June
Nếu là một người mẹ, khi nhìn vào khuôn mặt của con mình, dù nó đã lớn, bạn vẫn có thể thấy được đôi mắt hé nhìn bạn qua tấm bọc trẻ sơ sinh. Bạn có thể nhìn cô con gái mười một tuổi đang ngồi sơn móng tay lấp lánh và nhớ lại cô bé đã níu tay bạn thế nào khi muốn băng qua đường. Bạn có thể nghe bác sĩ nói rằng tuổi thiếu niên là một nguy cơ thực sự, bởi bạn chẳng biết tâm hồn con trẻ sẽ phản ứng thế nào trước cơn phun trào trưởng thành, và bạn vờ như tuổi đời cứ thế mà trôi.
“Thắng hai ván trên ba,” Claire nói, và vung nắm tay lên khỏi mớ chăn bệnh viện.
Tôi cũng đưa tay lên. Búa, bao, kéo, ra nào.
“Bao.” Claire cười hớn hở. “Con thắng.”
“Hoàn toàn không,” tôi bảo. “Này? Kéo hả?”
“Mẹ quên cho con biết là trời đang mưa, và kéo bị gỉ, nên bao đè lên kéo và lôi đi.”
Tôi cười vang. Claire nhẹ nhàng quay người đi, cẩn thận không làm bung những ống truyền và dây dợ. “Ai cho Dudley ăn?” bé hỏi.
Dudley là chú chó của chúng tôi, một con tai cụp mười ba tuổi, là vạch nối duy nhất, ngoài tôi ra, giữa Claire và người chị quá cố của bé. Có lẽ Claire chưa bao giờ gặp Elizabeth, nhưng cả hai đều lớn lên với trò xếp ngọc giả quanh cổ Dudley, mặc đồ cho chú như một anh chị em mà mình chưa từng có. Tôi bảo Claire, “Đừng lo về Dudley. Mẹ sẽ nhờ bà Morrissey nếu cần.”
Claire gật đầu và nhìn đồng hồ. “Con nghĩ đáng ra họ phải về lại đây rồi.”
“Mẹ biết, con yêu à.”
“Mẹ nghĩ có chuyện gì lại mất thời gian đến vậy?”
Có hằng trăm câu trả lời cho bé, nhưng nổi lên trong trí tôi là việc ở một bệnh viện khác, cách đây hai quận, một bà mẹ khác đã phải nói lời vĩnh biệt con mình để tôi có thể giữ đứa con này.
Tên khoa học cho bệnh của Claire là giãn cơ tim trẻ em. Có đến hơn mười hai triệu trẻ em mắc bệnh này mỗi năm, và nó nghĩa là lỗ hổng tim của bé ngày càng mở rộng đến mức không thể bơm máu hiệu quả được. Bạn không thể sửa chữa hay đảo ngược quá trình này, nếu may mắn, bạn có thể sống chung với nó. Nếu không thể, bạn sẽ chết vì sung huyết tim. Ở trẻ em, 79% ca bệnh không rõ nguyên do. Một phía thì xem bệnh này là do viêm cơ tim và các nhiễm trùng virút trong thời sơ sinh, phía khác lại cho rằng đây là bệnh di truyền từ bố mẹ mang nhiễm sắc thể bị lỗi. Tôi luôn luôn cho rằng Claire thuộc trường hợp thứ hai. Xét cho cùng, một đứa trẻ lớn lên trong đau buồn hẳn sẽ sinh ra với trái tim nặng nề.
Lúc đầu, tôi không biết chuyện này. Bé dễ mệt hơn các trẻ khác, nhưng bản thân tôi vẫn còn đang buồn sầu và đã không để ý thấy. Cho đến tận khi bé năm tuổi, nhập viện vì cúm dai dẳng, các bác sĩ mới chẩn đoán ra. Bác sĩ Wu nói rằng Claire có chứng loạn nhịp tim nhẹ có thể diễn biến xấu mà cũng có thể không, ông cho bé Captopril, Lasix, Lanoxin, ông bảo chúng tôi phải đợi xem sao.
Ngày đầu niên học lớp năm, Claire nói với tôi là hình như bé đã nuốt phải một con chim ruồi. Tôi cho đó chỉ là căng thẳng đầu năm học, nhưng vài giờ sau, khi đứng dậy để giải toán trên bảng, người bé lạnh ngắt. Chứng loạn nhịp tim nặng thêm khiến tim bé đập như ong vỡ tổ dù nó không đẩy đi bất kỳ giọt máu nào. Cũng như những vận động viên bóng rổ có vẻ thật mạnh khỏe bỗng nhiên chết ngay trên sân vậy. Đây là chứng kết tâm thất, và nó đã xảy đến trên Claire. Bé đã được phẫu thuật để cấy AICD, máy sốc điện tim tự động cấy trong người, hay nói đơn giản là một phòng cấp cứu nội bộ nhỏ xíu nằm ngay trên tim bé, nó sẽ chữa những cơn loạn nhịp tim trong tương lai bằng cách sốc điện. Bé cũng được đưa vào danh sách chờ cấy ghép.
Cấy ghép nội tạng là một trò chơi phức tạp, khi bạn nhận được một trái tim là đồng hồ bắt đầu chạy, mà đó lại không phải là cái kết hạnh phúc như mọi người tưởng. Bạn sẽ chẳng muốn chờ quá lâu cho một nội tạng khi mà phần còn lại trong cơ thể bắt đầu ngưng hoạt động. Nhưng ngay cả khi đã được ghép tạng cũng không phải là phép lạ, hầu hết người nhận chỉ có thể dung nạp nổi trái tim trong vòng mười hay mười lăm năm trước khi xuất hiện các biến chứng, hoặc có trường hợp trái tim mới bị cơ thể thải ra ngay lập tức. Dù thế, theo lời bác sĩ Wu, có lẽ phải mười lăm năm nữa chúng tôi mới có thể mua được một trái tim trên giá hàng của Best Buy… nên hiện giờ lý tưởng nhất là giữ cho Claire sống đủ lâu để chờ các tiến bộ y học.
Sáng nay, nỗi đau đáu suốt trong lòng tôi đã được cất đi. Bác sĩ Wu báo ngay khi tôi gọi cho ông, “chúng tôi đã có một trái tim. Tôi sẽ gặp cô ở bệnh viện.”
Sáu tiếng trước, Claire đã được tắm rửa chuẩn bị sẵn sàng để khi phần nội tạng phép màu đến trong thùng lạnh nhỏ, bé sẽ được đưa thẳng vào phòng mổ. Đây là thời khắc tôi đã trông đợi, đồng thời cũng kinh hãi, cả cuộc đời bé mà.
Nếu như… Tôi không dám nói ra.
Thay vào đó, tôi nắm tay Claire và đan ngón tay mình với bé. Bao và kéo, tôi nghĩ, chúng tôi đang giữa tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Tôi nhìn mái tóc thiên thần của bé xòa trên gối, màu da xanh nhợt, những chiếc xương mỏng manh của một cô bé không kham nổi thân thể mình. Có lần, khi nhìn bé, tôi hoàn toàn không thấy Claire, mà lại tưởng tượng bé là….
“Mẹ nghĩ cô bé đó sẽ thế nào?”
Tôi chớp mắt, giật mình. “Ai?”
“Cô bé. Cô bé bị chết.”
“Claire,” tôi bảo. “Đừng nói về chuyện này.”
“Tại sao không? Mẹ không nghĩ là chúng ta nên biết hết về cô ấy nếu như cô sẽ là một phần của con hay sao?”
Tôi xoa đầu bé. “Chúng ta còn không biết có phải là một cô bé hay không.”
“Tất nhiên là một cô bé,” Claire nói. “Gớm lắm nếu như mang một trái tim của con trai.”
“Mẹ không nghĩ việc này ảnh hưởng đến chuyện hợp nhận đâu.”
Bé rùng mình. “Phải có.” Claire gắng sức vươn thẳng người để ngồi cao hơn trên giường. “Mẹ có nghĩ là con sẽ khác đi không?”
Tôi cúi xuống hôn bé. “Con sẽ tỉnh dậy và vẫn là cô bé không thể bị phiền nhiễu mỗi khi muốn dọn phòng, hay dắt Dudley đi dạo, hay mở đèn khi xuống cầu thang.”
Đó là những lời tôi đã nói với Claire. Nhưng vọng vào tai tôi chỉ có bốn từ Con sẽ tỉnh dậy.
Một y tá đi vào phòng, “chúng tôi vừa được biết, mùa gặt bắt đầu,” cô nói. “Chúng ta sẽ có thêm thông tin sớm thôi, bác sĩ Wu đang điện thoại với đội bên kia.”
Sau khi cô đi, Claire và tôi ngồi đó thinh lặng. Đột nhiên, tôi thấy mọi chuyện lướt qua như thật, các bác sĩ giải phẫu sẽ mở lồng ngực Claire, cho tim bé ngừng đập, và khâu vào đó một trái tim mới. Cả Claire và tôi đều nghe vô số bác sĩ giải thích về các nguy cơ và thành quả, chúng tôi biết việc hiến tạng trẻ em hiếm khi xảy ra. Claire thu mình trong giường, kéo chăn lên đến mũi. “Nếu con chết,” Claire nói, “mẹ có nghĩ con sẽ được làm thánh không?”
“Con sẽ không chết.”
“Có, con sẽ chết. Và mẹ cũng sẽ như vậy. Chỉ là con đi sớm hơn một chút thôi.”
Tôi không ngăn nổi, nước mắt dâng trào. Tôi lau nước mắt bằng rìa khăn trải giường bệnh viện. Claire nắm tóc tôi, hệt như kiểu bé làm khi còn rất nhỏ. “Con cá là con thích,” Claire nói, “Được làm thánh mà.”
Claire chúi mũi suốt vào sách, và mới đây Joan thành Arc đã khơi cho bé ham mê tử đạo trong mọi sự.
“Con sẽ không làm thánh đâu.” “Mẹ đâu có chắc được,” Claire nói.
“Con không phải là người Công giáo, đó là điều thứ nhất. Và hơn nữa, các thánh đều chết rất thảm.”
“Không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Mẹ có thể bị giết khi đang làm việc tốt, và thế cũng tính là thánh. Thánh Maria Goretti cũng bằng tuổi con khi chống lại kẻ cưỡng hiếp, đã bị giết, và được phong là thánh.” “Thật là tàn tệ,” tôi nói.
“Thánh Barbara bị móc mắt. Và mẹ có biết ai là thánh bổn mạng cho các bệnh nhân mắc bệnh tim không? Gioan Thiên Chúa?”
“Vấn đề là, tại sao con biết có một thánh bổn mạng cho các bệnh nhân mắc bệnh tim?”
“À,” Claire nói. “Con đọc thấy. Đó là tất cả những gì mẹ cho con làm mà.” Bé quay mặt vùi vào gối.
Tôi dỗ dành, “Mẹ cá là một vị thánh có thể chơi bóng mềm. Nên một cô bé với trái tim cấy ghép cũng vậy.”
Nhưng Claire không nghe nữa, bé biết rằng hi vọng chỉ là khói thoảng mây bay, và bé học được điều này khi quan sát tôi. Claire nhìn lên đồng hồ. “Con nghĩ, con sẽ là thánh,” bé nói, như thể mọi chuyện hoàn toàn tùy thuộc vào mình vậy. “Như thế để không ai quên được con khi con ra đi.”
Tang lễ của một sĩ quan cảnh sát thật long trọng, với cảnh sát, lính cứu hỏa và công chức từ khắp các thành phố trong bang, và một số còn xa hơn nữa. Có một đoàn xe cảnh sát diễu hành trước xe tang, phủ trắng đường cao tốc như tuyết đổ.
Phải mất một thời gian dài tôi mới nhớ ra tang lễ của Kurt, bởi tôi cố gắng hết sức để giả vờ nó không có thật. Cảnh sát trưởng Irv lái xe đưa tôi đến bên huyệt mộ. Người dân trong thành phố xếp hàng dài dọc theo những con đường ở Lynley, với những biểu ngữ tự làm, tôi đọc thấy BẢO VỆ VÀ PHỤC VỤ và HI SINH TỘT CÙNG. Lúc đó là mùa hè và nhựa đường nhão ra dưới đế giày cao gót khi tôi đứng. Quanh tôi là các cảnh sát làm việc cùng Kurt, và hàng trăm cảnh sát khác nữa, cả một biển đồng phục xanh dương. Lưng tôi đau, còn chân thì sưng phồng. Tôi chăm chăm nhìn một cây tử đinh hương rung rinh trong gió, cánh hoa rơi rụng như mưa.
Cảnh sát trưởng đã bố trí hai mươi phát súng tiễn biệt, và khi súng vừa dứt tiếng, năm máy bay chiến đấu lướt qua rặng núi tím mờ xa xa. Năm chiếc xé ngang bầu trời song song nhau, bỗng một chiếc góc xa bên phải bứt ra, vút về phía đông.
Lúc linh mục nói, tôi chẳng nghe được từ nào, bởi có chuyện gì ông nói về Kurt mà tôi lại không biết chứ. Rồi sau đó Robbie và Vic bước lên, họ là bạn thân của Kurt trong đơn vị. Như mọi người khác trong lực lượng cảnh sát Lynley, họ quấn khăn tang đen trên huy hiệu của mình. Hai người tiến tới lá cờ quấn quan tài của Kurt, và bắt đầu gấp lại. Đôi tay mang găng của họ thoăn thoắt quá nhanh, khiến tôi nghĩ đến Chuột Mickey và Vịt Donald với nắm tay trắng quá cỡ. Robbie là người đưa cho tôi ngọn cờ xếp hình tam giác, một cái gì đó để tôi bám vào, một cái gì đó thế cho Kurt.
Radio của các cảnh sát vang lên:
Mọi đơn vị sẵn sàng cho tin tức truyền thanh.
Hiệu lệnh cuối cùng cho Cảnh sát Kurt Nealon, số hiệu 144.
144, báo cáo đến 360 West Main cho nhiệm vụ cuối cùng.
Đó là địa chỉ của nghĩa trang.
Anh sẽ ở trong bàn tay nhân lành nhất.
Anh sẽ được tưởng nhớ vô cùng.
144,10-7.
Đây là mã hiệu kết thúc ca trực.
Tôi nghe mọi người kể lại rằng, sau đó tôi đã đi đến quan tài của Kurt. Nó quá bóng loáng đến nỗi tôi có thấy ảnh phản chiếu của mình, quá dày vò, quá xa lạ. Quan tài này được làm đặc biệt, rộng hơn bình thường, để chôn cất cả Elizabeth nữa.
Bé chỉ mới bảy tuổi, vẫn còn sợ bóng tối. Kurt sẽ nằm bên bé, như ông voi to đùng gác trên những chiếc gối hồng và chăn vải satin, cho đến khi bé thiếp đi, rồi anh sẽ nhẹ nhàng ra khỏi phòng và tắt điện. Có lần bé thức giấc nửa đêm kêu la hốt hoảng. “Mẹ đã tắt điện,” bé khóc trên vai tôi, như thể tôi làm tan nát lòng bé vậy.
Chủ trì tang lễ cho tôi nhìn mặt hai người lần cuối. Cánh tay của Kurt ôm chặt quanh con gái tôi, Elizabeth gối đầu êm ả trong lồng ngực anh. Cả hai trông hệt như những đêm lúc Kurt ngủ quên chờ đợi bé vùi đầu vào ngực anh như lúc này đây. Cả hai trông hệt như những gì tôi mong ước, êm ả, trong trẻo, và an bình, một mặt hồ phẳng lặng như khi phiến đá chưa ném ra. Đáng phải thấy êm đềm khi Kurt và Elizabeth được ở cùng nhau. Đáng phải thấy được sự thật là tôi không thể đi cùng hai người.
“Chăm sóc cho bé,” tôi thì thầm với Kurt, hôn gió anh qua mặt gỗ mờ. “Chăm sóc cho con em.”
Như thể nếu tôi gọi, Claire sẽ lao vào vòng tay tôi, tan ra như hàng ngàn cánh bướm, một ký ức mà tôi phải sống mãi mãi với nó.
Lúc đó, tôi cầu nguyện với các vị thánh. Đều tôi thích nơi họ là những xuất phát điểm khiêm hạ, họ từng là con người, và bạn biết là họ có một con đường không bao giờ Chúa Jesus có được. Họ hiểu hi vọng vụt tắt, hiểu lời thề tan vỡ và cảm giác đớn đau là gì. Tôi đặc biệt yêu mến thánh Teresa, người tin rằng bạn có thể tuyệt đối bình thường, nhưng một tình yêu cao cả có thể biến đổi bạn. Tuy nhiên, chuyện đã lâu lắm rồi. Cuộc sống có những điểm xoay vần, với những dấu hiệu lớn cho thấy bạn đang chăm chăm vào những thứ sai lầm, chẳng phải sao? Đó là khi tôi bắt đầu thừa nhận với chính mình rằng thà chết đi còn hơn bị trao cho một đứa con phải vật lộn để sống còn.
Tháng trước, chứng loạn nhịp tim của Claire diễn biến xấu đi. Máy AICD của bé phải giật sáu lần một ngày. Tôi nghe biết là khi nó giật, giống như luồng điện chạy suốt cơ thể. Nó kích hoạt trái tim hoạt động trở lại, nhưng gây đau đớn như trong địa ngục vậy. Mỗi tháng một lần sẽ gây hại, mỗi ngày một lần là suy kiệt. Vậy mà Claire phải bị giật nhiều lần mỗi ngày.
Có những nhóm nâng đỡ cho những người trưởng thành phải mang máy AICD, có các câu chuyện kể lại là thà người ta chịu nguy cơ tử vong vì rối loạn nhịp tim còn hơn là biết chắc sớm hay muộn cũng sẽ bị máy giật. Tuần trước, tôi thấy Claire đang ở trong phòng đọc quyển Sách Kỷ lục Guiness Thế giới. “Roy Sullivan bị sét đánh bảy lần trong ba mươi sáu năm,” bé nói. “Cuối cùng, ông ấy tự vẫn.” Cô bé kéo áo lên, nhìn chăm chăm vào vết sẹo trên lồng ngực. “Mẹ,” bé van lơn, “xin tắt nó đi.”
Tôi không biết phải mất bao lâu để thuyết phục Claire ở lại với tôi, nếu như đau đớn này là cách duy nhất để bé có thể làm được như thế.
Claire và tôi đều tức thì quay mình khi cánh cửa mở ra. Chúng tôi tưởng sẽ gặp y tá, nhưng người vào là bác sĩ Wu. Ông ngồi xuống cạnh giường và nói trực tiếp với Claire, như thể cô bé đáng tuổi tôi, còn tôi mới mười một vậy. “Trái tim chúng tôi dự định dành cho cháu đã bị lỗi. Đội ngũ bác sĩ đã không biết chuyện này cho đến khi mổ đến bên trong… tâm thất phải bị giãn. Nếu lúc này nó không hoạt động tốt, thì khả năng cao mọi chuyện chỉ tệ hơn khi đã ghép cho cháu.”
“Vậy… Cháu không thể có tim?” Claire hỏi.
“Không,” bác sĩ Wu giải thích. “Khi bác cho cháu một trái tim mới, bác muốn nó phải là trái tim khỏe mạnh nhất có thể.”
Tôi điếng cả người. “Tôi không… Tôi không hiểu.”
Bác sĩ quay qua tôi. “June à, tôi rất tiếc. Hôm nay không phải là ngày đó rồi.”
“Nhưng có thể phải mất nhiều năm để tìm được một người hiến tạng khác.” Tôi nói, mà không thêm vào phần còn lại muốn nói, bởi tôi biết bác sĩ Wu hiểu được: Claire không thể sống nổi lâu đến thế.
“Chúng tôi hi vọng điều tốt đẹp nhất sẽ đến,” ông nói.
Khi bác sĩ Wu rời đi, tôi và Claire ngồi im lặng một hồi. Tôi đã làm gì thế này? Nỗi sợ tôi đã cố gạt đi, sợ rằng Claire sẽ không chịu nổi ca phẫu thuật, đã thành hiện thực theo một cách khác ư?
Claire bắt đầu kéo máy đo nhịp tim khỏi lồng ngực. “Ừ thì,” bé nói, tôi có thể nghe thấy tiếng nấc trong giọng bé cố gắng không òa khóc. “Thật là phí phạm một ngày thứ bảy.”
“Con biết đó,” tôi cố gắng nói thật đều, “con được đặt tên theo một vị thánh.”
“Thật sao?”
Tôi gật đầu. “Thánh Claire lập một dòng các nữ tu, tên là Các xơ Claire
Hèn mọn.”
Bé liếc nhìn tôi. “Tại sao mẹ lại chọn thánh Claire?”
Bởi vì, ngày con sinh ra, y tá đưa con cho mẹ đã lắc đầu mà nói, “Có dấu hiệu của đôi mắt u sầu.” Và con đúng là thế. Mà Claire là thánh bảo trợ cho những người đau buồn. Và mẹ muốn con được bảo vệ, ngay từ giây phút đầu tiên mẹ đặt tên cho con.
“Mẹ thích cái tên,” tôi nói dối, và giúp giữ áo cho Claire để bé tròng vào.
Chúng tôi muốn rời bệnh viện này, có lẽ đi ăn vài thỏi chocolate Fribbles ở cửa hàng Friendly’s, rồi thuê một bộ phim có kết đẹp. Chúng tôi hẳn sẽ dắt Dudley đi dạo và cho nó ăn. Chúng tôi sẽ làm như hôm nay là một ngày bình thường vậy. Sau khi bé ngủ, tôi sẽ vùi mặt vào gối và để bản thân cảm nhận mọi thứ tôi đã cố không cảm nhận lúc này. Là nỗi hổ thẹn khi biết rằng tôi đã đồng hành với Claire hơn là sống với Elizabeth đến năm năm, là cảm giác tội lỗi vì khuây khỏa khi biết ca ghép tạng này không diễn ra, bởi khả năng nó giết Claire cũng nhiều như cứu sống bé.
Claire cho chân vào đôi giày Converse hồng. “Có lẽ con sẽ gia nhập dòng các xơ Claire Hèn mọn.”
“Con vẫn không thể làm thánh được đâu,” tôi nói. Và trong thâm tâm thêm rằng, Bởi mẹ sẽ không để con chết đâu.