← Quay lại trang sách

Chương 2

Một năm qua. Khói lửa đã dập tắt ở những quãng rừng thâm u quanh năm ủ ấp xứ Cao-Mên và xứ Lào im lặng. Cây cỏ đã chứng kiến cái chết nghĩa lý của những người xả thân vì một lý tưởng cao quý. Những ngọn cờ vàng phe phất bên những lá cờ ba sắc giương cao lên trên biên thùy sự dũng cảm, hăng hái của một dân tộc yêu nhân đạo, thờ hoà bình nhưng không phải là thiếu quả quyết.

Hôm đầu toán lính về qua Hà-nội, Hậu từ ở căn gác hẻo lánh, bưng mặt khóc, khi nghe đoàn quân chinh phạt ca khúc khải hoàn. Chồng nàng đã chết! Nấm mồ của người chiến sĩ ở bên trời xa chắc lúc này đang âm thầm lạnh ngắt!

Bảo mất vừa đúng một năm và ngày mai là ngày Hậu đi viếng mộ chồng. Hậu nhớ lại năm nào đưa chân Bảo, năm nào Bảo còn dặn:

– Mình chăm nom con cẩn thận tức là mình yêu tôi.

Cái người dặn nàng trên tầu ngày xưa bây giờ không về nữa. Hậu đau đớn lắm, khi cả quãng đời trước diễu qua trí nàng, như một sự ám ảnh to tát. Hậu đã gắng gượng vui quên, nhưng mỗi lần hoa lê nở, tháng ba lại, người cô phụ trẻ tuổi ấy vẫn sống lại hoàn toàn cái thảm cảnh của đời mình.

Thịnh cùng đi với Hậu, vì ngoài Bảo là anh Thịnh ra, nàng vẫn muốn thăm mộ của người mà nàng đã yêu thương tha thiết. Minh cũng bỏ mình ở một nơi với Bảo, và mặc dầu, không có một tấm ảnh nào chụp ngôi mộ người yêu, Thịnh vẫn tưởng tượng như đi thăm mộ Minh bằng cách thăm mộ Bảo. Miễn là trong bầu không khí tang tóc phảng phất trên đất Cao-Mên, Thịnh được nghiêng mình trước nấm mộ một người chiến sĩ là đủ. Vì sự hy sinh của hàng nghìn người chỉ có một mục đích là bảo vệ sự tồn tại của đất nước, thì lòng yêu thương các linh hồn đã khuất cũng phải mất mọi tính cách cá nhân đi. Lòng nhân đạo chỉ đầy đủ khi nào nó bao trùm lên mọi người, an ủi mọi nỗi cơ khổ.

Trước hôm ra đi, Hậu xuống nhà xin phép mẹ chồng và trình bày ý định. Thấy Hậu, bà ngửng đầu lên, rút đôi kính ra, ngừng nhai trầu bảo con dâu:

– Mợ ngồi xuống đây.

Hậu len lén ngồi xuống, lòng nàng lo sợ chờ một con giông tố khác nổi lên.

– Đi sang bên ấy rét lắm đấy, mợ có bảo con Thịnh mang áo len đi không?

– Thưa mẹ, bên ấy nóng ạ, vì thời tiết trái với bên ta.

– Cứ mang đi. Tôi bảo mợ nghe cũng không thiệt.

– Vâng, con xin tuân ý mẹ.

Mẹ chồng Hậu ngồi suy nghĩ một lát rồi bảo nàng:

– Lần này mợ đã nghe tôi xin phép mang hài cốt thằng Bảo về đấy chứ?

Lưỡng lự một lát, Hậu đáp:

– Thưa mẹ, con tưởng không việc gì phải đem về. Thuở sinh thời nhà con cũng đã dặn đừng nên mang đi mang lại phiền phức, nếu sau này ngộ không may có xảy ra sự gì.

Mẹ chồng Hậu dằn mạnh tráp trầu xuống giường, gặt:

– Cô không làm thì tôi bảo con Thịnh nó làm. Có cô cũng như chuyện!

Đã nhiều lần, Hậu nghe mẹ chồng gọi nàng bằng “cô”. Trước còn khó chịu, sau quen dần đi, Hậu không để ý đến nữa. Thuở Bảo còn sống, mẹ chồng nàng đã tỏ vẻ khó chịu vì Bảo yêu thương săn sóc nàng một cách đằm thắm. Bà cho rằng Hậu đã lung lạc tình cảm của Bảo đối với bà. Hậu được chồng yêu tức là Hậu đã cướp một phần lớn sự trìu mến chỉ riêng bà được hưởng – bà – người mẹ đã từng nuôi nấng Bảo, đau đớn vì Bảo. Trong trái tim của con, người mẹ bao giờ cũng muốn chiếm một chỗ lớn, nếu không là tất cả. Lòng yêu thương mạnh mẽ ấy có thể biến thành sự ghen ghét, khiến người mẹ có đôi khi muốn con đau đớn để xin sự chăm sóc, vỗ về của mình.

Hậu là người thứ nhất bà có thể căm ghét được, sau ngày Bảo mất. Cho đến bây giờ nhiều lần nghĩ đến sự yêu thương giữa Bảo và Hậu, bà vẫn không dập tắt được lòng ghen tức, thỉnh thoảng lại bùng lên trong sự gay gắt. Sau khi xảy ra chiến tranh, sau khi nghe tin Bảo mất, người mẹ yêu con tha thiết ấy đã không từ bỏ một lời gì có thể làm cho Hậu buồn khổ. Bà cho rằng Hậu không thật lòng yêu Bảo, không tỏ vẻ đợi chờ tin tức Bảo, không đau đớn như bà.

Theo bà, thì chỉ những người mẹ mới biết yêu con, và đứng trên hết mọi thứ phải là tình mẫu tử. Trong khi Bảo còn ở Cao Mên, bà chưa tỏ vẻ khinh ghét Hậu mấy. Bà thường dẹp sự ác cảm lại để hỏi Hậu về tin tức con trai, vì bà biết rằng Bảo chỉ viết thư cho Hậu để gửi lời hỏi thăm cả nhà. Sự sống của Bảo là cả một sức mạnh vô hình bảo vệ Hậu. Bây giờ Bảo chết, Hậu thấy mình trơ trọi trước sự khắc nghiệt ghê rợn của mẹ chồng.

Cái tang máu mủ ấy làm cho mẹ chồng Hậu đau đớn, và luôn thể làm sống lại ở bà lòng ghen tức đã có từ ngày trước. Hậu dĩ nhiên là cái đích của sự ghen tức ấy. Hậu chiếm một địa vị lớn lao quá trong đời Bảo: những bức điện tín, thư từ phân ưu đều gửi về tên Hậu. Gia dĩ Hậu lại được quan trên ngợi khen vì sự xứng đáng làm vợ một người dân can đảm, trung thành. Tất cả những vinh hạnh khả dĩ làm dịu vết thương sâu thẳm kia, bà cho là Hậu cũng lại cướp nốt của bà. Bà chỉ là sự hy sinh không tiếng vang trong bóng tối. Dưới mắt bà, Hậu chỉ là người tình cờ được hưởng những ân huệ đặc biệt không xứng đáng với nàng.

Sự cương quyết, can đảm và tâm hồn cao thượng của Bảo đều do bà tạo nên – bà – một người mẹ, người có đủ quyền để nhận toàn lòng kính trọng, yêu dấu của con. Những vòng hoa, những dấu hiệu vinh quang đáng lý phải dành riêng cho bà, thì Hậu lại đón lấy. Trong gia đình Bảo, Hậu chỉ là người giúp việc phụ, nhưng lúc này, lúc mà quốc dân truy điệu những người con đã đền nợ nước, Hậu lại ngang nhiên bước ra trước sự mến mộ của mọi người.

Không, nước mắt của bà rỏ ra vì con, không phải chỉ để rỏ xuống trên mảnh đất khô héo, mà là muốn thấy nở lên những bông hoa để đền sự khó nhọc. Bà đã kêu gào thảm thiết trước khi Bảo lên đường, bà đã ăn uống cực khổ để nhớ con. Thế mà Hậu lại thay bà nhận hết vinh hạnh, vì Hậu chỉ là vợ Bảo, một người đàn bà tầm thường không dự gì trong công cuộc tạo nên một Bảo đang được đời ca tụng cả. Sự ác cảm rút ở lòng ghen tức và đau khổ, vì thế mà mỗi ngày một to.

Những ý tưởng không hay vẫn in hằn trong trí bà và xui bà đi đến sự thù ghét con dâu một cách ráo riết.

Tuy nhiên bà vẫn không lộ vẻ căm tức Hậu luôn, vì sợ không được trông thấy Khánh, cháu bà, vì nhiều lần, cơn giận nguôi, bà thấy Hậu …vô tội. Mẹ chồng Hậu tuy ghét nàng nhưng vẫn quý Khánh hơn Thịnh, tuy Khánh mang trong người một phần lớn máu Hậu, và tính tình Khánh lại giống Hậu hơn là giống Bảo. Nhờ thế, Hậu đôi lúc được tạm yên, tin rằng sẽ có một ngày rất gần mẹ chồng nàng hiểu được nàng, và sự chung sống sẽ được vui lắm.

Nhưng hôm ấy, nghe Hậu kiếm cớ từ chối việc đem di hài Bảo về, mẹ chồng nàng không ngăn nổi lòng căm tức nữa. Bà mắng Hậu là vô ơn, là bạc bẽo, tố cáo ở nàng những tật xấu như phần đông các bà mẹ chồng nhiếc móc con dâu.

Tuổi bà đã già, sức yếu không thể theo Hậu và Thịnh đi viếng mộ con được. Thêm một lần nữa, bà thấy rộn lên tấm lòng đau khổ, khi bà nghĩ đến cảnh thân mật đông đủ vây quanh nấm mộ Bảo. Thêm một lần nữa, quốc gia nhắc lại công ơn những chiến sĩ xấu số, và ủy lạo, khen ngợi sự trung thành của Hậu, vợ Bảo, con dâu bà! Cả đến cái ơn huệ cuối cùng trước mộ Bảo, người ta cũng cướp mất của bà!

Đã mấy hôm nay, bà suy nghĩ nhiều lắm về sự xin phép đem hài cốt của Bảo về Hà-nội. Bà phải nén lòng dịu ngọt với Hậu, vì Hậu là người có quyền trong việc này hơn ai hết. Khi nghe Hậu xin phép sang Cao Mên thì bà nói đến chuyện ấy ngay. Câu từ chối lễ phép của Hậu không làm bà nản lòng, trái lại, bà nhất quyết bắt cho kỳ được Hậu phải vâng theo ý bà.

Bà nhìn Hậu chăm chăm, rồi vụt hỏi:

– Vì lẽ gì mợ lại muốn để thằng Bảo ở bên ấy? Mợ không biết rằng nếu mợ đau xót, thì tôi đây cũng đau xót gấp trăm, gấp nghìn à?

Hậu từ tốn trả lời:

– Con cũng biết mẹ đau khổ hơn con thật, vì dẫu sao con cũng chỉ là vợ anh Bảo. Nhưng sở dĩ con không nghe theo me là vì khi còn sống anh Bảo đã dặn con…

– Bảo nó dặn mợ?

– Nhà con dặn nếu không may….mất đi (đến đấy Hậu ứa nước mắt) thì không nên đem di hài về thêm phiền phức. Người sống nhớ thương người chết là đủ, sự đi viếng mộ, chăm sóc nắm đất chỉ là việc phụ. Con tưởng nhà con đã dặn như thế, mẹ nên để cho nhà con yên nghỉ là hơn.

Mẹ chồng Hậu chưa bao giờ nghe Bảo nói như thế. Chưa bao giờ bà biết rõ điều này hơn ai hết – Bảo nuôi các ước muốn được yên thân nơi chàng nhắm mắt. Điều này chỉ có Hậu vạch cho Bảo, vì Hậu mong được đi thăm mộ chồng một cách long trọng riêng!!

Câu nói đầy nước mắt của Hậu, khiến bà yên lặng suy nghĩ. Hậu tưởng mẹ chồng đã nghe theo mình, nên tiếp:

– Trong hồi tòng quân nhà con vẫn được tiếng là nhân đức, nhất là với những kẻ dưới quyền. Bây giờ, ở nơi nhà con mất, còn bao nhiêu người nữa mất theo. Con thiết tưởng mẹ cho nhà con được nằm yên giữa các chúng bạn, hơn là đem về. Nhà con đã vì nghĩa vụ bỏ mình ở đấy, thì ở đấy là nơi gửi thân tốt nhất.

Giọng nói của Hậu run run. Nàng thoáng thấy một cánh đồng bát ngát, trên đấy, nằm ngủ bao nhiêu nấm mộ, di tích một cuộc tàn phá hung tàn. Mẹ chồng Hậu vẫn bình tĩnh, vì bà nhất định đi đến sự thực hành ý muốn của mình.

Bà bảo Hậu:

– Mợ nói thế không được. Để thằng Bảo nằm ở bên ấy vẫn đành rằng tốt, đó là nhân đạo. Nhưng lấy tình mà nói thì một người mẹ như tôi, tuổi tác già nua, không thể đi thăm mộ con được thì phải có cái gì bên mình mà chăm sóc chứ? Tôi muốn mợ xin phép nhà nước đem di hài thằng Bảo về đây là để tôi được gần gụi nó. Vả lại một nấm mộ ở cách đây hàng nghìn cây số, thì ai mà thay mình sửa sang lại được? Tôi để mợ tùy ý nghĩ ngợi, vì mợ vẫn có quyền trong công việc này hơn tôi.

Hậu đưa mắt dò nét mặt mẹ chồng. Nàng thấy bà không có vẻ gì là giận dỗi lắm, nên nói:

– Mẹ nghĩ thế cũng phải. Nhưng sau này mẹ và con cùng già đi còn ai chăm sóc nấm mộ ấy nữa? Chả hơn là để ở bên ấy thuộc quyền sửa sang của nhà nước. Mẹ mắng con xin chịu, vì nhiều lần con nghĩ đến chuyện đem di hài anh Bảo về, nhưng con thấy bất tiện quá.

Mẹ chồng Hậu trợn mắt nhìn nàng. Bà giận lắm. Bà giận vì Hậu đã dám cưỡng lời bà, tuy bà đã cố ngăn cản sự tức tối để phân phải trái với nàng. Dằn mạnh tách nước xuống sấp gụ, bà buông thõng:

– Tôi nói có sai đâu! Những người vợ trẻ có bao giờ chung tình được với chồng! Còn chồng, còn tình, hết chồng, hết nghĩa! Phúc bẩy mươi đời cho thằng Bảo được chết sớm, không thì nó cũng đến xấu hổ!

Hậu điếng người đi. Nàng không ngờ mẹ chồng mình lại dùng được những lời tàn ác đến thế. Hậu run run:

– Mẹ mắng con, con xin chịu. Nhưng mẹ đừng nói động đến người đã mất.

Mẹ chồng Hậu cong cớn:

– Đừng nói động à? Con tôi, tôi muốn làm gì nó thì làm, nói thế nào thì nói. Mợ không muốn cho tôi đưa thằng Bảo về là để mợ được tự do phải không? Ừ, rồi chuyến này mợ đi tha hồ mà sung sướng.

Hậu lặng lẽ đứng dậy, đi lên gác. Đến trước bức ảnh của chồng, thốt nhiên Hậu bưng mặt khóc. Dưới nhà có tiếng đóng cửa mạnh và giọng nói giận dữ của mẹ chồng Hậu:

– Diện vào rồi mà bay nhẩy!

***

Qua ngày sau, Hậu và Thịnh ra ga lấy vé vào Sàigòn để sang Cao Mên. Mỗi người mang theo một vòng hoa cườm và chiếc valise con. Từ cửa sổ trên gác, Khánh đưa tay ra vẫy mẹ. Hậu mỉm cười nhìn con, tưởng thấy ở dáng điệu của Khánh một dáng điệu khác đã mờ đi…

Lâu lắm rồi, một buổi chiều buồn bã như chiều nay, Hậu cũng từ ở căn gác nhỏ ấy, từ ở chiếc cửa sổ sơn xanh ấy, đưa mắt nhìn toán quân hăng hái lên đường. Hậu còn mường tượng thấy bóng Bảo đi đầu đoàn người không trở lại, quấn mình trong chiếc áo tơi xám, đầu đội mũ có ngấn vàng. Chốc chốc Bảo lại quay lại, kín đáo nhìn Hậu gửi về cho nàng một chiếc hôn âu yêm đúng như sự Khánh vừa diễn ra trước mắt Hậu.

Cả đoàn quân đã đi vào cõi mù mịt, và chân trời lãnh đạm đã khép lên họ cùng với những hy vọng tha thiết trở về. Hình ảnh buổi ly biệt, căn gác Hậu đứng, chiếc hôn gửi theo của Khánh, tất cả những sự đó lần lượt diễu qua trí Hậu, khiến nàng ngậm ngùi.

Khi tiếng còi tầu huýt ngoài sân ga, Hậu chau mặt, lẩm nhẩm:

– Phấn đấu mà làm gì, trời!

Cuộc hành trình này nhắc lại cho Hậu cả cái quá vãng không tươi đẹp. Nhưng cùng một lúc thương tiếc cái hạnh phúc đã qua đi, Hậu thấy lòng nàng rung động, bâng khuâng nghĩ đến những ngày đẹp sẽ đến…Hậu còn trẻ, Hậu còn đẹp…

– Hừ! diện vào rồi mà bay nhẩy!

Câu nói của mẹ chồng lại vẳng về tai Hậu, khiến nàng buồn bã. Trong cái tâm trạng khuất khúc của nàng, còn những lý do khác, những sự thực khác mà Hậu không dám phân tách ra. Sự thật ấy, lý do ấy, cái khắc nghiệt, soi bói của mẹ chồng, Hậu đã thấy rõ, và chính Hậu, Hậu cũng phải tự ngờ mình…Mỗi lần nghĩ đến chồng là Hậu nghĩ đến một cảnh đời khác, thề với lòng mình trung thành, là Hậu rợn người tưởng đến sự phải lập một gia đình thứ hai!

Nhưng lần này Hậu quyết đánh đổ mọi ý nghĩ không đẹp, khi nàng bước chân lên tầu sang Cao-Mên với Thịnh.

Chuyến tầu hôm ấy đông quá. Lẩn trong đám hành khách, Hậu nhận thấy vài người đàn bà, nét mặt buồn bã, có lẽ cũng đã sống những ngày buồn thảm như nàng. Hậu và Thịnh ngồi đối diện với nhau, bên cạnh một cặp vợ chồng trẻ khác. Thỉnh thoảng, hai người lại ngoái đầu ra sân ga. Lúc tầu khởi hành thì mấy ngọn đèn bật lên lù mù. Nhìn những nhà cửa chạy lui lại, Hậu ao ước được đi mãi, đi mãi, như chồng nàng.

Trời của tiết cuối xuân vẫn lạnh. Sương xuống mờ mờ trên những cánh đồng hiu quạnh. Lúc tầu rời khỏi 3 ga thì đêm đã dày nghịt. Trong toa, đèn bắt đầu cháy đỏ. Một làn ánh sáng lờ mờ soi lên mọi người đục ngầu và vàng vọt. Hậu rùng minh liếc qua cửa sổ. Khi Hậu đưa mắt nhìn Thịnh thì thấy nàng đương gục đầu trong lòng bàn tay, có vẻ mệt nhọc.

– Cô Thịnh ngủ đấy à?

Thịnh lắc đầu, không đáp, khiến Hậu hiểu ngay là Thịnh đương khóc thầm. Hậu nhìn em, thương hại. Tầu chạy mỗi phút một mạnh thêm. Tiếng bánh siết vào sắt nghe rờn rợn. Gió rít ngoài hai thành tầu, làm bay áo và tóc của Hậu lên.

Quanh đấy có tiếng người nói chuyện. Hậu để ý đến một người lính, vì từ bao lâu bác ta nói chuyện quốc tế, và hình như, theo Hậu đoán, bác sắp nói đến những việc xẩy ra ở biên thùy. Quả nhiên, một lát sau, Hậu giật mình vì thấy người ấy nhắc đến tên Bảo, trong khi trả lời một người ngồi bên cạnh:

– Tôi không được quen, nhưng chỉ nghe nói nhiều về quan một Nguyễn Trọng Bảo.

Mắt Hậu long lanh sáng nhìn người lính, nàng hỏi:

– Thế ra ông cũng biết quan Bảo à?

Người lính ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột của Hậu:

– Tôi chỉ nghe nói đến ngài thôi ạ. Nhưng vì sao bà lại có vẻ lạ lùng…

– Vì tôi là…vợ quan Bảo.

Người lính thuật lại cho Hậu nghe trận đánh ở Cao-Mên, lòng quả cảm của Bảo giữ nguyên một liên đội không chịu lùi. Lời thuật ấy, chả có gì khác hơn là lời thuật đã từng đăng trên các báo, nhưng Hậu vẫn muốn nghe. Hậu tưởng chừng như càng biết thêm về cái chết của chồng bao nhiêu, thì nàng càng được thỏa lòng bấy nhiêu, tuy sự đó thường thường chỉ làm cho Hậu thêm buồn bã. Hậu thích tìm những căn do để đau khổ, nhưng một khi đau khổ, Hậu lại

Người lính hỏi Hậu:

– Thế hai bà sang Cao-Mên thăm mộ đấy ạ?

Hậu mỉm cười, chỉ Thịnh giới thiệu:

– Đây là em chồng tôi. Lần này là lần đầu chúng tôi sang nơi ấy.

Câu chuyện liên miên về trận mạc kéo dài đến nửa đêm mới dứt. Hành khách trong toa ai nấy đều có vẻ mệt, nhắm mắt thiu thiu ngủ.

Bên ngoài, một đêm không trăng, lạnh lẽo. Ánh sao nhợt nhạt là cảnh vật thêm huyền bí. Hậu, phần thì bị tầu lắc, phần mệt nhọc sẵn, nên mải đến bốn giờ sáng vẫn chưa ngủ được. Nàng đưa mắt nhìn ra ngoài. Cảnh vật dần dần hiện rõ dưới ánh sáng một buổi bình minh mệt nhọc. Dãy rừng Lào hiển hiện ở xa. Ngang sườn núi, mấy đám sương mù ngừng lại, như những chiếc thuyền đậu trên giòng nước xanh. Cái thanh khiết, trầm tĩnh của vũ trụ làm Hậu bâng khuâng.

Hậu nhớ đến lần nàng vào Huế với Bảo để xem hội chợ. Hôm ấy, cũng vào một buổi sáng đẹp đẽ như nay, Bảo chỉ dãy núi xa xa, bảo vợ:

– Ước gì chúng mình được đến đấy ở.

Bảo không còn nữa. Bây giờ Hậu đi lại con đường này với một tấm lòng và cuộc đời đã khác trước. Bây giờ Hậu đã góa chồng, nhưng Hậu vẫn còn đẹp.

Tầu qua Huế và bắt đầu đi vào những đường núi ngoạn mục. Gió đã đem lại lòng người cái hương vị của mùa hè bất tuyệt ở miền Nam.

– Đói quá, chị Hậu ạ.

Thấy Thịnh dục ăn lần thứ hai, Hậu mới sực nhớ ra là đã ngót một đêm và nửa ngày, hai chị em chưa dùng gì cả. Hậu cười bảo Thịnh:

– Lương thực khô cả rồi cô Thịnh ạ.

Thịnh yên lặng nhìn Hậu bầy các thức ăn lên khăn tay, và suốt bữa nàng không nói lấy nửa lời. Mắt Thịnh đỏ ngầu. Từ lúc nghe Hậu nói chuyện với người lính đến giờ, Thịnh đâm ra buồn bã hơn: Nàng thấy chung quanh mình, ai cũng hỏi han tin tức của người thân yêu mà chỉ có nàng vẫn lặng lẽ. Thịnh ước mong đừng ai nhắc đến Minh cả, để Thịnh lặng yên với nỗi đau khổ của mình. Minh không phải là anh của Thịnh như Bảo: Minh chỉ mới là vị hôn phu theo ý Thịnh, người mà Thịnh bắt buộc phải thương nhớ một cách kín đáo, vì sự e thẹn riêng.

Hậu đoán được ý Thịnh nên không lần nào nàng chạm đến tâm sự của em. Thịnh đưa mắt nhìn những cánh rừng uất bên ngoài, rồi nghĩ thầm:

– Những người sống bị bỏ quên như mình, vẫn còn là chết hơn những người nằm dưới nấm mộ.

Tính Thịnh xưa nay vốn ghét sự náo nhiệt, nhiều lời. Nàng gay gắt với mọi người và cả với chính mình nữa. Có lần Thịnh ngồi suốt ngày ở nhà để không làm gì cả. Nàng khép tâm hồn vào một sự yên lặng nặng nề, sự yên lặng phảng phất như cái đau khổ bên trong, làm dầy thêm những cảm giác cô độc quanh nàng. Thịnh sống gần như ích kỷ. Sự đông vui của mọi người – với nàng – là một cực hình, đầy ải. Người con gái mới hai mươi tuổi đầu này đã có cái trầm mặc của những người thấy tiêu tan hết mọi nỗi sung sướng ở đời. Hậu ít khi thấy Thịnh nói chuyện với ai, dầu là người trong nhà. Cả đến sự yêu đương, nàng cũng giữ kín đáo đến nỗi sau hai năm trời gắn bó với Minh, Hậu mới thoáng nghe biết về cuộc tình duyên ít thư từ ấy. Tâm tình Thịnh cũng bí mật như cuộc đời nàng. Tất cả, cử chỉ và lời nói, tất cả đều nhiễm một vẻ kín đáo, và vì thế, nàng đối với Minh tha thiết cách riêng. Trước kia chưa quen Minh, Thịnh thường có dáng điệu của một người yếm thế. Ý nghĩ tối tăm ấy là một cớ chính gây lên sự lạnh lùng đối với mọi người của Thịnh. Thịnh ao ước sau này được làm nữ khán hộ, và cái chết đau đớn của Minh đã giúp nàng thành đạt ước vọng. Hậu đã nhiều lần nói với chồng về tâm tính của Thịnh:

– Mình ạ, cô Thịnh sống lạ quá.

Thì Bảo cười:

– Tôi cũng chịu, không hiểu được cô ấy.

Kịp đến khi Minh chết, Hậu mới nhận rõ sự yêu thương tha thiết của em chồng.

*

Ba ngày sau, Hậu và Thịnh đã sang đến nơi chôn Bảo. Hậu thuê một người dẫn đường, rồi cả ba cùng phải đi qua những làng mạc hẻo lánh của dân bản xứ. Đến trước nơi nghĩa trang dựng riêng cho các binh sĩ, Hậu và Thịnh cùng đứng lại trước cổng. Hậu cảm động tưởng tượng đến một ngôi mộ nằm trong kia, ngôi mộ nàng đến thăm lần đầu. Chốc nữa, khi cánh cửa gỗ mở, Hậu sẽ thấy cả một thế giới khác, nó không giống với cái thế giới hằng ngày của nàng. Hậu sẽ thấy….

Hậu và Thịnh đi tìm người giữ nghĩa trang ở cách đấy không xa. Vừa đi, Hậu vừa nghĩ đến Bảo. Hậu tưởng thấy Bảo hiện lên đâu đây, để bảo vệ, yên ủi nàng. Hậu tưởng nghe tiếng Bảo nói:

– Tôi ở bên mình đây. Tôi sẽ không bao giờ rời mình hết.

Lúc này tâm hồn Hậu trở nên mạnh mẽ. Nàng nghĩ thầm:

– Giá mình sống ở đây có lẽ được êm ái hơn, vì Bảo sẽ gìn giữ mình chống với mọi nỗi cám dỗ khác.

Nghĩ xong, Hậu tự thấy ngượng nghịu. Hậu vừa tự thú với mình những ý nghĩ mờ tối luôn luôn ám ảnh nàng, cuộc tranh đấu giữa ái tình và bổn phận của một người muốn sống như mọi người. So sánh mình với Thịnh, nhiều lúc Hậu thấy mình hèn kém. Hậu có chồng, có con. Thịnh chỉ là một người con gái. Người con gái ấy đã biết chung thủy với một cái bóng yêu dấu mà không một lần tưởng đến chuyện lập gia đình. Còn Hậu thì trái lại, đã nhiều bận nàng để lòng băn khoăn vô lý trong sự kén chọn hai con đường.

Người giữ nghĩa trang là một bác nông phu người Nam, trước kia có đăng lính. Bác ta mời Hậu và Thịnh vào nhà, và bằng một giọng bình thản, kể lại những ngày khói lửa vừa qua…

Nghe Hậu dai dẳng tiếp chuyện người nông phu, Thịnh lộ vẻ khó chịu. Nàng thấy Hậu săn sóc đến Bảo nhiều quá khiến nàng chạnh nghĩ đến một người mà giờ phút này chỉ có một mình, nàng thầm khóc. Một sự ghen tuông nổi dậy trong lòng, Thịnh dục Hậu:

– Thôi ta đi thì vừa, chị.

Nhưng Hậu chưa muốn đi vội. Bao giờ ở phút cuối cùng bước chân đến nghĩa trang, Hậu cũng thấy buồn bã. Nàng muốn chậm cái phút ấy lại, để hưởng nốt những sự rung động thấm thía trong lòng.

– Mời hai bà đi.

Hậu không thể cưỡng lại được nữa. Nàng phải bước theo Thịnh và bác nông phu.

Ba người lặng lẽ đi khỏi làng, đến trước cái nghĩa trang ban nãy. Nghĩa trang đặt giữa lòng thung lũng rộng, chẩy qua một giòng sông nhỏ, hai bên bờ um tùm lá cây. Trước mặt mấy người, một chiếc cổng sơn trắng, mang lá cờ tam tài, nếp quằn quại theo chiều gió. Một sự vắng rộng hun hút, xa xôi đem lại cái cảm giác mênh mông rằng kiếp người chỉ là một ngọn đèn mỏng mảnh và sức lôi cuốn của thiên nhiên mới thực là vô cùng mãnh liệt.

Cái chết đã an trí ở đây, nơi vừa qua những giờ phút nghiệm trọng. Những cây thánh giá đen và trắng là di tích những cơn giông tố vừa dịu đi trong đời.

Hậu đưa mắt nhìn suốt nghĩa trang. Nàng đoán chỗ nằm của Bảo.

Trời dịu mát. Ánh nắng le lói trên nền xanh biếc, làm nổi bật lên mấy cụm cây kè xanh tươi. Hậu hít từng hơi dài làn không khí trong sạch quanh đấy. Thịnh lặng lẽ đi bên Hậu, chốc chốc nàng lại nghĩ thầm:

– Ở đây, yên tĩnh và đẹp đẽ thế này mà lại là nơi đi thăm mộ!

Hậu phảng phất thấy đôi mắt của Bảo nhìn về phía nàng ở, cho đến lúc hơi thở tắt trên cặp môi thâm. Bây giờ, Hậu cũng đương nhìn lại nơi mà chồng nàng đã nhìn trong phút sau hết. Nàng thấy lòng dìu dịu. Hậu đã nhiều lúc yên ủi được sự đau đớn của mình, nhưng không phải như bao nhiêu người vui quên khác. Trái lại, Hậu yêu thích những kỷ niệm buồn bã, mang nó vào cuộc đời, như một sự thiêng liêng mà người ta phải gìn giữ.

Vì thanh xuân là cái kho tàng đồ sộ của đời người, sự đau đớn to tát nhất cũng chỉ mới tiêu hoang đi được một góc. Kỷ niệm chỉ là một phần những ngày sống của Hậu mà không phải là tất cả: Hậu mới hai mươi bốn tuổi.

Nắng lúc ấy đã xế. Tự những quãng rừng xa, hơi gió thổi lại như tiếng thở dài âm thầm của lòng trái đất. Giải sông lấp lánh trong lùm cây như những gợn sóng linh hoạt.

Hậu có một vẻ đẹp dịu dàng dưới ánh nắng. Thịnh thì giữ nguyên vẻ buồn bã thầm kín trên mặt.

Một lối đi sạch sẽ chạy thẳng vào nghĩa trang, hai bên là hai hàng rào xanh đậm. Nghĩa địa vắng ngắt. Thịnh và Hậu rón rén đi trên những lối trước mộ, vì cả hai cùng cảm thấy cái chết gần mình quá. Sau một hồi tìm kiếm, Hậu và Thịnh cùng đứng trước một nấm mộ rào gỗ chung quanh, trên đấy nổi lên một cây thánh giá nhỏ. Đó là nấm mộ Bảo. Chung quanh nơi Bảo nằm, rải rác những nấm mộ khác, những bạn của Bảo cũng chết vào một lớp với chàng. Trước sự chăm nom chu tất về nơi nằm của Bảo, Hậu không khỏi cảm động nghĩ đến đức tính của chồng, cái kiêu ngạo chính đáng của một người đàn bà khi thấy người yêu của mình chết rồi mà vẫn được giữ gìn cẩn thận.

Hậu chắp tay, cúi đầu đứng trước mộ Bảo, lặng lẽ như người không hay biết gì hết. Không muốn làm rộn sự yên tĩnh của chị, Thịnh đi vơ vẩn ra gần đấy, chăm chú đọc trên các mộ chí bên đường.

Thỉnh thoảng, Hậu lại đưa khăn lên lau mắt. Hậu không cầu nguyện cho Bảo nữa. Hậu chỉ xin vong hồn chồng phù hộ cho nàng đủ nghị lực phấn đấu với những sự cám dỗ đã bắt đầu có sức mạnh quanh nàng. Là vì Hậu càng ngày càng cảm thấy mình thiếu thốn, trống lạnh, càng ngày nàng càng thấy đời tươi đẹp thêm lên… Sự chống đỡ của nàng dần dần yếu, sự quả quyết dần dần bại liệt. Tuổi trẻ, sum họp, âu yếm là ba cái cản trở lớn cho sự thề nguyện trung thành với Bảo của Hậu. Cô độc đè nén xuống Hậu, vây quanh đời Hậu. Nàng muốn thoát nó, nhưng nàng không đủ can đảm. Mỗi lần ý tưởng đen tối len vào óc nàng, Hậu lại hối hận. Nàng tự tố cáo mình là bất chính, nàng đau khổ phấn đấu, phấn đấu nữa, nhưng đến lúc sắp toàn thắng, Hậu lại sa ngã.

Trong cuộc chinh chiến vô hình nhưng mãnh liệt ấy, tâm hồn Hậu bị kích thích, nhầu nhã đến cực điểm. Nàng băn khoăn tìm một con đường chính đáng, trong lúc nàng vẫn nhìn sang con đường khác, vẫn thèm thuồng những chân trời khác. Hai mươi bốn tuổi còn bừng sáng mùa xuân trên trán Hậu là một sự trái ngược mai mỉa với tấm lòng bị ép sống theo sự già cỗi, tàn úa của nàng. Nhiều lần nhìn những thiếu phụ vào tuổi nàng, sung sướng, hớn hở, Hậu thấy cái ý định ở vậy của mình là khờ dại. Nhưng một khi nhìn vào gia cảnh, cái gia cảnh thâm nghiêm với mấy chữ “Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa” mạ vàng chói lói, Hậu lại rờn rợn nghĩ đến sự phản bội dẫu mới là phác trong ý nghĩ. Tâm trạng Hậu cũng phức tạp như tâm trạng một người du khách ước ao những quang cảnh lạ mắt, nhưng không muốn tìm đến, tuy mọi điều kiện trong cuộc hành trình đã đầy đủ, sẵn sàng. Sự lưỡng lự ấy do một lẽ rất dễ hiểu là nếu đi, du khách sẽ phải dọn nhà, thay chỗ, phiền phức đủ điều. Vả lại những chân mây tưởng tượng thì đẹp đẽ kia, biết đâu khi đến gần, cũng chỉ là những cảnh tượng đã một nghìn lần quen mắt. Hậu ở vào hoàn cảnh ấy. Nàng ước muốn náo nức, nhưng cuộc đời đầy dẫy lễ nghi kéo nàng lại. Hậu bắt buộc phải gạt bỏ ý định trên kia đi, để sống với những sự phiền phức chung quanh nàng. Hậu băn khoăn tìm kiếm, phấn đấu, chán nản, rồi lại phấn đấu chỉ vì sự lưỡng lự trước hai con đường. Sự phiền phức về tâm lý của Hậu đã nhiều lần làm Thịnh bực bội, là tia sáng chiếu ra ngoài tâm trạng thiếu trật tự của nàng.

Hậu đứng trước mộ Bảo lâu lắm. Nàng thầm khấn đến quên cả giờ phút, quên cả Thịnh đang nóng ruột đợi mình. Mải khi nghe Thịnh dục ra về, Hậu mới sực tỉnh. Nàng ngần ngại rời nấm mộ Bảo, dắt tay Thịnh đi một loạt trong nghĩa trang trước khi ra về.

Ra khỏi nơi trên, Hậu và Thịnh còn đưa mắt nhìn lại lần cuối cùng nơi Bảo yên nghỉ. Gió chiều bắt đầu về từ những cánh rừng xa vắng. Trong cái hiu quạnh vô biên ấy, im lìm ngủ mấy nếp nhà tranh của dân bản xứ. Nắng ngả mầu vàng thẫm trên sự vật. Đường về tỉnh lỵ không xa mấy. Vả lại hiếm xe cộ, nên hai người đồng lòng đi bộ.

*

Thành phố K..bắt đầu lên đèn, khi hai người về đến nhà trọ. Cơm nước xong, Hậu và Thịnh yên lặng ngồi sau chiếc cửa sổ trên gác trông xuống phố. K…thiếu ánh sáng, thiểu não như còn chứa đầy những kỷ niệm của bao ngày kinh khủng vừa qua. Xe cộ thưa, người đi ít, nên thường thường vào quãng chín giờ, các nhà đều lên cửa.

Ngay lúc ấy, một thiếu niên ở phòng bên, chừng có quen biết Hậu và Thịnh, nên lưỡng lự lại bên hai người. Sau hết, chàng đánh bạo hỏi Hậu:

– Xin lỗi bà, nếu tôi không lầm, bà có phải là bà Bảo không ạ?

Hậu ngờ ngợ nhìn người thanh niên, hỏi lại:

– Vâng, mà ông là ai ạ?

– Tôi là anh cô Quyên đến đây từ trưa hôm qua, vì Quyên mệt, nên nhờ tôi sang thăm hộ mộ chồng. Tôi định sáng nay về, nhưng muốn nán lại một hôm thăm các bạn, thành thử mới gặp hai bà.

Hậu nhận được ra Tuấn, liền giới thiệu với Thịnh với chàng. Hậu mời Tuấn ngồi lại bàn nói chuyện, và hỏi thăm về tin tức Quyên.

– Từ ngày chồng mất đi, Quyên không thiết làm ăn gì cả. Tôi đã cố khuyên giải, nhưng Quyên không nghe, suốt ngày chỉ khóc lóc. Hiện giờ Quyên đang mệt, thuốc thang chạy chữa mãi không khỏi.

Nghe Tuấn kể, Hậu buột miệng:

– Tội nghiệp!

Thịnh chêm vào:

– Cô Quyên chung thủy như thế thật đáng phục!

Tự nhiên, Hậu thấy thẹn. Câu nói của Thịnh vừa rồi, hình như chạm đến tâm sự nàng. Hậu kín đáo đưa mắt nhìn Thịnh, nhưng vẫn thấy Thịnh yên lặng suy nghĩ, mới yên lòng.

Muốn phá tan sự nghi ngờ, Hậu tiếp theo:

– Cô Quyên kể cũng đáng mến thật!

Tuấn, từ nãy giờ vẫn im lặng, xen vào:

– Em Quyên tuy đáng mến thật, nhưng lại thiếu xét đoán! Sự hy sinh cuộc đời mình như thế chỉ có cái tiếng đẹp bên ngoài, tựu trung nó vẫn có hại. Đời còn thì phải theo đời mà sống. Những người không có gan thắng nổi sự đau khổ của mình là những người yếu. Một khi ta có thể sống như bao nhiêu người, tại sao lại đầu độc đời mình đi, và làm phiền phức cảnh sống của người khác?

Thịnh như quên mất mình ngồi trước mặt một người con trai, phản đối:

– Nhưng còn kỷ niệm đối với một người đã chết….còn…

Người tán thành ý kiến của Tuấn lúc này là Hậu. Hậu nhận thấy Tuấn có lý, vì Hậu đã có lần nghĩ như thế. Biết vậy, nhưng Hậu không nói ra. Điều mà Hậu không ngờ lại chính là Thịnh gợi chuyện Quyên trước.

– Nếu đàn bà ai cũng như chị Quyên cả, thì cuộc đời hẳn phải có nghĩa lý.

Hậu để ý nghe Tuấn nói, nên nàng chỉ yên lặng. Tuấn nhìn Thịnh rồi trả lời cứng cỏi:

– Có nghĩa lý, vì cô cho như thế. Nếu tôi đặt kỷ niệm vào một địa điểm không quan trong như thế, không phải là vì tôi kém tha thiết với nó. Tôi đã biết qua thế nào là sự đau khổ sau những ngày giông tố. Tôi đã được chứng kiến những cái chết thê thảm của các người thân thích. Tôi không quên được họ, không thể nào quên được, nhưng sự chết của họ, tôi xem như sự đi vắng không có liên can gì đến việc lập cuộc đời của tôi. Tôi vẫn chịu tìm cách lấp cái trống rỗng do họ khơi lên, bằng sự làm đầy đủ bổn phận một người sống. Hình ảnh họ theo tôi bắt tôi nhớ thương, nhưng không phá hoại được. Chính người chết, tôi chắc thế, vẫn cầu nguyện cho người sống được sung sướng, biết theo con đường hợp ý mình. Chống lại ước muốn – sự ước muốn chính đáng – đó là hại, đó là tự giết mình. Vả lại, khư khư giữ lấy một ít kỷ niệm mà tiêu hủy đời mình đi, người chết chắc cũng không muốn thế.

Quay về phía Hậu, Tuấn lưỡng lự:

– Thưa bà, nếu những điều tôi nói đó làm hai bà mất lòng thì tôi xin lỗi, nhưng nói sự thực nên nói ra, tôi cho là lẽ phải.

Hậu thong thả trả lời:

– Chả việc gì, ông cứ tự nhiên.

Nhưng Thịnh lại cương quyết:

– Ý kiến của ông tuy xác đáng, nhưng phải tùy theo từng trường hợp một. Không phải bất cứ ai ai cũng tự yên ủi mình được, vì sự đau khổ còn phải do hoàn cảnh riêng định đoạt lấy. Có những cuộc đời mà người ta bắt buộc phải để vỡ nát đi vì không đủ nghị lực để gây lại, và vì sự đau khổ quá thiêng liêng. Ví dụ như…

Tuấn đã có lần nghe em nói qua về sự thất vọng của Thịnh, nên chàng không dám chạm đến tâm sự của nàng nữa. Tuấn chỉ ngồi mơ mộng, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn Thịnh.

Ngồi gần đấy, Hậu mỉm cười. Nàng đoán được sự trìu mến kín đáo của Tuấn đối với Thịnh. Có lẽ cảnh tang tóc bên trong của Thịnh đã làm Tuấn cảm động, và Hậu tinh ý đoán được những ý nghĩ ở Tuấn. Hậu mong mỏi một ngày mai tươi đẹp sẽ đến với Thịnh vì nàng chắc rằng Thịnh cũng như nàng đã có lần nghĩ đến chuyện lập gia đình nhưng chưa dám thực hiện.

– Em Quyên nhiều lần đã nói chuyện về cô Thịnh với tôi, đã nhiều lần lấy cô làm gương mẫu trong sự ở vậy thờ chồng. Em Quyên mến cô lắm.

– Cô Quyên quả không lầm, ông Tuấn ạ.

Thịnh đỏ mặt, nói chữa:

– Chị Hậu chỉ được cái chế là không ai bằng.

Vẻ thẹn làm Thịnh đẹp thêm. Cặp má hồng đượm ở mặt nàng một làn xuân sắc kiều diễm khiến Tuấn nhìn không chán mắt. Tuấn đã được nghe nói đến Thịnh nhiều lần. Tuấn động lòng thương hại, chân thật như ta thương hại một người sống lầm lạc, trái chiều. Có thể nào một người con gái như Thịnh lại không trở nên được một trang mẹ hiền, vợ thảo? Có thể nào cả một đời xuân sắc lại để héo đi vì một sự sai lầm? Tuấn phẫn kích trước sự tự kiềm chế quá khắc nghiệt của những người không biết tìm an ủi, thích vun trồng những nỗi đau khổ như Thịnh. Mục đích của Tuấn là làm cho Thịnh thấy rõ sự trung thành vô ích của nàng đối với người chết. Bởi vậy Tuấn ăn nói như một nhà ngoại giao đi thương thuyết khiến Thịnh tuy không hẳn muốn nghe theo nhưng cũng không cãi lại.

Sáng mai cả ba người cùng ra xe sớm để đáp tầu về Hà-nội. Trên tầu, Hậu đã có ý ngồi riêng biệt ra một nơi để Tuấn và Thịnh được tự do nói chuyện với nhau.

Bên ngoài, nắng về trung tuần tháng ba đã có vẻ oi bức. Đôi khi tầu chạy qua giữa hai dãy núi trơ trụi hết cây cối, làm rung động dải đường sắt, cùng một lúc với cảnh u uất chung quanh.

Thịnh đưa mắt nhìn ra xa, như say sưa tìm một nấm mộ yêu quý. Nàng nhớ đến nơi miền quê Cao-Mên êm lặng với cái nghĩa trang, với cánh rừng, dải sông nhỏ, qua những tiếng động của máy và của người.

Suốt ngày đi đường, Tuấn nói rất ít, trái lại với hôm nào chàng biện luật trước mặt Thịnh và Hậu. Tuấn nói rất ít nhưng chàng nhìn Thịnh nhiều, như người tìm hiểu những ý nghĩ thầm kín.

– Lại sắp về Hà-nội rồi!

Nghe Thịnh buột miệng thốt ra câu trên, Tuấn ngạc nhiên:

– Cô làm như về Hà-nội là bực bội lắm.

– Vâng, bực bội thật. Tôi không thích cái rộn rịp ở đấy.

Thực thế, Thịnh cảm thấy có cái gì nặng nhọc đè lên lòng nàng, khi nàng nghĩ đến sự trở về sống lại trong căn phòng u ất của mình, kéo dài một cuộc đời đã hầu như cạn mọi nỗi sung sướng. Sau hết, Thịnh nhận biết mọi nỗi buồn khác lạ, mơ hồ, nhưng không phải là không êm ái, lúc con tầu bắt đầu tiến vào địa hạt thành phố. Nỗi buồn ấy, không phải gợi lên bằng những mái nhà đồ sộ, vẻ sầm uất của Hà-nội, nhưng bằng một người nàng mới quen, và người ấy … là Tuấn.

Đợi tầu dừng lại, Tuấn bảo Hậu và Thịnh:

– Em Quyên vẫn nhắc đến hai bà luôn. Bao giờ rỗi, hai bà quá bộ lại chơi.

Chỉ có một mình Hậu đáp:

– Vâng, đến chủ nhật này chúng tôi xin lại.

Tuấn vui vẻ nhiêng đầu chào hai người. Ra đến phố đông, quay lại, Tuấn thấy Hậu và Thịnh đã ngồi xe ra về. Vừa đi, Tuấn vừa nghĩ đến ngày chủ nhật. Chủ nhật, Tuấn sẽ gặp Thịnh. Đời Tuấn không ngờ lại còn có ngày hy vọng đến thế. Ái tình vừa nẩy nở trong lòng chàng, một thứ ái tình êm dịu, đẹp đẽ như mùa xuân. Tuấn đưa mắt nhìn về phía trước: hai chiếc xe kéo Hậu và Thịnh vừa rẽ vào một phố gần đấy. Tuấn tưởng thấy chiếc khăn “san” mầu xanh của Thịnh bay ngược lại đằng sau như dấu hiệu một sự lưu luyến, thân mật.

Hà-nội vẫn đẹp như hôm Tuấn ra đi. Vẫn nắng ấy, trời ấy. Chung quanh Tuấn, phố xá rộn rã, điềm tĩnh bên tấm lòng xao động của chàng….

*

Thịnh bước vội vào nhà, không phải để thăm bà mẹ nghiêm khắc, mà để thấy lại căn phòng riêng của nàng, vì Thịnh cần phải có sự yên tĩnh, sau những phút hồi hộp vừa qua.

Hậu chậm chạp bước lên từng bực thang một. Không một tiếng động chung quanh nàng. Một ít sách báo và thư ngổn ngang đặt trên bàn cạnh đấy. Hậu cầm tất cả trở về phòng. Hậu hy vọng Khánh vẫn đợi nàng. Khánh sẽ nói chuyện với nàng. Khánh âu yếm nàng để nàng quên những sự buồn bực. Hậu hy vọng….Nhưng Khánh đương ngủ, thỉnh thoảng mồm lại nói lắp bắp. Trên đôi má bậu sữa của con, Hậu rón rén đặt một chiếc hôn dịu dàng.

Trong phòng mọi đồ vật như bình thản trước sự trở về của nàng. Hậu thấy chán nản, buồn bã quá. Hậu như cần phải có ai yêu thương, săn sóc nàng, có ai đem đến một sự ấm nóng hun nấu lại sức phấn đấu đã tê liệt của nàng. Ngẫu nhiên, đôi mắt Hậu đặt lên tấm ảnh Bảo…

Hậu vừa thấy nhiều mồ mả quá, nhiều cảnh đau lòng quá. Hậu trở nên sợ-sợ cuộc sống, sợ sự chết cô độc trong căn phòng hẻo lánh trước hình bóng của chồng. Hậu ngồi xuống chiếc ghế gần đấy, hết nhìn Khánh lại nhìn ảnh Bảo. Sau hết nàng nghĩ thầm:

– Từ ngày Bảo mất đi, ta mới nhật thấy yêu Bảo, nhưng muộn quá mất rồi!

Hậu tiếc những ngày tháng êm đềm nàng sống chung với Bảo, những ngày tháng mà trước kia Hậu thường cho là buồn bã, và chỉ mải đến hôm nay, nàng mới kịp hiểu rằng đó là hạnh phúc đã lãnh đạm trôi qua đời. Hậu không biết hưởng những sự vui vẻ khi Bảo còn. Trong một hoàn cảnh gần như bị hắt hủi bây giờ, Hậu quay lại tiếc quãng đời cũ, nhưng đã muộn quá. Mùa xuân có bao giờ đẹp, nếu không đến với ta những buổi chiều lạnh lẽo đem sự nhớ thương vào lòng?

Hậu bước lại bên giường, cởi áo dài, nằm vật xuống. Hậu dỡ tờ báo ra xem, rồi đến bức thư của bà huyện Thanh gửi lại khi nàng đi vắng. Trong thư, bà khẩn khoản mời Hậu đến chơi. Đọc xong, Hậu nhắm mắt lại, tưởng tượng. Nàng thấy hiện ra vẻ mặt hiền từ của một người đàn bà suốt đời chỉ chuyên lo làm điều thiện. Nàng thấy hiện ra luôn hình ảnh một người khác, với cái dáng điệu mạnh mẽ tuấn tú hôm nào. Hậu nhớ lại đôi mắt đen đen linh động, giọng nói nghiêm chỉnh mà Hậu, một người đàn bà thông thái, đã đoán thấy trong đó vẻ trìu mến riêng. Hậu chắc chắn rằng Thụy đã yêu nàng. Hậu còn nghe văng vẳng câu nói của bà Thanh hôm nào:

– Nếu Liên-đoàn phụ nữ mà thành lập, tôi sẽ nhờ cô Hậu làm nữ thư ký.

Lúc ấy, tự nhiên, không ngoảnh lên, Hậu tưởng thấy đôi mắt Thụy đương chăm chăm nhìn nàng.

Trong sự cô độc đã trở thành êm ái, Hậu vui mừng như người vừa được thấy chiếu lại một ít ánh sáng của lòng hy vọng, dẫu chỉ là hy vọng mong manh. Chẳng có gì an ủi nàng cả, nhưng lần này, đặt mình xuống giường, nhắm mắt lại, Hậu cũng thấy vợi đi được đôi phần đau khổ…