June
Trong thời gian Shay Bourne làm thợ mộc ở nhà chúng tôi, hắn có tặng Elizabeth một món quà sinh nhật. Đó là một chiếc rương nhỏ xinh có bản lề, được làm bằng gỗ vụn sau nhiều giờ chế tác ở một nơi nào đó lúc hắn rời khỏi nhà chúng tôi. Hắn đã làm nó thật tinh xảo, mỗi mặt rương là hình một nàng tiên khác nhau ăn vận theo mùa. Nàng tiên mùa hạ có đôi cánh bằng hoa mẫu đơn rạng ngời với vương miện là mặt trời. Nàng tiên mùa xuân quấn đầy dây nho, và một chuỗi hoa tân nương rũ xuống bên dưới. Nàng tiên mùa thu mang trang sức tiệp màu gỗ thích đường và thùy dương, mũ là quả dầu cân đối trên đầu. Và nàng tiên mùa đông lướt đi trên hồ băng, để lại vệt ánh bạc theo từng bước trượt. Nắp rương là hình vẽ mặt trăng đang vươn lên trên một cánh đồng bát ngát những vì sao với đôi tay hướng về phía mặt trời vừa khuất bóng.
Elizabeth yêu chiếc rương này biết bao. Vào tối Shay tặng nó, bé trải chăn và ngủ trong đó. Khi Kurt và tôi bảo rằng bé không thể làm vậy thêm lần nữa, lỡ như nắp rương sập xuống khi bé đang ngủ thì sao? - thế là Elizabeth biến nó thành nôi cho các cô búp bê, rồi sau đó là tủ đồ chơi. Bé đặt tên cho các nàng tiên trên rương. Có lúc tôi nghe bé nói chuyện với các nàng.
Sau khi Elizabeth chết, tôi đem chiếc rương ra vườn, định tiêu hủy. Lúc đó, tôi đang mang thai tháng thứ tám, lòng chất chứa đau buồn, vung chiếc rìu của Kurt lên, rồi ngay phút chót, tôi lại không thể làm thế. Đây là vật mà Elizabeth trân quý, làm sao tôi nỡ để mất thêm nó nữa? Tôi đem chiếc hộp lên tầng áp mái, và nó đã ở đó suốt nhiều năm.
Tôi có thể nói với các bạn là tôi đã quên mất nó, nhưng như vậy là tôi đang dối lòng. Tôi biết nó ở đó, bị chôn vùi sau đống vali và áo quần con nít cũ, cùng các bức họa trong những khung hình vỡ nát. Khi Claire được khoảng mười tuổi, tôi bắt gặp bé đang cố gắng lôi chiếc rương xuống tầng. “Nó quá đẹp,” bé vừa nói vừa lấy hơi để kéo tiếp. “Và cũng chẳng ai dùng mà.” Tôi chộp lấy Claire và bảo bé xuống nhà nghỉ ngơi.
Nhưng Claire cứ xin cái rương, nên cuối cùng tôi đành đem nó vào phòng bé, đặt ngay dưới chân giường, hệt như Elizabeth lúc trước. Tôi không bao giờ cho Claire biết ai đã làm ra nó. Nhưng có những lúc, khi Claire đang ở trường, tôi hé cửa nhìn vào. Tôi tự nhủ không biết liệu nàng Pandora có ước đã xem kỹ trước những gì bên trong chiếc rương, để thấy ra được đau khổ đang ngụy trang tinh ranh như một tặng vật.
LuciusỞ tầng I này, tôi là bậc thầy về nghề câu. Dụng cụ của tôi là một dây cứng bện bằng chỉ tôi tích trữ suốt nhiều năm trời, kìm lại bằng sức nặng của một cái lược, hay một đống thiệp, tùy vào thứ muốn câu. Tôi nổi tiếng vì khả năng câu từ buồng của tôi đến tận buồng giam Crash, góc xa nhất trong tầng, rồi lại có thể câu đến hốc tắm ở phía bên kia. Tôi cho rằng đây cũng là lý do vì sao khi Shay lôi cần của anh ta ra, tôi lại nhìn với vẻ rất hiếu kỳ.
Lúc này đã qua chương trình Một Đời Để Sống, nhưng vẫn chưa đến chương trình của Oprah, nên bây giờ là khoảng thời gian mà hầu như ai cũng đều đánh một giấc. Tôi cũng cảm thấy không khỏe lắm. Vết lở loét trong miệng khiến tôi nói chuyện rất khó khăn, phải dùng giấy vệ sinh chấm vào. Da quanh mắt tôi bị biến màu vì ung thư Kaposi, giờ sưng phồng đến nỗi tôi hầu như chẳng nhìn được gì. Rồi đột nhiên, cần câu của Shay luồn qua khoảng hẹp dưới cửa buồng tôi. “Muốn một ít không?” anh hỏi.
Khi chúng tôi đi câu, là để kiếm thứ gì đó. Chúng tôi trao đổi tạp chí, đổi chác thức ăn, trả tiền thuốc phiện. Nhưng Shay chẳng muốn gì cả, ngoại trừ việc cho đi. Đầu cần câu của anh là một miếng kẹo cao su Bazooka.
Đây là đồ lậu. Kẹo cao su có thể dùng làm hồ để tạo được đủ mọi thứ đồ, và còn để phá hỏng ổ khóa nữa. Chỉ có Chúa mới biết Shay có được tặng vật hào phóng này từ đâu, và còn sững sờ hơn nữa, là tại sao anh không giữ riêng nó cho mình.
Tôi nuốt nước bọt, cổ họng gần như chẻ làm đôi. “Không, cảm ơn,” tôi hờ hững đáp.
Tôi ngồi lên giường và lột tấm khăn trải giường ra khỏi nệm. Một trong những mối chỉ trên nệm đã được tôi xử lý cẩn thận. Mối chỉ được cột lại như trong trái bóng bầu dục, có thể nới lỏng ra đủ để tôi luồn tay vào lục soát khắp bên trong cái nệm nhiều lỗ hổng. Tôi nhét ngón tay trỏ vào để kiểm kê đồ cất giấu của mình.
Có những viên Lamivudine loại Epivir, và cả Sustiva, Retrovir, Lomotil cho chứng tiêu chảy. Đống thuốc này là tích lũy của nhiều tuần. Alma đã thấy tôi cho thuốc vào miệng và có vẻ như đã nuốt, nhưng thực sự chúng được giữ lại trong vòm má của tôi.
Tôi chưa quyết định xem liệu có dùng chúng để tự vẫn hay không… hay chỉ là cứ để lại thay vì uống chúng, như thế chậm hơn nhưng chắc chắn vẫn là tự sát.
Thật buồn cười khi bạn đang chết dần mòn mà vẫn cố nắm thế thượng phong. Bạn muốn ra hạn định, bạn muốn chọn ngày. Bạn sẽ tự bảo mình phải làm gì, vờ như mình vẫn là người kiểm soát mọi chuyện.
“Joey,” Shay nói. “Muốn một ít không?” Anh lại thả câu, cần kéo rít trên hành lang.
“Thật sao?” Joey hỏi. Hầu hết chúng tôi đều vờ như Joey không hiện diện, như thế an toàn hơn cho hắn. Chẳng ai thèm xem hắn đang tồn tại, và càng không có chuyện cho hắn một miếng kẹo cao su quý báu.
“Tao muốn một miếng,” Calloway yêu cầu. Hẳn hắn đã thấy món hàng quý báu lướt qua, bởi buồng của hắn ở giữa Shay và Joey.
“Tao cũng thế,” Crash nói.
Shay chờ cho Joey lấy xong miếng kẹo, rồi nhẹ nhàng kéo cần về trong tầm tay của Calloway. “Có nhiều mà.” “Mày có bao nhiêu miếng?” Crash hỏi.
“Chỉ một.”
Giả dụ như bạn có một miếng kẹo cao su Bazooka. Có lẽ bạn sẽ chia nó với một người bạn. Nhưng chia một miếng cho bảy kẻ tham lam ư?
Cần của Shay quay qua trái, lướt qua buồng của tôi hướng đến buồng của Crash. “Lấy một ít rồi chuyển đi,” Shay nói.
“Có lẽ tao muốn cả miếng.”
“Có lẽ thế thật.”
“Mẹ kiếp,” Crash nói. “Tao lấy hết.” “Nếu như anh cần.” Shay trả lời.
Tôi loạng choạng đứng dậy, chúi người xuống nhìn, khi cần của Shay đến buồng giam Pogie.
“Lấy một cái nào,” Shay mời.
“Nhưng Crash đã lấy cả miếng rồi…”
“Lấy một cái nào.”
Tôi có thể nghe thấy tiếng mở kẹo, tiếng Pogie nhai nhóp nhép món ăn quý báu êm êm trong miệng. “Tao chưa được nhai kẹo cao su từ năm 2001.”
Đến lúc này, tôi có thể ngửi thấy được nó. Mùi thơm hồng hồng, mùi đường. Tôi bắt đầu chảy nước miếng.
“Ôi cuộc đời,” Texas thở hắt ra, rồi mọi người nhai trong thinh lặng, trừ tôi ra.
Cần của Shay rung lên giữa hai bàn chân tôi. “Thử miếng này,” Shay giục.
Tôi chộp lấy gói hàng ở đầu cần. Với việc sáu người kia đều đang chóp chép, tôi chắc hẳn mình sẽ chỉ thấy một mẩu bé xíu còn lại nếu không nói là chẳng còn gì, nhưng ngạc nhiên thay, miếng kẹo Bazooka vẫn còn nguyên vẹn. Tôi lột nửa cái kẹo và cho một miếng vào miệng. Phần kia tôi gói lại, rồi nhét vào cần của Shay. Tôi thấy cái cần giật lui, về lại buồng chủ nó.
Lúc đầu, tôi gần như không chịu nổi vị ngọt trên những chỗ lở loét trong miệng, những cạnh sắc của miếng kẹo chà xát trước khi nó mềm đi. Tôi khóc ròng khi thèm thuồng một thứ mà tôi biết chắc sẽ gây đau đớn rất nhiều. Tôi bụm tay, chuẩn bị nhổ miếng kẹo ra, thì một chuyện kỳ diệu xảy đến: miệng tôi, cổ họng tôi, chúng ngừng đau, như thể trong kẹo có thuốc tê vậy, như thể tôi không còn là một bệnh nhân AIDS mà là một người bình thường nhai kẹo cao su ở trạm xăng khi đang đổ đầy bình chuẩn bị cho chuyến đi xa. Quai hàm tôi vận động đều đều. Tôi ngồi trên nền buồng giam, vừa nhai vừa khóc, không phải vì đau, mà ngược lại.
Chúng tôi thinh lặng quá lâu, đến nỗi quản giáo Whitaker phải đến xem có chuyện gì đang xảy ra, và những gì trông thấy chắc chắn không phải như anh ta tưởng. Bảy người đàn ông, đang ngồi hình dung một thời thơ ấu mà tất cả chúng tôi đều mong ước. Bảy người đàn ông, thổi bong bóng sáng trong như mặt trăng.
Lần đầu tiên trong gần sáu tháng, tôi ngủ được trọn đêm. Tôi thức dậy với thân xác được nghỉ ngơi tịnh dưỡng, và cái bao tử không rối bung như nó vẫn thường hành hạ tôi hai tiếng ban sớm mỗi ngày. Tôi bước đến bồn rửa, quẹt kem đánh răng lên cái bàn chải thô kệch của nhà tù, và liếc vào mảnh kim loại lăn tăn dùng làm gương.
Có cái gì đó khác lạ.
Những vết lở loét, những vết tấy Kaposi loang lổ trên má và ăn mòn mi mắt của tôi suốt một năm nay, đã biến đâu mất. Da tôi sạch sẽ như một dòng sông.
Tôi cúi người tới để nhìn rõ hơn. Tôi mở to miệng, kéo môi dưới, tìm kiếm trong vô ích những vết phồng vết loét đã từ lâu khiến tôi không ăn uống được.
“Lucius,” tôi nghe một tiếng vang lên từ lỗ thông gió trên đầu. “Chào buổi sáng.”
Tôi liếc mắt nhìn lên. “Là thế, Shay. Lạy Chúa, đúng rồi, đúng là thế.”
Tôi chẳng cần phải gọi để được kiểm tra y tế. Vẻ ngoài được cải thiện của tôi đã đủ khiến quản giáo Whitaker thấy sốc để anh ta tự đi gọi Alma. Tôi được đưa đến phòng tù nhân hay gặp luật sư, để Alma có thể lấy máu, và vài giờ sau, cô trở lại buồng giam để nói cho tôi điều tôi đã biết rồi.
“Chỉ số CD4+ của anh là 1250.” Alma nói. “Và không thể tìm thấy virus.”
“Vậy là tốt, phải không?”
“Là bình thường. Là như máu của một người không có AIDS.” Cô lắc lắc đầu. “Tôi nghĩ có vẻ như chế độ thuốc đặc trị của anh đã đá đít nó đi xa…”
“Alma,” tôi nói, và liếc nhìn quản giáo Whitaker đang đứng phía sau cô, rồi lật khăn trải giường và mở toang nơi tôi giấu thuốc. Tôi đưa chúng cho cô, hàng chục viên đầy cả tay. “Tôi đã không uống thuốc nhiều tháng nay.”
Mặt cô ửng đỏ. “Không thể nào.”
“Không có lẽ thì đúng hơn,” tôi chỉnh. “Mọi chuyện đều có thể.”
Cô nhét những viên thuốc vào túi. “Tôi chắc sẽ có một lý giải y học…”
“Là Shay.”
“Phạm nhân Shay Bourne?”
“Chính anh ta,” tôi nói, biết rằng chuyện này thật điên rồ làm sao, cũng như thật khó để làm cho Alma hiểu. “Tôi thấy anh ta đưa một con chim từ cõi chết trở về. Và lấy một thanh kẹo cao su chuyền quanh đủ cho tất cả chúng tôi. Anh ấy làm rượu phun ra từ vòi ngay đêm đầu tiên đến đây…”
“Được rồi. Quản giáo Whitaker, để tôi xem liệu chúng ta có cần tư vấn tâm lý cho…”
“Alma, tôi không điên. Tôi khỏe, tôi đã lành bệnh.” Tôi nắm lấy tay cô. “Cô chưa từng tận mắt thấy chuyện gì mà cô không bao giờ tưởng tượng nó có thể xảy ra ư?”
Cô liếc mắt về phía Calloway, hắn đã chịu để cô săn sóc suốt bảy ngày nay. “Hắn ta cũng thế,” tôi thì thầm. “Tôi biết.”
Alma ra khỏi buồng của tôi và đứng trước buồng giam Shay. Anh ta đang mang tai nghe xem TV. “Shay,” Whitaker quát. “Còng.”
Khi cổ tay của Shay đã yên vị, lá cửa trượt mở. Alma đứng nơi khoảng giữa, với hai tay bắt chéo đề phòng. “Anh biết gì về tình trạng của phạm nhân Lucius.”
Shay không trả lời.
“Phạm nhân Shay Bourne?”
“Anh ta không thể ngủ được nhiều,” Shay điềm đạm trả lời. “Nó khiến anh ta đau khi ăn.”
“Anh ta bị AIDS. Nhưng đột nhiên, sáng nay mọi thứ thay đổi hết,” Alma nói. “Và vì một lý do nào đó, phạm nhân Lucius tin rằng anh đã làm gì đó trong chuyện này.”
“Tôi chẳng làm gì hết.”
Alma quay về phía quản giáo. “Anh có thấy được chuyện gì không?”
“Có dấu vết chất cồn trong bể nước tầng I,” Whitaker thừa nhận. “Và tin tôi đi, người ta cho là do rò rỉ, nhưng chẳng có gì xác thực cả. Và, ừ thì, tôi thấy tất cả bọn họ đang nhai kẹo cao su. Nhưng buồng của Shay đã bị lục soát kỹ lưỡng, và không bao giờ chúng tôi tìm thấy đồ lậu.”
“Tôi chẳng làm gì cả.” Shay lặp lại. “Là họ.” Đột nhiên, anh bước về phía Alma, thật hăng hái. “Cô đến đây vì trái tim tôi phải không?”
“Cái gì?”
“Trái tim tôi. Tôi muốn hiến tặng nó, sau khi tôi chết.” Tôi nghe tiếng Shay lục tìm trong hộp đồ. “Đây,” Shay nói, đưa cho Alma một mảnh giấy. “Đây là cô bé cần tim. Lucius đã viết tên bé cho tôi.”
“Tôi chẳng biết gì về chuyện này…”
“Nhưng cô có thể tìm hiểu, phải không? Cô có thể nói chuyện với những người có trách nhiệm?”
Alma ngập ngừng, rồi giọng cô dịu lại, cái cách lạt mềm buột chặt cô dùng để nói với tôi mỗi khi tôi quá đau đến mức không chịu đựng nổi. “Tôi có thể nói.”
Thật kỳ lạ, khi bạn xem trên TV những chuyện đang xảy ra ngay trước cửa nhà mình. Hàng đám đông tràn ngập sân trước nhà tù. Ngay cầu thang lối vào văn phòng của viên chức phụ trách giảm án, đầy những người ngồi xe lăn, các bà già chống gậy, những bà mẹ ôm trong ngực đứa con sơ sinh đau bệnh. Có cả những cặp đồng tính, hầu hết là một người khỏe đỡ một người bệnh, còn có những kẻ lập dị cầm những tấm bảng với các câu trích kinh thánh về ngày tận thế. Xếp hàng dọc đường lộ đến tận nghĩa trang và trung tâm thành phố là những chiếc xe thông tín của địa phương, và thậm chí là cả một nhóm của FOX ở Boston.
Ngay lúc này, bản tin trên ABC22 đang phỏng vấn một bà mẹ trẻ có con trai bị tổn thương thần kinh bẩm sinh nghiêm trọng. Bà đứng bên cạnh đứa con đang ngồi trong xe lăn điện, một tay đặt trên trán nó. “Tôi muốn gì ư?” bà nói, lặp lại câu hỏi của phóng viên. “Tôi muốn biết rằng anh ấy biết tôi.” Bà mỉm cười yếu ớt. “Như thế có quá tham lam không?”
Máy quay chĩa vào phóng viên. “Cho đến nay, chưa có xác nhận hay phủ nhận nào từ chính quyền về bất kỳ hành vi phép lạ nào thực sự đã xảy ra bên trong nhà tù bang ở Concord. Tuy nhiên, từ nguồn tin giấu tên, chúng tôi biết rằng những sự việc này phát xuất từ khao khát của tử tù duy nhất ở New Hampshire, Shay Bourne, muốn hiến nội tạng của mình sau khi hành hình.”
Tôi kéo tai nghe xuống cổ. “Shay,” tôi gọi. “Anh có đang nghe cái này không?”
“Chúng ta có một người nổi tiếng rồi,” Crash nói.
Sự hỗn loạn này bắt đầu khiến Shay bối rối. “Tôi luôn là con người mình,” Shay nói, giọng mạnh dần. “Tôi là con người như lâu nay vẫn vậy.”
Ngay sau đó, hai quản giáo đến, hộ tống một người mà chúng tôi hiếm khi thấy: Giám đốc nhà tù Coyne. Một gã lực lưỡng, đầu đinh nhà binh mái bằng đến mức dọn cả bữa ăn lên đó cũng được, hắn đứng cạnh buồng giam trong khi Whitaker bảo Shay lột đồ. Shay bị khám hết người, rồi được phép mặc lại áo quần, trước khi bị còng vào bức tường xéo bên dãy buồng giam của chúng tôi.
Các quản giáo bắt đầu lục soát buồng của Shay, lật nhào bữa ăn dở của anh, giật tai nghe khỏi TV, đổ nhào cái hộp đồ nhỏ của anh. Họ xé toạc nệm, vày vò khăn trải giường. Họ miết tay theo những góc cạnh bồn rửa, hố xí, giường nằm.
“Shay, anh có biết gì về những chuyện đang diễn ra ngoài kia không?” giám đốc nói. Nhưng Shay chỉ đứng đó, rụt đầu vào cổ, hệt như con chim của Calloway khi ngủ. “Anh có buồn nói cho tôi là anh đang cố chứng minh điều gì hay không?”
Trước sự thinh lặng của Shay, giám đốc bắt đầu đi dọc sảnh tầng. “Còn các anh thì sao?” hắn gọi tất cả chúng tôi. “Và tôi sẽ báo cho các anh biết rằng, ai hợp tác với tôi sẽ không bị trừng phạt. Tôi không thể hứa được gì cho tất cả các anh đâu.”
Chẳng ai mở miệng.
Giám đốc Coyne quay về phía Shay. “Từ đâu mà anh có kẹo cao su?”
“Chỉ có mỗi một miếng,” Joey buột miệng, đúng là thằng mách lẻo. “Nhưng nó đủ cho tất cả chúng tôi.”
“Anh là pháp sư à, con trai?” giám đốc nói, dí sát mặt Shay. “Hay anh đã thôi miên chúng tin rằng chúng đang nhận những thứ không có? Tôi có biết về kiểm soát trí óc, Shay à.”
“Tôi chẳng làm gì cả.” Shay nói khẽ.
Quản giáo Whitaker bước lại. “Thưa giám đốc Coyne, trong buồng của hắn chẳng có gì. Trong nệm cũng không. Chăn còn nguyên vẹn, nếu như hắn lấy chỉ làm cần câu, thì hẳn là hắn đã khâu lại sau khi xong việc.”
Tôi há hốc nhìn Shay chằm chằm. Chắc chắn là Shay câu bằng cái chăn của anh mà, tôi đã tận mắt thấy cái cần. Tôi đã gỡ miếng kẹo cao su từ cái thừng màu xanh bện lại mà.
“Tôi đang canh chừng anh, Shay à,” giám đốc đang rít lên. “Tôi biết anh toan tính gì. Anh biết rõ là trái tim của mình sẽ chẳng có giá trị gì khi nó bị bơm đẩy kali clorua trong phòng tử hình. Anh làm thế, bởi anh không còn quyền kháng án nào nữa, nhưng ngay cả khi anh khiến được cô à Barbara chết rét Walters phỏng vấn anh, thì biểu quyết cảm thông cũng không thay đổi được ngày hành hình đâu.”
Rồi giám đốc xuống khỏi tầng I. Quản giáo Whitaker mở còng cho
Shay ngay tại chấn song cột anh, và dẫn Shay về lại buồng. “Nghe này,
Shay. Tôi là người Công giáo.”
“Tốt cho anh,” Shay trả lời.
“Tao nghĩ người Công giáo chống án tử hình chứ,” Crash nói.
“Đúng, đừng có dễ dãi với hắn,” Texas đế vào.
Whitaker liếc mắt nhìn xuống nơi giám đốc đang đứng bên ngoài lớp kính cách âm nói chuyện với một quản giáo khác. “Vấn đề là… nếu anh muốn… Tôi có thể mời một linh mục từ nhà thờ St. Catherine đến thăm.”
Whitaker ngưng giọng. “Có lẽ cha có thể giúp anh về chuyện trái tim này.” Shay nhìn chằm Whitaker. “Tại sao anh làm việc này cho tôi?”
Whitaker thò tay vào cổ áo, lấy ra một tràng chuỗi dài với cây thánh giá gắn ở một đầu. Anh ta đưa nó lên môi, rồi lại thả xuống dưới lớp đồng phục. “Kẻ tin vào Ta,” Whitaker thì thầm, “không phải chính vào Ta mà nó tin, mà là Đấng đã sai Ta.”
Tôi không biết về Tân Ước, nhưng tôi nhận ra đoạn kinh thánh nếu đã từng nghe, và chẳng cần là một nhà khoa học tên lửa để nhận ra Whitaker đang cho rằng những trò hề của Shay, hay muốn gọi thế nào tùy bạn, là từ trời gởi đến. Tôi nhận ra dù Shay chỉ là tù nhân, nhưng anh có một uy quyền nào đó trên Whitaker. Anh có uy quyền nào đó trên chúng tôi. Shay Bourne đã làm một việc mà không một thế lực thú tính, hay trò chơi quyền lực, hay đe dọa băng đảng nào có thể làm được trong suốt những năm tháng tôi ở tầng I này, anh đưa chúng tôi đến với nhau.
Ở buồng bên, Shay đang sắp đặt lại đồ đạc. Chương trình tin tức đang chiếu cảnh nhà tù tiểu bang từ trên cao. Từ thước phim quay trên trực thăng, bạn có thể thấy được biết bao nhiêu người đã tụ tập, và còn bao nhiêu là người đang trên đường tìm đến nhà tù này.
Tôi ngồi xuống giường. Không thể nào, chẳng lẽ là vậy ư?
Những lời tôi nói với Alma bỗng hiện lên: “Không có lẽ thì đúng hơn. Mọi chuyện đều có thể.”
Tôi lôi đồ vẽ giấu trong nệm ra, lật giở các bức phác họa để tìm tấm hình tôi vẽ Shay được đưa đi trên băng ca hôm anh bị lên cơn. Tôi vẽ anh nằm trên băng ca, cánh tay bị căng ra và cột chặt, cẳng chân thắt vào nhau, mắt mở to hướng lên trần nhà. Tôi quay trang vẽ 90 độ. Như thế, trông không như Shay đang nằm. Mà trông như anh đang bị đóng đinh.
Người ta luôn luôn “tìm thấy” Chúa Jesus trong tù. Mà nếu như Ngài đã ở đây thì sao?
“Tôi không muốn đạt được sự bất diệt qua những công trình của mình, tôi muốn đạt được sự bất diệt bằng cách không chết.”
— WOODY ALLEN, TRÍCH TRONG “WOODY ALLEN AND HIS COMEDY”, TÁC GIẢ ERIC LAX