Chương 1
Sau hai tháng đi nghỉ mát ở một vùng quê người chú họ, Hậu trở lại Hà-nội. Ngay hôm đặt chân lên sân ga, Hậu đã cảm thấy sự bực bộc, chán nản. Cảm giác ấy, đã hơn một tuần lễ nay, vẫn theo dõi Hậu. Hà-nội vẫn nhiều nắng. Nắng mạnh, trời xanh, tiếng phố rộn rã, ngần ấy thứ đủ làm cho Hậu, một người thiếu phụ góa chồng, liên tưởng đến sự cô độc trong đời mình.
Hậu buồn lắm. Thành phố hoa lệ này, chủ nhật nào cũng vui như Tết. Không ngớt, những con tàu đem hành khách đổ về đây, từ ở các tỉnh lân cận lại. Hà-nội như một viên ngọc, hào quáng với mọi sự cám dỗ, bắt người ta phải bỏ ra một ngày trọn, hay ít ra nửa ngày, để dắt nhau tụm năm, tụm ba đi mòn các đường phố. Lẩn trong những trang nhan sắc đã quen mắt mọi người, hàng toán thiếu nữ vui vẻ, nhưng vẫn lộ vẻ xa lạ trên mặt, dong nhau thành từng hàng như bươm bướm trên các ngả đường, gió lật những tà áo sáng reo vui như cờ. Những cặp mắt to to, đen đen, buồn buồn thay nhau lần lượt nhìn vào cái tráng lệ, cái lộng lẫy, cái xa xỉ đến tột bực là Hà-nội.
Hậu đứng trên tầng gác phố Duvigneau thở dài. Cái đám người đông đúc, dồn nhau như sóng, sự vui vẻ ồ vỡ hết ra trong một ngày nghỉ việc, làm Hậu se lòng khi nghĩ đến cảnh huống trơ trọi của đời mình.
Hậu chưa bao giờ sống những giờ phút nặng nề như thế. Hậu nghiêng xuống cái hạnh phúc của người đời với một tấm lòng góa bụa sầu thảm. Cảm giác Hậu ở biệt lập hẳn ra ngoài sự náo nhiệt của bốn bề.
Gió bể vẫn còn vang đầy trong tai Hậu, gió bể với quãng mênh mông ngàn đời dậy sóng, hớn hở trong một cuộc phấn đấu vĩnh viễn âm thầm. Hậu còn thấy cả bãi cát dài chạy dọc theo hàng thông, một sự phẳng lặng ghê người trên đấy đã bắt đầu mờ dần những dấu chân du khách.
Ở gian nhà bên tiếng đọc bài của Khánh, con Hậu, vẫn văng vẳng. Bỗng có tiếng chuông reo. Hậu chạy cầm lấy máy nói đưa lên tai. Ở bên kia đầu giây, một tiếng nói ỏn en, nhẹ nhàng đưa lại. Hậu trả lời bạn vài câu hỏi thăm về sức khỏe, rồi cuống cùng, trước khi đặt ống nói xuống, Hậu thêm, bằng thứ giọng chán lạnh:
– Tôi chả việc gì cả.
Mà thực, Hậu còn biết nói thêm gì, ngoài câu: tôi chả việc gì cả? Tôi chả việc gì cả, nghĩa là tôi đã buồn, đã chán vào cái độ mà tiếng nói loài người thiếu hẳn để diễn tả cái hiu quạnh, đau đớn của lòng. Tôi chả việc gì cả! Cho đến những phút rơi vào không gian cũng không có tiếng động, thời khắc trôi trong một sự hiu quạnh rộng hơn trí ức đoán của người đời.
Mà thực. Hậu còn biết nói thêm gì, ngoài câu: tôi chả việc gì cả? Tôi chả việc gì cả, nghĩa là tôi đã buồn, đã chán vào cái độ mà tiếng nói loài người thiếu hẳn để diễn tả cái hiu quạnh, đau đớn của lòng. Tôi chả việc gì cả! Cho đến những phút rơi vào không gian cũng không có tiếng động, thời khắc trôi trong một sự hiu quạnh rộng hơn trí ức đoán của người đời.
Hậu là nữ giáo viên ở một trường tư thục Hà-nội. Từ ngày chưa lấy chồng, và đến nay góa bụa, Hậu vẫn giữ cái chức việc nặng nề ấy, để cố tìm trong đó sự yên ủi thiêng liêng cho lòng mình. Hậu lấy Bảo vì ái tình giữa người: Một cuộc hôn nhân đẹp đẽ nhất trong những cuộc hôn nhân đẹp đẽ ở thế giới này. Bảo, với mảnh bằng Cử-nhân Luật, thi vào trường binh bị lập ra từ ngày có chiến tranh. Đậu vào số những sinh viên ưu hạng, Bảo sắp được cử sang Pháp nơi chàng hằng mê luyến ái cái không khí thanh thoát, cái tinh hoa nẩy nở ở bên kia bờ bể Méditerranée thì có tin đình chiến. Cách ít lâu, được cử ra vùng biên giới, Bảo hăng hái nghe theo tiếng gọi của chí nguyện, và cũng như bao nhiêu người có tim óc khác, chàng gạt thầm nước mắt từ giã người yêu.
Bốn tháng rồi! Hậu hằng ngày chờ tin chồng ở căn gác nhỏ, hy vọng mong manh đem đặt cả vào một cái bóng mà nàng thường mơ thấy ở phương trời. Bốn tháng, rồi thêm hai tháng nữa, và Bảo đã chết trận. Hôm được tin dữ, Hậu ngất đi mấy lần. Sau bao nhiêu ngày khóc lóng, nỗi đau đón của Hậu dịu dần, và đổi thành ra sự buồn bã, cô độc. Hậu cố tạo lấy sự vui sống bằng cách hy sinh cho con, hy sinh cho cái nghề thanh cao nhưng bạc bẽo của mình.
Hậu gạt bỏ hết những thương tiếc, đem yên lặng trùm lên kỷ niệm, yêu thương con và tận tâm dạy dỗ những chiếc đầu xanh biếc như mùa xuân.
Song le với cái sức ngấm ngầm phá tán, nỗi đau khổ vẫn hằng trở dậy, xâu xé lòng nàng. Hậu lại ghê sợ trước cái trống rỗng khơi lên từ sau ngày Bảo mất, cái trống rỗng đã tiêu mất của Hậu bao nhiêu nghị lực, bao nhiêu kiên nhẫn mà vẫn chưa lấp được một phần.
Đến bây giờ, Hậu lại trở về sống tiếp cái đời quả phụ trong gian gác lạnh. Ở dớ, Hậu không còn tìm thấy gì hơn là sự u uất, tang chế của đời mình. Những ngày chủ nhật đã vui vẻ trôi qua cửa nhà Hậu. Và nỗi đau khổ mà Hậu cố công dập tắt, vẫn rõ rệt như một đám ma đi qua những phố đông đúc.
Chiếc đồng hồ treo trên tường điểm hai tiếng. Hậu vẫn ngồi im lặng trong chiếc ghế mây, đưa mắt nhìn xuống phố.
– Mợ!
Hậu giật mình quay lại hỏi con:
– Gì đấy Khánh?
– Mợ chưa đi lại đằng bác Thảo à?
Hậu uể oải đứng dậy. Nàng vuốt tóc con và nói lửng:
– Ừ, để mợ đem con đi. À, mà con chưa mặc quần áo đẹp kia mà?
Chính Hậu, Hậu cũng chưa trang điểm gì cả. Nàng tiến lại trước tấm gương, vấn tóc khoác lên mình chiếc áo nhiễu xám, rồi gọi Khánh:
– Xong chưa con?
Khánh vui vẻ chạy đứng bên mẹ. Vô tình, bóng hai người sóng đôi trước gương, làm Hậu chạnh nghĩ đến một chiếc bóng khác đã lìa đời.
Hậu bước vội ra cửa…
Vừa đặt chân xuống nhà dưới, Hậu nghe có tiếng gọi giật lại:
– Mợ Cả đi đâu thế?
Hậu quay lại phía mẹ chồng, lễ phép:
– Mẹ cho con đưa cháu Khánh lại nhà chị Thảo chơi.
Bà cụ nhìn Hậu rồi bĩu môi một cách kín đáo:
– Mợ có đi đâu thì để thằng Khánh ở nhà với tôi.
Mẹ chồng Hậu vốn ghét những cuộc họp bạn giao du như thế. Từ ngày Bảo mất đi, bà trở nên gay gắt, khó chịu. Lòng già như tuổi bà quên rằng những góa phụ, những góa phụ trẻ tuổi như Hậu vẫn có thể tìm thấy ít nhiều sự vui vẻ trong cuộc đời, và không thể giam mình mãi trong sự tang tóc được.
Bà đã nhiều lần tỏ ý mai mỉa Hậu khi thấy nàng nói đến chuyện nay đi lại nhà bạn này mai đi lại nhà bạn khác. Cái son sắt và kỷ niệm, bà cho rằng chỉ có những người mẹ mới có được cho con, và sự đau đớn của các người vợ trẻ như Hậu chỉ thoáng qua như gió. Hậu không thoát được sự khắc luận ấy. Không nói thẳng thì bà tìm cách châm biếm bóng gió sự giao du và cách ăn mặc của Hậu.
Bà thường chỉ trích cách đi đứng ăn nói thậm chí bà ghét luôn đến vẻ mặt đẹp đẽ của nàng nữa.
Ba thường bảo Thịnh – con gái bà:
– Rồi mày xem nó có nhớ thương thằng Bảo thì già lắm là được dăm tháng.
Mặc dầu Hậu vẫn tỏ lòng kính trọng mẹ chồng. Nàng cố ngăn cản sự đau khổ của mình trước vẻ khinh ghét của bà và Thịnh. Hậu cắn răng chịu đựng. Nàng giả vờ như không hay biết gì hết. Nhưng vẻ lạnh lùng của nàng, khốn nỗi, bà mẹ chồng lại hiểu ra sự khinh rẻ.
Những cái nhìn soi bói, hờn trách lại gấp đôi xuống đầu Hậu, lại làm dầy thêm làn không khí bao phủ lấy ngày sống của nàng. Nhiều lúc Hậu ứa nước mắt, những nàng lại tự trấn tĩnh ngay vì sợ làm buồn lòng mọi người.
Hậu ái ngại bảo con:
– Thôi con ở nhà với bà, mợ có việc cần phải đi đằng này một chút.
Rồi quay lại phía Thịnh, Hậu dịu dàng:
– Cô Thịnh có đi chơi với tôi không?
Thịnh gay gắt:
– Chịu thôi ạ. Đến nhà ai chứ đến nhà bà giáo Thảo thì tôi không quen!
Hậu làm như không nghe tiếng, chào mẹ chồng rồi bước ra.
Một làn gió mát thổi bay tà áo Hậu lên. Trời xanh không gợn mây, như dọn trước một ngày thu gần đến.
Hậu vừa đi, vừa nghĩ ngợi. Nàng không lấy làm bực dọc vì câu trả lời đầy miệt thì vừa rồi của Thịnh, em chồng nàng. Nàng chỉ thấy mình thành thật thương hại Thịnh, vì cũng như nàng, Thịnh cũng có những ngày thảm đạm, sống một cuộc đời nếu không là tang tóc, góa bụa thì cũng cô đơn.
Cách đây hai năm, Thịnh đã gắn bó với Minh, bạn Bảo, và cùng một lớp với Bảo. Minh sang Cao Mên theo lệnh trên. Cuộc tình duyên tha thiết lấy sum họp làm mục đích của hai người bị cản trở đủ đường, và bây giờ lại phải chịu một giai đoạn đau đớn khác nữa: ly biệt, ly biệt mãi mãi.
Minh đã chết một cách anh dũng, chết mà vẫn nhắc đến tên Thịnh, chết giữa sự rực rỡ danh vọng, giữa sự ca ngợi của mọi người.
– Lại bà mẹ chồng!
Hậu nhắc lại câu chua chát ấy lần thứ hai, vì nàng biết rõ tại sao Thịnh không lấy được Minh. Nàng biết rõ rằng chính mẹ chồng nàng đã cản Thịnh, chính bà mà vì lòng ích kỷ, hơn là vì cẩn thận dè dặt, đã vô tình phá tan hạnh phúc của con gái yêu. Bà già quá rồi, sự khao khát đã hết, và bà tưởng Thịnh cũng có thể sống khô khan như bà mà không biết đau khổ…
Thịnh là cái kết quả sự xúc tiếp hai trường đời không hiểu nổi nhau. Nàng đã vâng lời mẹ, chịu nhận lấy sự hy sinh đau khổ nó đem đặt cả một thảm cảnh vào đời nàng. Nàng thất vọng. Vị hôn phu do nàng kén chọn lấy đã bỏ mình ở một nơi xa, và Thịnh mà hoàn cảnh tương tự như hoàn cảnh góa bụa, nẩy ra cái ác cảm đối với người đáng lý phải hiểu nàng, chăm sóc nàng hơn ai hết. Muốn quên mình, Thịnh tình nguyện xin vào làm nữ khán hộ ở nhà thương Lanessan. Những ngày sống của thiếu nữ dần dần khô héo như số những bệnh nhân nàng chăm sóc dần mòn đi dưới lưỡi hái của Tử Thần.
– Thịnh với ta ai khổ hơn?
Hậu nhận thấy rõ rằng mình chưa đáng thương hại bằng Thịnh. Sự thương tiếc một hạnh phúc mà người ta đã được hưởng, tuy sâu xa, nặng nề thật, nhưng vẫn không bằng sự thương tiếc một cuộc đời đã để lỡ đi, một sự sum vầy mà hai người yêu nhau cùng nghi ngờ rằng có thể thực hiện được.
Hậu còn có những kỷ niệm êm đềm khả dĩ giúp nàng sống bằng mộng để khuây những giờ phút tẻ lạnh trong đời nàng. Hậu còn có con. Hậu tận tâm chăm sóc nó, theo ý Bảo và ý nàng, dạy dỗ nó theo một phương pháp ấn định bằng sự đồng lòng của cả hai người. Như thế, Hậu cũng có thể tưởng tượng như sống với chồng, trong khung cảnh cũ. Không, Hậu không thể nào ví mình với Thịnh được. Thịnh không được hưởng những sự mà Hậu đã hưởng. Thịnh thiếu hẳn cái say sưa của bao giờ đã mất. Ở sau Thịnh là cái tan vỡ, trước mắt Thịnh là sự cô đơn. Chân trời không có lấy một tia sáng thì cuộc đời còn một nghĩa lý gì.
Hậu sung sướng hơn Thịnh vì Hậu còn có những kỷ niệm, mà đã có những kỷ niệm, người ta chẳng đã sống rồi ư?
Mải nghĩ, Hậu đi qua những phố nào nàng không hay, và chỉ dừng chân lại trước một căn nhà đẹp đẽ ở đầu Phố N.
Đó là một căn nhà dựng theo kiểu kiến trúc mới, then ngang mỹ thuật làm thành những đường gạch dễ trông. Chung quanh nhà, một khu vườn êm ả, nổi lên khỏi đây vài cày liễu xõa tóc. Một sự thanh thú hồn nhiên đượm vào cảnh khiến Hậu bâng khuâng.
Đã nhiều lần, Hậu lại đây, từ hôm Bảo mất. Hai hoàn cảnh giống nhau đã kéo Hậu lại với Thảo, một nữ giáo viên cũng góa bụa như nàng. Đời đã dầy xéo lên tâm hồn họ, hai bóng người yếu đuối ấy dựa vào nhau để sống, cho qua ngày. Họ kể cho nhau những tấm tình đau đớn, và trong câu chuyện thường thường ngừng đoạn bởi cái thanh thú của sự im lặng, đôi cặp mắt nhìn nhau và tự nhiên long lanh ướt.
Chồng Thảo mất một năm trước Bảo. Tuy không có con, nhưng nhiều tuổi hơn Hậu, Thảo không hay để lộ sự đau đớn ra ngoài mặt. Trong sự buồn khổ riêng, Thảo nhìn sang sự buồn khổ của Hậu, đến gần đời Hậu và yêu Hậu vì Hậu cũng giống mình.
Dần dần, hai người bạn, tay quấn lấy nhau, đầu óc hướng về một lý tưởng đẹp đẽ, đi mạnh bạo trên đời. Nhờ sự chia sẻ, chung đựng ấy, Hậu, Thảo thấy bớt khổ, và cái khắc nghiệt của số phận không trở thành nỗi oan ức với họ nữa.
Thảo giữ chức giám-đốc một trường tư-thục. Vì vậy, vào lúc mùa khai trường sắp tới, Thảo cần phải bàn với Hậu nhiều câu chuyện. Hai người bạn ngồi với nhau hàng giờ, và nhiều lần, bóng ngày tàn còn thấy họ lưu-luyến chưa nỡ rời cái ánh đèn xanh dịu như nước da mệt nhọc, buồn rầu. Chốc chốc một tiếng thở dài ngẫu nhiên đưa vào câu chuyện. Họ lại lân la kể cho nhau những đoạn tâm tình trăm lần đã kể, nhưng chưa vợi được một phần. Thảo với Hậu, không bảo nhau, đều thấy mình cần phải quên những sự phiền não, quên cả mình bằng cách hết lòng làm việc, bằng cách lạnh lùng nhận những nỗi thay đổi trong cuộc đời. Sự đói rét, cực khổ làm cho ta chịu được nỗi áp bức của số mệnh thì những người đau khổ phần nhiều lại là những tầm hồn biết điềm tĩnh hơn ai hết.
Trường của Thảo và Hậu năm ngoái đã ghi được một kết quả chói lọi trong các kỳ thi, trong sự luyện đức dục cũng như trí dục. Năm nay, họ còn muốn đi đến sự thành công rực rỡ hơn thế nữa.
Đầu năm ngoái, họ còn đương là những thiếu phụ trông chồng, giữa năm nay, họ đã thành góa bụa. Năm ngoái họ làm việc để thấy ngắn những ngày trông mong, năm nay họ làm việc để ủy lạo lòng đau khổ. Mục đích trước còn bao hàm một ý nghĩa vị kỷ; cái thứ hai dần thiên về sự hy-sinh cao thượng.
Họ đứng vững trước sự dầy đạp của số phần, giữ nguyên vẹn cái tinh thần trong sáng tự khởi tạo lấy sự vui sống, trong công việc làm. Cán cân của đời vì thế không chênh lệch, Thảo và Hậu sống vượt hẳn lên trên những tâm hồn khác, ở cái bực người mẹ, người dẫn đường và người dân cao quý.
Hậu và Thảo còn mở riêng ra một lớp học, mục đích là giúp những trẻ em nhà nghèo, hay bồ côi, không đủ tiền mua sách.
Họ đỡ đần, nâng giấc những hạt máu sơ sinh ấy để hy vọng tìm thấy ở chúng cái bóng dáng những ngày thảm đạm trong đời mình, sự hòa hợp những tấm lòng hiểu nhau không cần lời nói.
Với mục đích tốt đẹp ấy, Hậu và Thảo hăng hái dắt tay nhau lên đường. Họ đã sống những giờ phút buồn bực để cố thực hành cái ý định của mình.
Những thành tích vẻ vang thâu lượm được trong hơn hai năm trời nay, Thảo và Hậu đã mua chúng với cái giá đắt đỏ của lòng nhẫn nhục và hy-sinh. Trường của Thảo nổi tiếng vì sự đứng đắn. Học trò các nơi kéo về mỗi ngày một đông. Trước sự âu yếm, thân mật của các gia đình gần, xa đối với học đường như thế, Thảo và Hậu nức lòng làm việc.
Một sự kiêu ngạo rất chính đáng làm sáng đôi mắt từ bao lâu nay buồn bã lên, làm bền chắc thêm những sợi giây liên lạc nối họ với nghĩa vụ và cuộc đời. Trên cái mảnh đất giáo dục đã từng thấy nhào lộn những học đường lập ra vì tư lợi, đã từng thấy bộc lộ những tư cách đê hèn của các người cầm đầu, Thảo và Hậu là hai tâm hồn xứng đáng nổi bật lên, vì biết hòa cái đau khổ của lòng mình vào nghĩa vụ, và giúp đỡ mọi người vì đã biết giúp đỡ mình.
Nếu đàn ông tự phụ là những người biết điều khiển sự đau đớn trong công việc, thì đàn bà, đàn bà ít tự phụ, vẫn có thể yên lặng sống, yên lặng quên, mà phần nhiều sự hy-sinh không được người đời biết đến. Dịu dàng mà vẫn thấm thía, lặng lẽ để hy-sinh đàn bà, ở vào bực này, đã luyện được sự bình tâm hoàn toàn thần thánh.
Vì những lẽ kể trên, Hậu đã trở nên người bạn không rời được của Thảo. Nếu Thảo là linh hồn của căn nhà trường to tát nàng lập nên, thì Hậu là nền móng. Giữa hai người, một tình thân chặt chẽ. Không những vì hoàn cảnh mà là vì tính nết: Hậu, nhu mì, nhiều lần mơ mộng, yêu thích sự tha thiết, tận tâm. Hậu không bao giờ dùng những mầu sắc rực rỡ và không bao giờ Hậu ăn mặc theo phong trào. Mặt Hậu buồn mà đẹp, đăm chiêu nhưng có duyên. Toàn người Hậu, một thân mình nhỏ nhắn, tỏa ra sự kính trọng, nó bắt người đến gần phải sinh ra lòng mến mộ cao khiết. Nước da trắng nhỏ, được hòa hợp theo mầu đen của tóc và mắt, đổi ra xanh, một mầu xanh lưu luyến…. Thảo cũng hiền như Hậu, nhưng Thảo cương quyết hơn. Đó vẫn là cái lợi của một người cao tuổi. Thảo mang trên mặt một vẻ gì như ủy lạo, tư yêu. Vì thế, những công việc khó khăn, bối rối, Thảo điềm tĩnh gỡ được ra hết. Sự tươi mát, điềm đạm thấm nhuần trong tâm hồn Thảo và tỏa ra chung quanh như bóng râm một ngày gắt nắng. Hậu tin ở Thảo như tin ở người chị, người chị mà Hậu giao phó mọi sự khó khăn.
Chủ nhật hôm nay Hậu buồn lắm. Hậu đi đến nhà Thảo vì bổn phận hơn là vì ý muốn. Hậu không thể vắng mặt hôm nay vì hôm nay gần đến ngày khai trường. Nàng cần phải bàn với Thảo nhiều việc.
Hậu ao ước được ở nhà suốt buổi, để ngồi lỳ trong chiếc ghế mây, tiếc những ngày êm đẹp đã mất. Nắng đẹp trong một ngày nửa thu, nửa hạ bừng lên trên Hanoi bao nhiêu sự buồn bã của thời xưa. Hậu muốn đắm đuối ngồi trông nắng và đưa mắt hưởng vẻ xanh thắm bao la trên đầu nàng. Nhưng một khi đến nhà Thảo ngồi đối diện với Thảo, Hậu tự thấy được ai lôi cuốn ra khỏi cái cõi hẹp hòi của lòng mình. Nhìn Thảo cười với minh, Hậu sung sướng như vớ được một sự tin cậy. Là vì tình thương nhớ Bảo không còn vang mạnh trong tâm hồn Hậu nữa. Tình thương nhớ ấy đã dịu đi vì sự tin yêu ở một người bạn thứ hai trên đời, ở những chân trời khác, biết đâu, lại không đẹp hơn chân trời hôm qua? Đừng ai trách Hậu, vì không ai nỡ trách những người góa còn trẻ như Hậu. Hậu, đã tha thiết với bổn phận của người sống, thì bên lòng nàng hẳn là phải yếu đi cái kỷ niệm nằm vùi trong nấm mộ.
Hậu đưa mắt nhìn Thảo trong khi Thảo cặm cụi trên chồng sổ sách, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn bạn.
Không khí phảng phất linh hồn gia đình. Cái gương cần mẫn mà Thảo trưng lên trước mắt Hậu, khiến nàng trạnh nghĩ đến bao nhiêu các bạn gái khác, thiếu tự chủ, đã để cuộc đời mình đi đến sự u ám, đi đến cái kết quả tiêu điều: tự tử. Hậu tưởng nghe những tiếng khóc vẳng trên thời gian, những tiếng khóc đứt đoạn của bao nhiêu những kiếp sống dở thì. Cái tham vọng của một lũ người vênh váo đã cuốn nhân loại và chiến tranh, và sau khi lò sát sinh dịu lửa, cõi đất đã thêm được gì, nếu không là những cồn mả, những xương thịt mục nát? Trên cái hoang tàn, điêu đứng ấy, những người mẹ, người vợ đau khổ đi tìm nấm mộ thân thích, trong lúc một bọn người vui cười, thỏa thuê sau bao ngày chinh chiến!
Mỉa mai và chua chát hơn nữa là chính bọn này lại quay lại nhiếc móc, lên án những thiếu phụ tái giá, gào thét cái mà cho là bất chính ở đàn bà. Sống buồn khổ với bàn thờ đã lạnh khói của chồng, sông khư khư với mấy cái ràng buộc phiền phức, đó là lẽ phải….đó là luân thường! Sự hăng hái; vui quên của đàn bà, sự lập lại cuộc đời của họ đều bị những cặp mắt hẹp hòi xem như là thiếu trung thành, là phản bội.
Dựa vào sức hăng hái của nhiều người bạn khác, Hậu cũng cảm thấy hăng hái thêm lên. Nhưng, điều này phiền phức, khó giải nhất là sự đau khổ của đàn bà như Hậu, vẫn có nhiều mặt và không bao giờ tiêu tan hẳn được …Hậu còn….
– Thế mà hôm nay tôi cứ tưởng chị không đến kia đấy. Ở Sầm-sơn có vui không?
– Tôi cũng muốn không đến lắm, nhưng biết trước chị đợi.
Thảo mỉm cười nhìn bạn:
– Thì ra chị định để tôi làm việc một mình! Thế thì tốt!
Nói xong Thảo lại nhìn Hậu. Đôi mắt nàng lộ vẻ trìu mến của một người chị đối với em. Thảo đã rõ hết căn nguyên sự buồn bã, chán nản ở Hậu, vì nàng cao tuổi hơn, và nhất là nàng đã sống cuộc đời của Hậu. Thảo biết vậy, mà nàng không hề nói ra. Kéo chiếc ghế, mời Hậu ngồi, Thảo ôn tồn:
– Nào! Bây giờ ta làm việc!
Nói dứt lời, Thảo bỗng thở dài, khiến Hậu nghi ngại.
– À, chị có biết Đức không nhỉ?
– Chị Đức cao chứ gì!
– Phải. Đức thôi việc ở sở buôn Desmaux rồi.
Ngay một lát, Thảo tiếp;
– Duyên do chỉ vì Đức ốm yếu luôn. Ông chủ thấy thế, nên không muốn dùng Đức. Đức trước kia có chồng và chồng chị đã chết.
– Lại góa?
– Đàn bà chúng mình thì ai mà trong đời chả có lần góa? Góa khi chồng còn. Góa khi chồng chết. Chỉ khác nhau ở hai vành khăn trắng, một cái ghi trên tóc, và một cái trên lòng… Đức đã thôi việc đến ngót một tháng nay.
Hậu bất bình:
– Sao Đức vẫn có thể để yên họ được à?
– Kiện họ chắc? Hậu nên nhớ rằng đàn bà chúng mình không có vây cánh. Cái mà chúng mình chỉ mới nhũn nhặn xin như được làm việc ngang với đàn ông, được quyền lợi gần bằng đàn ông cũng đã bị vất bỏ rồi. Chúng mình góa bụa thì chúng mình thiệt. Loài người không bao giờ cần biết đến những thành tích oanh liệt của một người khác ẩn dấu trong mầu tang của đời mình. Loài người cố tình quên chúng ta, vì giờ này, phút này, ta là gì dưới mắt họ, nếu không là những người góa bụa – chữ góa bụa không viết hoa? Trước kia là đàn bà, bây giờ ta là đàn bà, mai sau ta vẫn là đàn bà. Sự góa bụa không thể nào làm ta thành những vị anh hùng hy sinh một cách kín đáo được. Chỉ có lời nói lớn mới được nghe, chỉ có danh vọng mới thật sáng. Đức là đàn bà, Hậu muốn Đức công phẫn vô ích làm gì?
– Bây giờ Đức làm gì?
– Đức nuôi con. Đức cũng làm việc như chúng mình.
– Hay chị em ta gọi Đức về, vì nghe đâu Đức học cũng khá lắm.
Thảo gật đầu nhìn bạn:
– Chính Thảo cũng có ý nghĩ ấy những lâu. Đợi Thảo xem thế nào đã.
Hậu thở dài, nói rất khẽ:
– Thực là gian nan cho một người đàn bà trơ trọi!
Vài ngày sau, theo giấy mời của Thảo và Hậu, Đức đến thăm học đường của hai người và tỏ ý vui lòng nhận việc. Nhìn Đức và nhớ đến câu chuyện hôm nào Thảo thuật cho mình nghe, Hậu hỏi bạn:
– Sao chị lại để yên cho người ta xử như thế được. Chị lấy chồng, và chồng chị mất, thì lý ưng chị phải được nhân nhượng….
(………trang 26 của sách bị mất một đoạn………)
….. em chắc chị đã biết là những người sống an nhàn, sung sướng đến bực nào! Chả nên tin ai hết, ngoài sự tin ở mình. Hạnh phúc ở cả đấy.
Hậu phản đối.
– Chị nói thế không đúng. Chị còn phải tin ở tấm lòng kiêu hãnh của sự hy sinh chứ? Chúng ta khổ nhiều rồi, chị ạ. Nếu mất đi sự tin tưởng cuối cùng ấy, chúng ta hết cả hy vọng!
Thấy Đức yên lặng, Hậu tiếp:
– Nghĩa là phải tự bênh vực mình…
– …Nhưng chỉ bằng cách làm việc. – Thảo nối.
Hôm ấy là ngày khai trường, học trò tấp nập đến ghi tên. Quanh Thảo, Đức và Hậu, những bà mẹ dắt con, hợp thành một cảnh tượng vui mắt, nhưng đau lòng cho ba người. Biết đâu –Thảo nghĩ thế, và có lẽ cả Đức, cả Hậu cũng nghĩ thế – biết đâu trong sự vui vẻ, nhộn nhịp như kia, không có những; tấm lòng đã thấy đời về chiều, «những người góa bụa khi chồng còn và khi chồng chết » như Thảo đã nói.
Cả ba người nhìn những vẻ mặt vỏ tư ấy mà kín đáo thở dài. Họ rùng mình trước sự tàn phá của số mệnh mà mới cách đây hai năm họ chưa được biết. Những mái đầu xanh trước kia, bây giờ đã rối, tấm lòng bây giờ đã mờ. Trên con đường độc địa mà số phận hình như đã vạch sẵn cho cái thế giới đàn bà, những hình ảnh của mùa Xuân vui tươi kia lần lượt chịu chung cái định luật khắc nghiệt là thấy đứt dần đi những giây thân thích, một khi cái tham vọng của loài người vẫn có thể diễn được những tấn thảm kịch điên rồ.
Thảo có lần đã gọi học trò mình là «con chúng ta» trước mặt Hậu, với tất cả sự cảm động thâm thúy của một người đàn bà biết thương và biết yêu.
Trong số những người đã giúp Thảo dựng lên học đường này, đáng kể nhất là bà huyện Thanh. Bà Thanh trước kia là bạn học của Thảo, nhưng sung sướng hơn Thảo vì bà còn chồng và giàu có. Người đàn bà rộng rãi này là một sức mạnh yên ủi cho Thảo, từng thúc dục Thảo làm việc và đến được cái kết quả ngày nav. Bà Thanh trạc ngoài ba mươi tuổi, nghiêm nghị đúng với cái địa vị của mình. Bà đã sống những ngày hàn vi cơ cực và đã thắng tất cả mọi trở lực trong đời, dìu dắt bởi một nhân đức tin mãnh liệt. Với cái bản tính rộng rãi, bà đã từng giúp đỡ nhiều người, giúp đỡ một cách kín đáo, thật lòng. Ở người đàn bà cao quý nầy, có một sự trái ngược với phần đông chúng bạn: rất giầu, nhưng bà ghét sự hào nhoáng, đua đòi, và suốt đời chỉ lấy việc yên ủi mọi người làm vui thú. Là đàn bà và đã gặp nhiều sự đau khổ trong đời, bà tha thiết nhìn nhận cảnh ngộ của mọi người chung quanh với một tấm lòng hy sinh hoàn toàn siêu đẳng. Người thiếu phụ trong sạch từ tâm hồn đến tư tưởng ấy đã có lần bảo Thảo:
– Đàn bà chúng ta sinh ở trên đất nước này chưa bước đến cái trình độ đòi sự bình đẳng như đàn bà Pháp được. Thiếu sót những điều kiện quan hệ cho sự sống ngang hàng, hay là gần ngang hàng, chúng ta cần phải có sự tương trợ, bằng cách dựa vào nhau để phấn đấu. Cuộc đời của người đàn bà chỉ có ý nghĩa khi nào cái định kiến tốt đẹp ấy được thực hành. Điều cần yếu nhất là ta phải hiểu cái nhiệm vụ của đàn bà; ta hãy là đàn bà, tin, yêu, ước muốn thành thật.
Lời của bà Thanh vẫn vẳng trong tai Thảo, in vào trí Thảo, nhất là hôm nay, ngày khai trường, Thảo càng thấy lời khuyên ấy có giá trị.
Vậy, buổi khai giảng sau vụ hè này, sự có mặt của bà Thanh là một hân hạnh lớn cho Thảo và Hậu. Cả hai người cùng ra tận cổng đón bà. Bà Thanh đi với một người đàn ông khác, mà ta vừa biết theo như lời bà giới thiệu với Thảo và Hậu:
– Đây là em giai tôi.
Thụy là em ruột bà Thanh ở Pháp về ngót một năm nay, và là người giúp đỡ đắc lực của chồng bà, Thụy làm việc tận tâm như bao nhiêu bạn trẻ tân tiến khác. Nhũn nhặn và hiền hậu, Thụy đã được lòng tất cả những người quen biết chàng.
Thường thường, Thụy theo chị đi dự những còng cuộc từ thiện và cố nhiên là hôm nay, chàng cũng không bỏ sót dịp chứng kiến vụ khai trường. Thảo và Hậu đưa các vị tân khách đi thăm nhà trường, hỏi han vuốt ve những người học trò xinh-xắn. Sự mến mộ đối với các bạn của chị, chàng thành thật đến nỗi làm Thụy phải thốt lên:
– Ở bên Pháp, cách tổ chức công cuộc giáo dục cũng chỉ đến thế này.
Chàng đưa mắt nhìn Thảo và Hậu. Chàng ngạc nhiên vô cùng vì những người đàn bà yếu đuối như vậy, nhất là với một cuộc đời không sung sướng gì, lại có thể dựng nên một công việc khó khăn, đẹp đẽ đến thế. Trên những vẻ mặt mà tang chế còn để dư lại nét buồn bã, Thụy muốn hiểu rằng đó là những tầm hồn cố tạo ra yên ủi để sống, cố tạo ra hạnh phúc cho mọi người để quên mình. Đó là những người làm ra sự quên mà không phải là những người quên. Cái đáy đau thương vẫn chứa đựng nhiều nỗi chua chát của ngày tháng, và họ chỉ cố vươn lên để tìm, hưởng một chút ánh sáng của đời. Thế nhân bảo họ là không bền tình, nhưng Thụy, Thụy cho họ là những người biết sống.
Đó là những người vô tội, mà sự cuồng vọng, ghen tị đến gây ra thảm họa của nhân loại đã cướp mất của họ những cái gì là lẽ sống, là thương yêu, là hạnh phúc. Trước kia, họ lấy chồng, sinh con theo định luật. Bây giờ, với vành khăn trắng, họ nhận cuộc đời dưới một vẻ mặt khác, vẻ buồn thảm của chân trời trong một ngày mùa đông u-ám. Cảnh đời họ không mảy may giống cảnh đời của những người rời sự đoàn tụ vì ly dị. Họ cũng không giống nốt những người đang xuân. Vậy thì, sau cái tan vỡ của hạnh phúc không phải do họ gây lên, họ vẫn có quyền nhìn đến những hạnh phúc khác, ước ao đến sự sum họp thứ hai. Thụy chính là người muốn lại gần họ, lại gần sự ao ước thầm kín của lòng họ…
Mắt Thụy, mười lần nhìn, đều hướng về phía Hậu. Chàng cho rằng Hậu là một trong những người đàn bà mà tâm lý về hoàn cảnh góa bụa đáng được chàng phân tách nhất.
Sau khi nghe Hậu thốt lên câu:
– Vâng, đuổi người như thế thật là vô lý.
Thì Thụy mỉm cười, hỏi nàng.:
– Thưa bà, sao lại vô lý ạ?
Hậu im lặng, quay nhìn ra ngoài, giả vờ như không nghe tiếng Thụy nói.
Thảo nói với Thụy:
– Chúng tôi vừa kể với bà chị hoàn cảnh của chị Đức, bạn tôi, mới bị thôi việc một cách vô cớ.
Đợi cho Thảo kể hết chuyện. Thụy cương quyết:
– Phải làm cho ra chuyện chứ!
Hậu thấy có người biểu đồng tình, nói theo:
– Vâng, phải thế. Nhưng chị Đức lại muốn thôi đi.
Đức cười:
– Chỉ là trứng chọi với đá. Mình thì có hơi sức đâu mà kiện họ.
Hậu toan nói nữa, nhưng nàng im lặng ngay vì nàng vừa bắt gặp đôi mắt của Thụy. Mãi sau, sợ có người đọc được ý nghĩ mình, nàng lưỡng lự, khôi hài:
– Nếu có thể, thì tất cả đàn bà cùng hoàn cảnh như chúng mình lập lên một hội “Liên đoàn phụ nữ”!
Câu nói đùa làm mọi người cùng cười. Bà Thanh dịu dàng:
– Nếu phụ nữ được dự vào tất cả những công cuộc dành riêng cho các bạn giai, nếu phụ nữ là các nhà ngoại giao, thượng thư..thì chắc chắn là thế giới tránh được nạn chiến tranh. Còn có người đàn bà nào trên trái đất lại không muốn cho gia đình mình nguyên toàn? Chúng ta chỉ thấy chiến tranh là tang, là nước mắt, là máu, và nếu sự ước muốn to tát của tôi thực hiện được thì chắc chắn là nhân loài sẽ yêu nhau như ….ruột thịt!
Mọi người cùng cười. Trước khi ra về, bà Thanh quay lại nhìn Hậu khôi hài:
– Nếu “liên đoàn phụ nữ” mà thành lập thì tôi sẽ mượn cô Hậu làm nữ thư ký.
Hậu thẹn thùng cúi xuống vì nàng biết ngoài những cặp mắt khác còn một cặp mắt nữa đặc biệt chú ý đến nàng, cặp mắt, tự dưng, Hậu thấy nó lưu luyến nàng như một sự ám ảnh.
– Thế nào mai các chị cũng đến chơi nhà tôi nhé.
Hậu thấy Thảo đỡ lời bà Thanh:
– Chị cho đến một ngày khác, vì dạo này chúng em hơi bận.
Từ lúc ấy cho đến khi bà Thanh về, Hậu không dám nhìn Thảo lần nào nữa. Sự bối rối của lòng nàng lộ ra mặt. Hậu tưởng như chính Thụy mời nàng lại nhà qua câu nói của bà Thanh. Lòng Hậu rung động một cách êm ái. Tự nhiên, má nàng đỏ. Ánh nắng phất phới gieo trên đầu cây, ngọn cỏ. Cả sự vật tưng bừng trong một ngày vui mới. Đời đổi dưới vẻ mặt khác, lộng lẫy và tươi vui. Hậu tưởng thấy ngoài kia, ngoài khung cửa kính, trong sức nẩy nở tràn mạnh qua một lớp nhựa mới, những ngày sống trở nên bâng khuâng và diễm lệ.
Trong lúc Hậu đưa tay lên nén tiếng trống ngực đập mạnh một cách sợ hãi, thì xa đây có một người cũng cảm thấy cuộc đời tươi đẹp, bừng nở như ánh nắng buổi sơ khai…