June
Mọi chuyện tùy vào bồi thẩm đoàn. Lại một lần nữa như vậy.
Thật lạ lùng khi đặt công lý vào tay mười hai người xa lạ. Hầu hết thời gian giai đoạn tuyên án, tôi nhìn gương mặt họ. Một vài người là mẹ, tôi có thể cảm thấy họ nhìn mình và mỉm cười lại với họ khi có thể. Vài người đàn ông trông như từng trong quân ngũ. Còn một cậu bé, không chắc đã mọc râu chưa, và càng không chắc có thể đưa ra quyết định đúng đắn hay không.
Tôi muốn ngồi lại với từng người một trong họ. Tôi muốn cho họ xem tờ giấy mà Kurt đã viết cho tôi, sau lần đầu chúng tôi chính thức hẹn hò. Tôi muốn cho họ chạm vào chiếc mũ vải mềm mà Elizabeth sơ sinh đã đội từ bệnh viện về nhà. Tôi muốn mở cho họ nghe tiếng của Elizabeth và Kurt trong tin nhắn của máy trả lời tự động, tin nhắn mà tôi không nỡ xóa đi, dù cho mỗi lần nghe lại, lòng tôi lại xé thành muôn mảnh. Tôi muốn đưa họ đi một vòng để thăm phòng ngủ của Elizabeth, với đèn ngủ Tinker Bell và những bộ áo quần của bé, tôi muốn họ vùi mặt vào chiếc gối của Kurt, hít lấy mùi của anh. Tôi muốn họ sống cuộc sống của tôi, bởi chỉ có thế họ mới thực sự biết được tôi đã mất đi những gì.
Đêm trước phiên tranh luận cuối cùng, tôi cho Claire bú lúc nửa đêm, và ngủ quên với bé trên tay mình. Nhưng tôi lại mơ thấy bé ở trên lầu, xa khỏi tôi, và đang khóc. Tôi leo cầu thang đến phòng của bé, căn phòng vẫn còn mùi gỗ mới và sơn vừa khô. “Mẹ đến đây,” tôi vừa mở cửa vừa nói, chỉ để ngay khi bước qua ngưỡng cửa tôi mới nhận ra rằng căn phòng này chưa bao giờ được xây, rằng tôi không có đứa con nào, và bản thân đang rơi vào khoảng không vô định.
MichaelChỉ có những người nhất định được chọn vào bồi thẩm đoàn của một phiên tòa như thế này. Các bà mẹ có con nhỏ phải chăm, những kế toán phải chạy theo hạn chót, các bác sĩ đang dự hội nghị, tất cả họ đều được miễn. Còn lại là những người đã về hưu, các bà nội trợ, những người khuyết tật, và sinh viên như tôi, bởi không ai trong chúng tôi cần phải ở một nơi nhất định vào một thời điểm nhất định.
Ted, chủ tịch bồi thẩm đoàn, là một lão niên khiến tôi nhớ đến ông của mình. Không phải ở cách ông nhìn hay nói, nhưng là bởi cái tài của ông khiến chúng tôi lao mình vào một nhiệm vụ. Ông của tôi cũng vậy, ở cạnh ông, bạn sẽ muốn làm những gì tốt nhất, không phải bởi ông đòi hỏi thế, nhưng là bởi chẳng gì sánh được với nụ cười mãn nguyện lúc biết rằng mình đã gây được ấn tượng cho ông.
Ông của tôi là lý do tôi được chọn vào bồi thẩm đoàn này. Dù cho tôi chẳng có kinh nghiệm cá nhân nào với chuyện giết người, nhưng tôi biết mất đi một người mình yêu thương là thế nào. Một chuyện như thế, bạn không thể cứ bỏ qua, mà phải đi qua, và chỉ vì một lý do này mà tôi hiểu June Nealon hơn cô tưởng. Mùa đông năm ngoái, bốn năm sau khi ông tôi mất, có kẻ đã đột nhập phòng tôi ở ký túc xá, và trộm mất máy vi tính, xe đạp, cùng tấm hình duy nhất tôi chụp chung với ông, nhưng để lại khung ảnh bằng bạc thật. Lúc báo cáo vụ việc cho cảnh sát, điều khiến tôi đau lòng nhất là tấm ảnh đã mất.
Ted đang chờ Maureen tô lại son môi, chờ Jack đi vệ sinh, chờ cho tất cả mọi người có một chút thời gian cho mình trước khi chúng tôi ngồi lại làm việc như một thể thống nhất. “Tốt,” Ted nói, tay chống xuống bàn. “Tôi cho rằng chúng ta vào việc thôi nào.”
Hóa ra, nói rằng ai đó đáng chết vì những gì họ đã làm, thì dễ hơn nhiều so với nhận trách nhiệm biến nó thành sự.
“Tôi nói thẳng nhé.” Vy thở dài. “Tôi thực sự không có khái niệm gì về những điều thẩm phán bảo chúng ta cần làm.”
Ngay đầu giai đoạn nghe lời khai, thẩm phán đã dành suốt một giờ để chỉ dẫn cho chúng tôi. Tôi nghĩ thế nào cũng phải có bản tóm tắt các điểm mấu chốt, nhưng hóa ra tôi nhầm.
“Tôi có thể trình bày,” tôi nói. “Nó như kiểu thực đơn món Tàu vậy. Có một danh sách những điều khiến cho một tội ác có thể bị trừng phạt bằng cái chết. Về căn bản, chúng ta phải tìm một điểm ở cột A, và một hoặc hơn, từ cột B… qua đó xác định kẻ giết người có đáng chịu án tử hình hay không. Nếu chúng ta có một điểm ở cột A, và không điểm nào ở cột B… thì tòa tự động tuyên án tù chung thân không giảm án.”
“Tôi không hiểu lắm, cột A hay cột B có những điểm nào,” Maureen nói. “Tôi chẳng bao giờ thích món Tàu,” Mark thêm vào.
Tôi tiến lên trước tấm bảng trắng và cầm lấy cây bút dạ. Tôi viết, CỘT A, CHỦ TÂM. “Điều đầu tiên chúng ta phải quyết định là liệu Shay có ý định giết cả hai nạn nhân hay không.” Tôi hướng mặt về phía mọi người “Tôi đoán là chúng ta hẳn đã có câu trả lời khi xác nhận là anh ta có tội.”
Rồi tôi viết, CỘT B. “Đây mới là điểm phức tạp. Có một loạt các yếu tố trong danh sách này.”
Tôi bắt đầu đọc từ các bản chép nghuệch ngoạc tôi ghi lại trong lúc thẩm phán truyền đạt:
Bị cáo từng bị kết án tội giết người trước đó. Bị cáo đã bị kết án hai hay ba tội khác với mức độ đáng bị giam giữ trong thời gian hơn một năm - luật vi phạm lần thứ ba.
Bị cáo đã bị kết án hai lần hoặc hơn đối với các tội liên quan đến buôn bán ma túy.
Trong vụ giết người, bị cáo gây nguy cơ thiệt mạng cho một người khác ngoài các nạn nhân.
Bị cáo phạm tội sau khi lên kế hoạch có mưu tính trước.
Các nạn nhân là người dễ bị tổn thương do tuổi già, tuổi nhỏ, hay ốm yếu.
Bị cáo phạm tội một cách ác độc, tàn nhẫn, hay vô luân, liên quan đến việc tra tấn hay xâm hại thân thể nạn nhân.
Bị cáo giết người với mục đích tránh bị bắt giữ theo pháp luật.
Ted dõi theo lúc tôi viết ra những gì nhớ được. “Vậy nếu tìm được một điểm ở cột A, và một ở cột B, chúng ta phải kết án anh ta tội chết?”
“Không,” tôi nói. “Bởi còn có cột C.”
CÁC YẾU TỐ GIẢM NHẸ, tôi viết. “Các lý do để bị cáo được miễn giảm.”
Bị cáo bị hư tổn năng lực nhìn nhận những gì mình đang làm là sai hay bất hợp pháp.
Bị cáo bị cưỡng ép thực sự và bất thường.
Bị cáo có thể bị trừng phạt vì tội đồng lõa trong vụ việc do một người khác gây ra.
Bị cáo còn trẻ, dù không dưới 18 tuổi.
Bị cáo không có tiền sử hình sự nghiêm trọng trước đó.
Bị cáo phạm tội trong trạng thái bị quấy nhiễu nghiêm trọng về tâm thần và cảm xúc.
Một bị cáo khác với tội tương đương sẽ không bị tuyên án tử hình.
Nạn nhân đồng thuận với sự hướng dẫn của bị cáo khiến dẫn đến cái chết. Các yếu tố khác về nhân thân của bị cáo bác lại án tử hình.
Dưới ba cột, tôi viết một dòng lớn bằng mực đỏ: (A+B)-C = BẢN ÁN.
Marilyn dang tay lên trời. “Tôi đã không còn giúp con trai học toán từ hồi nó vào lớp sáu.”
“Không, nó dễ mà,” tôi nói. “Chúng ta đồng ý rằng Shay chủ tâm giết cả hai nạn nhân khi anh ta cầm khẩu súng đó lên. Vậy là xong cột A. Tiếp theo chúng ta cần phải xem liệu có yếu tố tăng án nào trong cột B không, chẳng hạn như, nạn nhân nhỏ tuổi, khớp với Elizabeth, phải không nào?” Quanh bàn, mọi người đều gật đầu.
“Nếu chúng ta xem xong A và B, thì chúng ta đi vào các vấn đề như chuyện nhận con nuôi, bệnh thần kinh, đại loại vậy. Đây chỉ là bài toán đơn giản. Nếu A+B lớn hơn mọi thứ bên biện hộ nói, thì chúng ta kết án tử. Nếu A+B nhỏ hơn mọi thứ bên biện hộ nói, thì chúng ta không làm thế.” Tôi khoanh tròn phương trình này. “Chúng ta chỉ cần xem mọi chuyện cộng trừ thế nào thôi.”
Và như thế, thì chẳng có mấy việc chúng tôi phải làm chung, chỉ là cộng trừ các biến số và xem câu trả lời mình có. Như thế, việc này dễ hơn nhiều.
1:12 chiều
“Tất nhiên là Shay có chủ tâm,” Jack nói. “Anh ta nhận việc để có thể gần gũi cô bé. Anh ta chủ ý chọn gia đình này, và đã tiếp cận ngôi nhà.”
“Anh ta về nhà ngày hôm đó,” Jim nói. “Vì lý do nào mà anh ta trở lại, nếu như không cần phải ở đó?”
“Dụng cụ,” Maureen trả lời. “Anh ta để quên dụng cụ, và chúng là vật sở hữu danh giá của Shay. Có nhớ bác sĩ tâm lý nói gì không? Shay trộm chúng từ ga-ra của một người khác, và không hiểu tại sao làm thế là sai, bởi anh ta cần nó, và dù gì nó cũng đang bỏ xó bám bụi rồi.”
“Có lẽ anh ta chủ tâm để chúng lại,” Ted giả thuyết. “Nếu chúng thực sự quý báu, hẳn anh ta phải đem chúng theo mình?”
Mọi người đều nhất trí với điểm này. “Chúng ta có đồng ý là vụ này có toan tính thực sự hay không?” Ted hỏi. “Biểu quyết nào.”
Nửa căn phòng, kể cả tôi, đưa tay lên. Vài người khác cũng chầm chậm đưa cánh tay lên. Maureen là người cuối cùng, và tôi khoanh tròn ngay yếu tố đó trên bảng.
“Có hai điểm ở cột B,” Ted nói.
“Mà… bữa trưa đâu rồi?” Jack hỏi. “Không phải họ thường đem đến vào giờ này hay sao?”
Anh ta thực sự muốn ăn ư? Bạn đòi một thực đơn thế nào khi đang trong tiến trình quyết định liệu có nên kết thúc mạng sống một con người?
Marilyn thở dài. “Tôi nghĩ chúng ta nên nói về việc khi người ta phát hiện thấy trên người cô bé tội nghiệp không có quần lót.”
“Tôi không nghĩ vậy,” Maureen nói. “Có nhớ khi chúng ta cân nhắc về phán quyết, và đã hỏi thẩm phán xem liệu Elizabeth có bị xâm hại hay không? Thẩm phán nói rằng bởi tội này không bị cáo buộc, nên không thể dùng nó để xác định Shay có tội. Nếu chúng ta không thể dùng đến nó lúc đó, thì làm sao áp dụng lúc này được?”
“Đây là chuyện khác,” Vy nói. “Anh ta đã có tội rồi.”
“Người này đang định cưỡng hiếp cô bé nhỏ,” Marilyn nói. “Với tôi, như thế là hành vi ác độc và tàn nhẫn.”
“Cô biết đó, chẳng có chứng cứ nào cho thấy chuyện đó đã xảy ra,” Mark lên tiếng.
Marilyn nhíu mày. “Này! Người ta tìm thấy cô bé không có quần lót. Một bé gái bảy tuổi sẽ không chạy quanh mà không có quần lót. Hơn nữa, quần lót lại nằm trong túi Shay… anh ta còn làm chuyện gì với nó nữa đây?”
Maureen quắc mắt, “Có cần thiết không nào? Chúng ta đã đồng ý là khi bị giết, Elizabeth quá nhỏ tuổi. Chúng ta không cần thêm điểm nào ở cột B nữa. Tôi nghĩ tôi hơi rối rồi đây.”
Alison, vợ một bác sĩ, hiếm khi nói gì trong những phiên tranh luận thường, nhìn qua Maureen.
“Khi rối, tôi nghĩ về viên cảnh sát đã làm chứng rằng lúc chạy lên cầu thang, ông ta nghe thấy cô bé nhỏ hét lên. Đừng bắn - cô bé đang nài xin. Cô bé đã van xin được sống.” Alison thở dài. “Như thế làm cho mọi thứ trở lại đơn giản, phải không nào?”
Và chúng tôi chìm vào thinh lặng, rồi Ted yêu cầu biểu quyết về việc xử tử hình Shay Bourne.
“Không,” tôi nói. “Vẫn có phần còn lại trong phương trình chúng ta cần giải.” Tôi chỉ vào cột C. “Chúng ta phải cân nhắc những lời của bên biện hộ.”
“Điều duy nhất tôi muốn cân nhắc bây giờ, là bữa trưa của tôi đâu,” Jack nói.
Kết quả biểu quyết là 8-4, và tôi nằm trong nhóm thiểu số.
3:06 chiều
Tôi nhìn quanh phòng. Lần này, chín người đưa tay lên. Maureen, Vy và tôi là những người cuối cùng không thông qua án tử hình.
“Điều gì níu kéo các bạn không đưa ra được quyết định này?” Ted hỏi. “Tuổi của cậu ấy,” Vy nói. “Con trai tôi hai mươi tuổi. Và tất cả những gì tôi nghĩ được, là không phải lúc nào cậu ấy cũng đưa ra được những quyết định tốt nhất. Cậu ấy vẫn chưa đủ trưởng thành.”
Jack quay về phía tôi. “Anh cũng trạc tuổi Shay. Anh đang làm gì với cuộc đời mình nào?”
Tôi thấy mặt phừng phừng. “Tôi, à, có lẽ tôi sẽ tốt nghiệp. Tôi không thực sự chắc lắm.”
“Anh chưa từng giết ai, phải không?”
Jack hỏi, rồi bật đứng dậy. “Tạm nghỉ thôi nào,” anh ta gợi ý và chúng tôi nhất loạt đều chộp lấy cơ hội này để tách ra. Tôi cầm cây bút dạ trên bàn, bước về phía cửa sổ. Bên ngoài, các nhân viên tòa án đang ngồi ăn trưa trên ghế băng. Mây len giữa các chạc cây xoắn xít. Và những chiếc xe tải của đài truyền hình với ăng-ten vệ tinh trên nóc, đang chờ để nghe những lời chúng tôi sắp nói.
Jim ngồi kế bên tôi, đang đọc Kinh thánh, quyển sách như một phần thân thể phụ của anh vậy. “Anh có đạo không?” Jim hỏi.
“Tôi từng đi học giáo lý, từ lâu lắm rồi.” Tôi đối diện thẳng với anh. “Trong đó có gì nói về chuyện quay má bên kia cho người ta tát không?”
Jim mím môi và đọc to: “Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi: vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Đừng để một con sâu làm rầu nồi canh.” Rồi anh chuyền quyển Kinh thánh cho tôi. “Anh tự xem đi.”
Tôi nhìn vào câu trích, rồi gấp sách lại. Tôi không biết nhiều về đạo như Jim, nhưng với tôi, dường như dù Chúa Jesus có nói gì đi nữa, thì hẳn Ngài sẽ rút lại sau khi chính Ngài bị tuyên án tử hình. Thật vậy, dường như với tôi, nếu Chúa Jesus ở trong phòng bồi thẩm này, Ngài hẳn sẽ phải chật vật để làm điều cần phải làm, như tôi lúc này đây.
4:02 chiều
Ted bảo tôi viết Có và Không trên bảng, rồi ông lấy ý kiến của chúng tôi, từng người một, còn tôi thì viết tên mỗi người theo hai cột.
Jim?
Có.
Alison?
Có.
Marilyn?
Có.
Vy?
Không.
Tôi ngập ngừng, rồi viết tên tôi bên dưới tên của Vy.
“Anh đã đồng ý bỏ phiếu án tử nếu như cần phải thế,” Mark nói. “Trước khi chọn chúng ta vào bồi thẩm đoàn, họ đã hỏi từng người chúng ta liệu có thể làm được điều này không.”
“Tôi biết.” Tôi đã đồng ý thông qua án tử hình nếu vụ này xứng đáng phải thế. Chỉ là tôi vừa nhận ra việc này thật khó khăn đến chừng nào.
Vy vùi mặt trong hai tay. “Khi con trai tôi thường hay đánh em nó, tôi đã không đánh đòn và nói ‘Đừng đánh.’ Lúc đó, tôi thấy mình thật đạo đức giả. Và bây giờ, tôi cũng thấy thật đạo đức giả.”
“Vy,” Marilyn nói khẽ, “nếu đứa con bảy tuổi của chị bị giết thì thế nào?” Marilyn tiến về phía bàn, nơi chúng tôi đặt giấy tờ và chứng cứ, cầm lên tấm ảnh của Elizabeth Nealon mà công tố viên đã cho chúng tôi xem trong phiên tranh luận cuối cùng của ông. Cô đặt tấm ảnh trước mặt Vy, vuốt nhẹ lên mặt ảnh.
Sau một phút, Vy nặng nề đứng dậy và lấy cây bút từ tay tôi. Cô xóa tên mình khỏi cột Không, và viết lại dưới tên của Marilyn, cùng với mười bồi thẩm khác trong cột Có.
“Michael,” Ted lên tiếng.
Tôi nuốt nước bọt.
“Anh cần phải thấy, phải nghe thêm gì nữa? Chúng tôi có thể giúp anh tìm nó.” Ông lấy cái hộp đựng những viên đạn, áo quần loang máu, và các báo cáo pháp y. Ted lướt những tấm ảnh trước mắt tôi. Một vài tấm quá nhiều máu đến mức bạn khó lòng mà thấy được nạn nhân dưới tấm màn đỏ thẫm đó được. “Michael,” Ted nói, “làm toán đi.”
Tôi đứng đối diện với tấm bảng, bởi không chịu nổi cái nhìn của mọi người đang chăm vào mình. Kế bên danh sách tên, với tên tôi đứng lẻ loi một mình, là phương trình ban đầu mà tôi đã lập khi chúng tôi vừa vào phòng bồi thẩm này: (A + B) - C = BẢN ÁN.
Điều tôi thích ở toán học, là bởi nó an toàn. Luôn luôn có một câu trả lời đúng, dù chỉ là trong hình dung.
Nhưng đây lại là một phương trình mà toán học không giải được. Bởi A+B, những yếu tố gây ra cái chết của Kurt và Elizbeth Nealon, luôn lớn hơn C. Bạn không thể đảo ngược, và cũng chẳng có chuyện mủi lòng nào trên thế giới này đủ để xóa nhòa sự thật đó.
Nơi khoảng trắng giữa có và không, là cả một đời người. Đây là sự khác biệt giữa con đường bạn theo và con đường bạn bỏ, đây là hố sâu giữa con người bạn nghĩ bạn có thể là và con người bạn thực sự là, đây là nơi dung túng những dối trá bạn tự nói với chính mình trong tương lai.
Tôi xóa tên mình trên bảng, rồi cầm lấy cây viết, và viết lại, trở thành bồi thẩm thứ mười hai và cuối cùng, tuyên Shay Bourne án tử hình.
“Nếu Chúa không tồn tại, thì nhất thiết phải sáng tạo ra Chúa.”
—VOLTAIRE, FOR AND AGAINST