua các tàu lớn nhỏ khác nhau, cuối cùng tiến sát đến cầu tàu và vào bến hẹp của cảng.

Cuộc hành trình kết thúc.

Mọi người bắt đầu đổ ra khỏi tàu giống như đàn ong rời tổ. Trên chiếc cầu gỗ hẹp đặt giữa mạn tàu và bờ, đám đông đầy màu sắc lần lượt vượt qua: trước tiên là hạng nhất, sau đó hạng hai, cuối cùng là những người đi khoang dưới, người bốc vác hàng hóa. Khi lão Wawrzon và Marysia bị đám đông xô đẩy nhích gần tới mạn tàu thì gã người Kashuba cũng xuất hiện. Hắn xiết chặt tay lão Wawrzon và nói:

- Người anh em, chúc may mắn! Và cả cô nữa, cô gái! Chúa phù hộ cho các người.

- Thưa ngài, Chúa sẽ trả ơn ngài! - Cả hai cùng lên tiếng đáp, nhưng không có thời gian tiễn biệt nhau lâu.

Đám đông xô đẩy họ đến chiếc cầu gỗ nghiêng và giây lát sau, họ đã có mặt ở căn nhà hải quan rộng lớn.

Nhân viên hải quan mặc chiếc áo choàng dài màu thẫm với ngôi sao bạc khám xét đồ đạc của họ, sau đó hét to: All right, và chỉ ra phía cửa. Họ bước ra và đi trên đường phố.

- Bố ơi, thế chúng ta làm gì bây giờ? - Marysia lên tiếng.

- Chúng ta phải chờ. Gã người Đức nói là ngay sau đây sẽ có người của chính phủ tới và họ sẽ hỏi về chúng ta.

Vì vậy, họ đứng ở dưới chân tường chờ viên chức của chính phủ tới. Bao bọc xung quanh họ là tiếng ồn ào của thành phố rộng lớn, không quen biết. Chưa bao giờ họ nhìn thấy một cái gì giống như thế. Các đường phố chạy thẳng tắp, rộng thênh thang, còn dọc theo phố xá là những đám người đông như trong phiên chợ; ở giữa là các cỗ xe ngựa có mui, xe buýt, xe vận tải. Quanh họ là thứ tiếng nói kì quặc, lạ lùng, những tiếng hét của các công nhân và người mua bán. Thỉnh thoảng, đám người đen kịt với những cái đầu rất lớn và mái tóc xoăn tít đi ngang qua họ. Nhìn thấy đám người ấy, lão Wawrzon và Marysia làm dấu thánh giá. Thành phố này đối với bố con họ thật kì lạ, thật ồn ào náo nhiệt, đầy tiếng còi huýt của các đầu máy, tiếng ầm ầm của xe cộ và tiếng hò hét của con người. Mọi người ở đó đều chạy rất nhanh, giống như đang đuổi theo ai đó hoặc chạy trốn trước một người nào đó, cồn trong đám người đông như kiến ấy thì dân chúng ra sao, những khuôn mặt họ kì lạ thế nào; người thì đen, kẻ thì màu ô liu, kẻ lại đỏ au. Đúng ở chỗ họ đứng, gần cảng, người đi lại tấp nập hơn cả; từ những chiếc tàu này, người ta khuân đồ đạc xuống và mang chất lên những chiếc tàu khác, xe cộ chốc chốc lại vào ra, xe cút kít kêu ầm ầm trên cầu gỗ, sự hỗn độn và nhốn nháo diễn ra như ở nhà máy cưa.

Cứ như vậy, tiếng đồng hồ đầu tiên và thứ hai trôi qua, hai người họ vẫn đứng dưới tường chờ người của ủy ban đến.

Người nông dân với mái tóc dài trắng phau, trong chiếc mũ lưỡi trai hình chú cừu và cả cô gái làng Lipince, với chiếc áo màu xanh thẫm, chuỗi hạt đeo ở cổ đã trở thành hình ảnh lạ lùng trên bờ biển nước Mĩ, tại thành phố New York.

Nhưng mọi người đi qua họ thậm chí không thèm nhìn. Ở đó người ta không ngạc nhiên trước bất kì khuôn mặt nào cũng như cách ăn mặc nào.

Lại một tiếng đồng hồ nữa trôi qua. Bầu trời phủ đầy mây, bắt đầu có mưa tuyết, từ mặt nước một cơn gió ẩm và lạnh kéo đến...

Họ vẫn đứng chờ người của ủy ban.

Bản tính tự nhiên của người nông dân là kiên nhẫn, song có một cái gì đó nặng nề bắt đầu nảy sinh trong tâm hồn họ.

Ở trên tàu họ đơn độc, giữa những kẻ xa lạ và cảnh hoang vắng của nước, họ cảm thấy tồi tệ và sợ hãi. Họ cầu Chúa, mong Người dẫn dắt họ như những đứa trẻ lạc lõng vượt qua đáy biển sâu thẳm. Họ nghĩ rằng chỉ cần chân họ chạm vào mặt đất thì sự rủi ro của họ sẽ kết thúc. Giờ đây họ đã đến nơi, đang có mặt giữa thành phố khổng lồ, nhưng trong thành phố ấy, giữa cảnh tượng những con người ồn ào, họ bỗng cảm thấy mình trở nên cô đơn hơn và sợ hãi hơn khi còn ở trên tàu.

Người của ủy ban không đến. Họ sẽ bắt đầu thế nào nếu như người kia hoàn toàn không đến, nếu như gã người Đức đánh lừa họ?

Trước ý nghĩ lo sợ về điều đó, trái tim khốn khổ của người nông dân run rẩy. Họ phải làm gì đây? Chỉ còn cách chết.

Trong khi đó, gió lùa qua quần áo họ, mưa làm họ ướt sũng.

- Marysia ơi, con có lạnh không? - Lão Wawrzon hỏi.

- Lạnh lắm, bố ơi. - Cô gái đáp.

Đồng hồ của thành phố lại điểm thêm một tiếng nữa. Trời đã tối đen. Những chuyển động ở cảng đã dừng lại, trên các phố người ta đã thắp đèn đường: một biển ánh sáng rậm rạp sáng bừng lên trong toàn thành. Công nhân từ cảng cất giọng khàn khàn bài Yankee Doodle , và lũ lượt kéo thành từng đám người lớn nhỏ đi về thành phố. Đại lộ dần dần vắng hẳn người qua lại. Ngôi nhà hải quan đóng cửa.

Họ vẫn đứng chờ người của ủy ban.

Cuối cùng, màn đêm đã buông xuống và bến cảng trở nên lặng lẽ. Thỉnh thoảng chỉ có những ống khói đen ngòm của các con tàu kêu phì phì phun ra những luồng ánh sáng của các tia lửa rồi tắt ngấm trong màn đen, hoặc chỉ có tiếng sóng vỗ ì oạp vào đại lộ lát đá. Đôi lúc vang lên tiếng hát của một thủy thủ say đang trên đường trở về tàu, ánh sáng của những ngọn đèn trong sương mù tỏa ra yếu ớt. Họ vẫn chờ đợi.

Cho dù không muốn chờ nữa thì họ biết đi đâu, làm gì, xoay xở ở đâu, ở đâu có thể sưởi ấm những cái đầu mệt mỏi? Cái lạnh càng lúc càng tác động vào họ nặng nề hơn, họ bắt đầu bị cái đói hành hạ. Giá như có một mái nhà che đầu họ, vì họ đã bị ướt đến áo sơ mi. Ôi! Người của ủy ban không đến và sẽ không đến, bởi làm gì có những người của ủy ban như vậy. Gã người Đức là nhân viên của chiến dịch vận chuyển, đếm số người nhận hoa hồng và không biết gì hơn nữa.

Lão Wawrzon cảm thấy chân mình lung lay chới với, rằng có một sức nặng rất khủng khiếp đang đè lão xuống đất, rằng có lẽ cơn giận dữ của Chúa đang treo lơ lửng trên đầu lão.

Lão chịu đựng và chờ đợi, như một người nông dân cam chịu. Giọng nói của cô gái run rẩy vì giá rét đánh thức lão thoát khỏi cơn choáng váng.

- Bố ơi!

- Im đi nào! Không ai có lòng nhân từ đối với chúng ta!

- Chúng ta quay về Lipince đi...

- Mày đi xuống biển mà tự tử...

- Chúa ơi! Chúa ơi! - Marysia thầm thì khe khẽ.

Lão Wawrzon vợi bớt nỗi đau.

- Ôi, đứa con côi cút, ôi con người khốn khổ!... Con chỉ cần Chúa đoái thương đến đứa con của con thôi...

Nhưng cô đã không nghe được tiếng lão. Sau khi tựa đầu vào tường, cô nhắm nghiền mắt lại. Giấc mơ kéo đến, giấc mơ ngắt quãng, nặng nề, nóng bỏng, và trong giấc mơ như có bức tranh lồng trong khung kính hiện ra: làng Lipince và một cái gì đó như bài hát của anh chàng chăn ngựa Jasko:

Nàng đã làm gì, cô dâu?

Nàng đã làm gì, cô dâu?

Cả gia tài thừa kế của cô

Và vòng hoa cửu lí hương.

Ánh bình minh đầu tiên trên cảng New York hắt xuống nước, hắt lên các cột buồm và lên tòa nhà hải quan.

Trong ánh sáng nhợt nhạt đó có thể nhận ra hình dạng hai người đang ngủ dưới chân tường, với khuôn mặt nhợt nhạt tím tái, dính đầy tuyết, bất động giống như đã chết. Nhưng trong quyển sách số phận rủi ro của họ, đó mới chỉ là những trang đầu tiên được lật ra, số phận tiếp theo chúng tôi sẽ kể sau đây.

⚝ II ⚝ Ở NEW YORK

Từ đường phố rộng rãi Broadway ở New York đi về phía cảng theo hướng quảng trường Chattam và vượt qua hơn một chục phố kế tiếp, du khách sẽ bắt gặp phần thành phố càng lúc càng nghèo hơn, càng hoang phế và tối tăm hơn. Các đường phố càng lúc càng trở nên nhỏ hẹp hơn. Các ngôi nhà có lẽ được những người Hà Lan lập trại ấp xây dựng đã ngả màu và xiêu vẹo cùng với thời gian: mái nhà lồi lõm, vôi vữa lở từ trên tường xuống, chính các bức tường cũng ngập sâu xuống đất đến mức các cửa sổ ở tầng dưới chỉ hở ra phần trên so với mặt đường phố. Các đường cong kì lạ ở đây đã thay chỗ cho những đường thẳng được ưa chuộng ở Mĩ; các mái nhà và tường xây không được căng bằng dây tụ tập lại một chỗ và những viên ngói lợp nhà gợn sóng xếp thành tầng chồng chất lên nhau.

Vì phần thành phố này nằm trên bờ biển nên vũng nước ở các ổ gà trên đường phố hầu như không lúc nào cạn, còn các bãi đất nhỏ xây dựng kín xung quanh trông giống như những ao thả cá chứa đầy thứ nước đen thui, đặc quánh và tù đọng. Cửa sổ của các ngôi nhà hoang tàn ảm đạm soi bóng trên làn nước mà trên bề mặt dơ bẩn của nó nổi lên các mẩu giấy, bìa cát tông, mảnh thủy tinh, cây cối và tấm sắt tây của các hòm trên tàu; những mảnh vụn vứt đầy trên các đường phố và có lẽ bao phủ trên đó là cả một lớp bùn. Ở mọi nơi đều nhìn thấy sự bẩn thỉu, hỗn độn và cảnh nghèo khổ của con người.

Chính ở trong phần này của thành phố có các “căn hộ cho thuê”, tức là những nhà trọ, trong đó với giá hai đô la một tuần có thể nhận được chỗ ngủ và được nuôi dưỡng toàn bộ; ở đây cũng có các quán rượu, tức là các phòng uống, trong đó những chủ tàu săn cá voi tuyển lựa mọi hạng người lang thang không nghề nghiệp đưa lên tàu mình; có đại diện thương mại gian lận Venezuela, Ecuador và Brazil, mục đích là gạ gẫm đi khai khẩn vùng xích đạo và cung cấp cho bệnh sốt rét một số lượng nạn nhân kha khá; có những nhà hàng rẻ tiền nuôi khách của mình bằng thịt ướp mặn, những con hàu sò và cá ươn, mà chính nước biển hắt lên cát; có những căn nhà bí mật chơi xúc xắc, những tiệm giặt Trung Quốc, những chỗ nương náu khác nhau cho các thủy thủ; cuối cùng đây cũng là những hang động của tội ác, sự nghèo khổ, đói khát và nước mắt.

Và phần này của thành phố lại rất nhộn nhịp, vì toàn bộ là người di cư, những kẻ không tìm được dù chỉ trong giây lát chỗ ở trong các lán trại ở Castle Garden và không muốn hoặc không thể đến cái gọi là “nhà của người làm công”, tức là những ngôi nhà của công nhân, họ tụ tập ở đây, sinh hoạt, sống và chết. Mặt khác cũng có thể nói rằng nếu như người di cư là cặn bã của các xã hội châu Âu, thì những cư dân của các ngõ ngách nọ chính là cặn bã của dân di cư. Những người đó lang thang một phần vì không có công ăn việc làm, nhưng phần khác thì vì yêu thích cuộc sống đó. Ở đây, đêm đêm cũng thường vang lên tiếng nổ của súng lục, tiếng kêu cứu, tiếng thét phẫn nộ, giọng hát say rượu của người Ireland hoặc tiếng gào rống của đám người da đen đánh lộn nhau. Vào ban ngày, thỉnh thoảng cả một đoàn những kẻ lang thang, mũ trên đầu rách rưới, tẩu thuốc ngậm trong miệng, sẵn sàng nắm đấm trong tay, cá cược với nhau từ một đến năm xu cho việc đập vỡ kính một ô cửa sổ. Trẻ con da trắng và các cô gái nhỏ da đen tóc quăn tít, thay cho việc đến trường học lại đi lang thang ngoài phố, vừa đi vừa lúc lắc khúc xương sườn bò hoặc tìm trong vũng bùn những thứ còn lại của mớ rau, quả cam hoặc chuối; đám phụ nữ Ireland gầy còm chìa tay ra trước những người qua đường lành lặn, nếu như họ đi lạc qua đó.

Trong địa ngục của con người đó, chúng ta tìm thấy những người quen biết cũ của chúng ta: lão Wawrzon Toporek và con gái lão, Marysia. Của thừa kế mà họ mong đợi chỉ là giấc mơ và giấc mơ ấy đã tan ra mây khói, còn thực tế hiện ra trước mắt chúng ta là một căn phòng nhỏ hẹp, úp sát xuống đất, có một ô cửa sổ mà kính bị đập. Các bức tường của căn hộ ?