Maggie
Có nhiều điều khiến tôi thấy khoan khoái, trong đó có việc tôi không còn phải ở trường trung học nữa. Có thể nói đó chẳng phải là ký ức đẹp đẽ gì của một cô gái chẳng mặc vừa cái nào trong đống áo quần của siêu thị The Gap, và luôn cố gắng để trở nên vô hình hầu không ai chú ý đến thân hình ngoại cỡ của mình. Hôm nay, tôi đang ở một ngôi trường khác và cũng đã mười năm trôi qua rồi, nhưng tôi vẫn phải chịu đựng những hồi tưởng đầy lo âu. Dù cho đang mặc bộ vest Jones New York toát lên vẻ tôi-là-ngườicủa-tòa, hay dù cho tôi đủ già dặn để người ta có thể tưởng nhầm là giáo viên chứ không phải học sinh, tôi vẫn cứ nghĩ thế nào một trái bóng cũng sẽ lao đến từ góc nào đó, vào bất kỳ lúc nào đó, và tiếp theo là tràng cười chọc ghẹo cô béo khốn khổ này.
Topher Renfrew, cậu bé ngồi bên cạnh tôi trong hành lang trường, mặc chiếc quần jeans đen và áo thun sờn in hình một biểu tượng chủ trương phi chính phủ, với cây guitar treo quanh cổ bằng dây da. Ai đó thử chọc vào nó đi, và nó sẽ nổ bung không biết đường nào mà lần. Tai nghe iPod của cậu bé thả lỏng trước áo thun trông như ống nghe của bác sĩ, và cậu đang đọc quyết định của tòa được phán quyết chỉ một giờ trước đó, môi mấp máy theo từng chữ. “Vậy, tất cả những thứ rác rưởi này là gì?” cậu hỏi.
“Nghĩa là cậu thắng,” tôi giải thích. “Nếu cậu không muốn đọc lên Lời Nguyện thề Trung thành, thì không buộc phải làm vậy.”
“Còn thầy Karshank thì sao?”
Giám thị Karshank, một cựu chiến binh từ Chiến tranh Triều Tiên, đã phạt Topher mỗi khi cậu không chịu đọc lời tuyên thệ trước quốc kỳ. Việc này khiến văn phòng của tôi, hay nói cách khác là tôi, mở một chiến dịch viết thư, rồi sau đó chúng tôi đến tòa để bảo vệ tự do công dân của cậu bé.
Topher đưa lại cho tôi tờ quyết định. “Tuyệt,” cậu bé nói. “Liệu cô có thể hợp pháp hóa chuyện hút cỏ được không?”
“Ừm, không phải chuyên môn của tôi. Xin lỗi.” Tôi bắt tay Topher, chúc mừng cậu bé, rồi cắm đầu ra khỏi trường.
Hôm nay là ngày ăn mừng, tôi hạ cửa xe dù cho bên ngoài trời đang lạnh, rồi mở nhạc Aretha trên đĩa CD. Hầu như vụ nào của tôi cũng bị tòa bác, tôi phải đấu tranh để đưa vụ việc lên chứ thường không được trả lời ngay. Là một trong ba luật sư của Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ ở New Hampshire, tôi là chiến sĩ của Hiến Pháp 1791 nhắm đến tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do tổ chức. Nói cách khác, trên giấy tờ, tôi trông thật tuyệt, nhưng trong thực tế, nó nghĩa là tôi phải trở thành một chuyên gia viết thỉnh nguyện thư. Tôi viết thư thay mặt cho các thiếu niên muốn mặc áo thun Hooters đến trường, cho cậu bé đồng tính muốn đưa bạn trai của mình đến buổi khiêu vũ thành niên, tôi viết thư để buộc cảnh sát tôn trọng người da đen lái xe, bởi phân tích cho thấy họ thường bị thổi lại nhiều hơn người da trắng. Tôi dành vô số thời giờ ở các buổi họp mặt cộng đồng, thương lượng với viên chức địa phương, văn phòng chưởng lý, sở cảnh sát, các trường học. Tôi là con đỉa mà họ không gỡ ra được, là cái gai trên lưng, là lương tâm của họ.
Tôi rút điện thoại và gọi số mẹ tôi ở spa. “Đoán xem nào,” tôi nói ngay khi mẹ vừa bắt máy. “Con đã thắng.”
“Maggie, thật tuyệt vời. Mẹ quá tự hào về con.” Và tiếp theo là một thoáng ngập ngừng. “Con thắng vụ gì?”
“Vụ của con! Vụ con đã kể với mẹ tối cuối tuần trước rồi.”
“Vụ trường công lấy linh vật là một người da đỏ à?”
“Người Hoa Kỳ bản địa chứ. Mà không phải.” tôi nói. “Con thua vụ đó, thật đấy. Con đang nói về vụ Tuyên thệ. Và…” tôi rút ra lá bài chốt của mình, “Con nghĩ con sẽ lên bản tin tối nay. Máy quay vây kín phòng xử án.”
Tôi nghe mẹ tạm gác máy, kêu to với nhân viên về cô con gái nổi tiếng của mình, cười sảng khoái, tôi tắt máy, nhưng rồi chuông điện thoại lại reo ngay trên tay.
“Con đang mặc gì vậy,” mẹ tôi hỏi.
“Bộ vest Jones New York.”
Mẹ tôi ngập ngừng. “Không phải bộ sọc dọc đó chứ?”
“Thế là sao mẹ?”
“Mẹ chỉ hỏi.”
“Phải, bộ sọc dọc,” tôi nói. “Có gì sai hay sao?”
“Mẹ có nói là có gì không phải về nó đâu nào?”
“Mẹ không cần phải nói.” Tôi xoay người tránh một chiếc xe đang tới. “Con phải đi rồi,” tôi nói, và tắt máy, nước mắt chực trào.
Chuông lại reo. “Mẹ con đang khóc,” tiếng của bố tôi vang lên.
“Vâng, chuyện hai mẹ con là vậy đó. Tại sao mẹ không thể hạnh phúc vì con?”
“Bà ấy, nói thật. Bà ấy nghĩ con quá cực đoan.”
“Con quá cực đoan ư? Bố có đùa không đấy?”
“Bố cá là mẹ của Marcia Clark đã hỏi xem cô ấy mặc gì đến phiên tòa của O. J. Simpson,” bố tôi nói.
“Con cá là mẹ cô ấy không tặng con gái mình video tập thể dục nhân dịp lễ hội Hanukkah.”
“Bố cá là Marcia Clark không được mẹ tặng gì nhân dịp lễ Hanukkah,” bố tôi vừa nói vừa cười. “Thay vào đó, chiếc tất Giáng Sinh của Marcia… bố nghe nói nó đầy đĩa DVD phim The Firm.”
Tôi nhoẻn miệng cười. Qua điện thoại, tôi có thể nghe được tiếng khóc kéo dài của một đứa bé. “Bố ở đâu vậy?”
“Ở lễ cắt bì,” bố tôi nói. “Và tốt hơn bố nên đi thôi, bởi đứa nhỏ đang nhìn bố khó chịu rồi, và tin bố đi, bố không muốn làm phiền nó trước khi nó cắt bì đâu. Gọi bố sau và kể cho hết chuyện nhé. Mẹ con chuẩn bị mở
TV xem tin tức đấy.”
Tôi gác máy và ném điện thoại vào ghế sau. Bố tôi, với chuyên ngành nghiên cứu luật Do Thái, luôn luôn giỏi tìm ra khoảng giao nhau giữa trắng và đen. Ngược lại, mẹ tôi có tài năng đặc biệt là tổ chức những ngày ăn mừng rồi phá hoại nó.
Tôi đỗ xe, rồi đi vào nhà, gặp Oliver nơi bậc cửa. “Chị cần cái gì để uống,” tôi bảo, và nó vểnh một tai lên, bởi bây giờ mới chỉ 11:45 sáng. Tôi lao thẳng đến tủ lạnh, cái tủ ngược với những gì mẹ tôi tưởng tượng, khi bên trong chỉ có nước sốt cà chua, một lọ ớt ngọt, cà rốt của Oliver, và yogurt đã hết hạn từ thời Bill Clinton còn làm tổng thống. Rồi tôi rót cho mình một ly rượu nho Yellow Tail. Tôi muốn thư thả một chút trước khi mở TV, với màn hình chắc chắn phát mười lăm phút huy hoàng của tôi, dù cho nó bị làm hỏng bởi bộ vest sọc dọc khiến cho bộ ngực vốn đã quá cỡ của tôi trông như hai tiểu hành tinh vậy.
Oliver và tôi đã yên vị trên ghế bành khi nhạc nền của bản tin trưa reo lên tràn ngập phòng. Biên tập viên tin tức, một bà với đầu tóc vàng um như cái mũ, mỉm cười nhìn vào camera. Phía sau là phông nền hình quốc kỳ Hoa Kỳ với một vạch cắt chéo, và không có phụ đề Tuyên thệ? “Tin tức chính của hôm nay, một quyết định thắng kiện đã được ban ra trong vụ học sinh trung học từ chối đọc Lời Tuyên thệ Trung thành.” Màn hình chiếu dọc các bậc cấp tòa án, và bạn có thể thấy gương mặt tôi với một bó máy thu âm dưới mũi.
Trời ạ, đúng là tôi mập hơn trong bộ vest đó.
“Trong một chiến thắng sửng sốt cho tự do dân sự cá nhân,” tôi bắt đầu lên hình. Bỗng một dòng TIN NÓNG màu xanh sáng phủ đè lên mặt tôi. Màn hình chuyển qua hình ảnh trực tiếp trước nhà tù tiểu bang, nơi hàng đống người đang cắm lều, nhiều người khác cầm biểu ngữ, và… Có phải một hàng dài xe lăn không vậy?
Đầu tóc phóng viên rối bung vì cơn gió. “Tôi là Janice Lee, tường thuật trực tiếp từ Nhà tù Nam của Bang New Hampshire ở Concord, nơi đang giam giữ một người được các phạm nhân khác gọi là Tử tù Thiên sai.”
Tôi bồng Oliver lên, rồi ngồi thụp xuống trước TV. Phía sau phóng viên là cả trăm người, tôi không thể xác định được họ đang biểu tình hay phản đối nữa. Một vài người nổi lên giữa đám đông, là một ông với tấm băng-rôn ghi câu kinh thánh Gioan 3,6, một bà mẹ ôm chặt đứa con yếu ớt, một nhúm nữ tu đang lần hạt.
“Đây là nối tiếp tường thuật ban đầu ghi lại những sự kiện không giải thích được đã xảy ra từ khi phạm nhân Shay Bourne, tử tù duy nhất của bang New Hampshire, bày tỏ mong muốn được hiến các nội tạng của mình sau khi hành hình. Ngày nay, có thể tìm được bằng chứng khoa học cho thấy những việc này không phải là phép thuật… nhưng còn có một chuyện khác nữa.” Màn hình chuyển qua gương mặt một công chức mặc thường phục, là Quản giáo Rick Whitaker theo như dòng phụ đề bên dưới. “Phép lạ đầu tiên là nước từ vòi,” anh ta nói. “Một đêm nọ, khi tôi đang trong ca trực, các phạm nhân lên cơn say, và sau khi kiểm nghiệm, chắc chắn nước trong vòi có chất cồn, dù cho nguồn nước hoàn toàn bình thường. Một số phạm nhân đã kể lại việc một con chim sống lại, dù cho bản thân tôi không chứng kiến việc này. Nhưng tôi phải nói rằng biến đổi lớn lao nhất là về phạm nhân Lucius DuFresne.”
Tiếng phóng viên lại vang lên: “Theo nguồn tin cho biết, phạm nhân Lucius DuFresne, một bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối, đã được chữa lành một cách kỳ diệu. Trong bản tin lúc sáu giờ, chúng tôi sẽ nói chuyện với một bác sĩ ở Trung tâm Y tế Dartmouth-Hitchcock để xem liệu có thể giải thích được chuyện này theo y học hay không… nhưng đối với những tín hữu mới cải đạo theo Tử tù Thiên sai này,” phóng viên vừa nói vừa chỉ tay về phía đám đông sau lưng mình, “thì bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tôi là Janice Lee, tường thuật từ Concord.”
Rồi tôi thấy một khuôn mặt thân quen giữa đám đông sau lưng phóng viên, là DeeDee, trị liệu viên spa đã đắp mặt nạ toàn thân cho tôi. Tôi nhớ mình có hứa với cô sẽ xem qua vụ của Shay Bourne.
Tôi nhấc điện thoại và gọi cho sếp của tôi ở văn phòng. “Ông đang xem tin tức đó chứ?”
Rufus Urqhart, đứng đầu Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ ở New Hampshire, có hai TV trước bàn làm việc, luôn mở các kênh khác nhau để ông không lỡ mất tin nào. “Ừ,” ông nói. “Tôi tưởng là bản tin nói về cô chứ.”
“Tôi bị đè bẹp trước Tử tù Thiên sai.”
“Không thắng được thần thánh đâu,” Rufus nói.
“Chính xác,” tôi trả lời. “Rufus, tôi muốn đại diện cho anh ta.”
“Tỉnh lại nào, cô bé, cô đã làm rồi mà. Ít nhất, cô đã định gởi hồ sơ bạn tòa.”
“Không, ý tôi là, tôi muốn anh ta là thân chủ của mình. Cho tôi một tuần.”
“Nghe này, Maggie, gã này đã xong với tòa án bang, rồi đến tòa liên bang, và cả Tòa án tối cao. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì họ đã thử hồi năm ngoái và bị bác bỏ. Shay Bourne đã dùng hết kháng án của mình… Tôi không thực sự thấy được cách nào để mở lại.”
“Nếu anh ta nghĩ mình là Đấng Thiên sai,” tôi nói, “thì anh ta chỉ cần cho chúng ta cái đòn bẩy.”
Đạo luật Sử dụng Đất đai của Cá nhân và Cơ sở Tôn giáo năm 2000[1] không thực sự được thi hành cho đến tận cách đây năm năm, khi Tòa án tối cao ra quyết định trong vụ Cutter V. Wilkinson, sự kiện một đám tù nhân theo tà phái thờ Quỷ kiện tiểu bang vì không sắp xếp cho nhu cầu tôn giáo của họ. Khi một tù nhân được bảo đảm quyền thực hành tôn giáo, mà không áp đặt tôn giáo đó lên những người không muốn thực hành nó, thì luật phải theo hiến pháp.
Lúc này, tôi đang ở trong nhà bố mẹ, dùng bữa tối, hệt như mọi đêm thứ sáu trước khi ông bà theo nghỉ lễ ngày Shabbat. Mẹ mời tôi trở lại vào ngày thứ hai, và tôi bảo bà là tôi không chắc, phải chờ xem lỡ có việc gì không đã. Chẳng hạn như một cuộc hẹn hò, hay ngày tận thế, mà với tôi cả hai thứ này cũng khá là giống nhau. Rồi tất nhiên, đến ngày thứ sáu, tôi lại chuyền dĩa khoai tây nướng cho bố, và nghe ông nói về lễ Kiddush qua chén rượu.
“Đám thờ Quỷ sao?” mẹ tôi đã nói, thả rơi dao và nĩa. “Vậy gã này là thứ gì?”
“Con không có khái niệm gì,” tôi trả lời. “Con còn chưa từng gặp anh ta.”
“Những kẻ thờ Quỷ có Đấng Thiên sai không?” bố tôi hỏi.
“Cả bố và mẹ đều lạc đề rồi. Về mặt pháp lý, một đạo luật đã tuyên bố rằng ngay cả các tù nhân cũng có quyền thực hành tôn giáo của mình miễn sao nó không cản trở vận hành của nhà tù.” Tôi nhún vai. “Ngoài ra, nếu anh ta là Đấng Thiên sai thì sao? Chẳng phải về mặt luân lý, chúng ta buộc phải cứu mạng sống của anh, nếu như anh ta ở đây để cứu độ thế giới?”
Bố tôi cắt một lát thịt. “Anh ta không phải là Đấng Thiên sai.”
“Và bố biết thế là bởi…?”
“Anh ta không phải chiến binh. Anh ta không có quyền thống trị quốc gia Israel. Anh ta không dẫn lối cho hòa bình thế giới. Mà được thôi, có lẽ anh ta đã làm cho thứ gì đó sống lại, nhưng nếu là Đấng Thiên sai, hẳn anh ta phải phục sinh tất cả mọi người. Và nếu như thế, thì ông nội của con sẽ ở đây ngay lúc này mà hỏi vì sao món thịt lại nhiều nước thế.”
“Bố ơi, có một sự khác biệt giữa một Đấng Thiên sai của Do Thái và… ừ thì… Đấng Thiên sai khác.”
“Điều gì khiến con nghĩ rằng có hơn một Đấng Thiên sai?” bố tôi hỏi.
“Vậy điều gì khiến bố nghĩ là không?” Tôi bẻ lại.
Mẹ tôi thả khăn ăn xuống bàn. “Tôi đi lấy một viên Tylenol đây,” rồi bà rời bàn.
Bố mỉm cười với tôi. “Con đáng ra phải là một giáo sĩ giỏi, Mags à.”
“Vâng, nếu như cái chuyện đạo hạnh phức tạp đó không ngáng đường.”
Tất nhiên, tôi đã được nuôi dạy theo tinh thần Do Thái. Tôi ngồi trong buổi kinh đêm thứ sáu và lắng nghe chất giọng mạnh cao vút của ca trưởng, tôi xem bố tôi tôn kính cầm kinh Torah và nó khiến tôi nhớ lại nét mặt của ông trong bức ảnh ông bồng tôi lúc sơ sinh. Nhưng tôi cũng ngày càng chán ngán khi nhớ hết tên của những người sinh con đẻ cái trong sách Dân số. Càng học về luật Do Thái, tôi càng cảm thấy buộc phải xem bản thân, một bé gái, là ô uế, hạn chế, hay ngu ngốc. Tôi cũng có bat mitzvah, hay lễ trưởng thành nữ, theo ý bố mẹ, và ngay sau hôm đọc kinh Torah mừng biến cố chuyển tiếp vào tuổi trưởng thành, tôi đã bảo với bố mẹ là tôi sẽ không bao giờ đặt chân đến đền thờ nữa.
Tại sao? Bố tôi đã hỏi.
Bởi con không nghĩ Thiên Chúa thực sự bận tâm đến việc con có ngồi dự mọi buổi kinh nguyện tối thứ bảy không. Bởi con không chung phần trong một tôn giáo dựa trên những cái “ngươi không được” thay vì “ngươi nên làm cho sự thiện tốt lành hơn”. Bởi con không hiểu những gì con tin.
Tôi không có gan nói với bố sự thật, rằng tôi giống người vô thần hơn là người theo thuyết bất khả tri, rằng tôi hoài nghi hoàn toàn việc có một Thiên Chúa. Trong nghề luật sư của mình, tôi đã thấy quá nhiều bất công trên thế giới đến mức không thể nào tin nổi một thần linh toàn năng và nhân từ lại để cho những sự tàn ác như thế tồn tại, và tôi ghét ra mặt những người cho rằng có một kế hoạch thần thiêng vĩ đại cho sự hiện hữu đầy khốn khổ của nhân loại. Nó giống như bố mẹ đứng xem con cái mình đùa với lửa và nghĩ rằng, “Ừ, cứ để chúng bị phỏng. Như vậy sẽ dạy cho chúng biết.”
Có lần khi còn ở trường trung học, tôi đã hỏi bố về những tôn giáo qua thời gian bị xem là lầm lạc. Người Hi Lạp và La Mã, với đủ mọi vị thần của họ, nghĩ rằng họ hiến tế và cầu nguyện nơi đền thờ để nhận lãnh ơn huệ từ các thần linh của mình, nhưng ngày nay, những người sùng đạo sẽ bị đem ra làm trò cười. Tôi đã hỏi bố, làm sao bố biết liệu năm trăm năm nữa, một chủng tộc ưu việt nào đó sẽ cầm bản kinh Torah của bố và cả thánh giá của người Kitô giáo, và tự hỏi làm sao mà họ có thể ngây thơ đến thế nhỉ?
Bố tôi, người đã mở ra cuộc tranh cãi này, chỉ biết nói, “Để nghĩ xem?” rồi nín bặt. Bởi ông đã nói rằng, xét cho cùng, một tôn giáo không thể tồn tại hơn hai ngàn năm nếu như nó dựa trên một lời dối trá. Còn lập trường của tôi là: Tôi không nghĩ tôn giáo được xây dựng trên những lời dối trá, nhưng tôi cũng không nghĩ tôn giáo được xây dựng trên sự thật. Tôi nghĩ có tôn giáo bởi đó là điều mà người ta cần đúng ngay lúc nó cần người ta. Như vận động viên trong Giải Thế giới chẳng bao giờ cởi chiếc tất may mắn, hay một bà mẹ có con đang bệnh tin rằng bé chỉ có thể ngủ nếu như bà ngồi suốt bên nôi. Thế đó, những người tin cần có cái gì đó để tin.
“Vậy kế hoạch của con là gì?” bố tôi hỏi, đưa tôi về lại thực tại.
Tôi liếc mắt nhìn lên. “Con định cứu anh ta.”
“Có lẽ con mới là Đấng Thiên sai,” ông trầm ngâm nói.
Mẹ tôi lại ngồi xuống bàn, cho hai viên thuốc vào miệng, và nuốt mà không cần nước. “Thế nếu anh ta tạo ra toàn bộ chuyện này để có ai đó như con sẽ đến giúp cho anh ta không bị hành hình?”
Phải, tôi cũng đã cân nhắc chuyện này. “Nếu nó chỉ là một mưu mẹo, cũng không thành vấn đề,” tôi nói. “Bao lâu con có thể đến được tòa án, thì vẫn còn có người chống án tử hình.” Tôi hình dung mình sẽ được Stone Phillips phỏng vấn. Và khi đã xong việc với máy quay, anh chàng điển trai ấy sẽ mời tôi đi ăn tối.
“Hứa với mẹ rằng con sẽ không là một trong những luật sư phải lòng tên tội phạm này và cưới hắn ngay trong tù nhé…”
“Mẹ!”
“Ừ thì, chuyện dó có mà, Maggie. Những kẻ ác độc rất có sức thuyết phục.”
“Và mẹ biết thế là bởi mẹ đã tự mình trải nghiệm quá nhiều trong tù ư?”
Mẹ tôi đưa tay đầu hàng. “Mẹ chỉ nói thế thôi.”
“Rachel, anh nghĩ Maggie kiểm soát được,” bố tôi nói. “Tại sao chúng ta không chuẩn bị đi cho rồi?”
Mẹ tôi bắt đầu dọn đĩa, và tôi theo mẹ vào bếp. Chúng tôi cứ thế theo thủ tục quen thuộc. Tôi chất đĩa vào máy, và rửa bằng tay những cái lớn, còn mẹ thì lau khô. “Con làm được mà,” tôi nói, như mọi lần vẫn thế. “Mẹ không muốn trễ giờ vào đền thờ đâu.”
Mẹ tôi nhún vai. “Họ chẳng thể khai mạc mà không có bố con.” Tôi đưa mẹ một cái bát ướt, nhưng bà để nó lên kệ và thay vào đó lại xem tay tôi. “Nhìn móng tay con này, Maggie.”
Tôi rụt lại. “Con có nhiều việc quan trọng hơn là bảo đảm móng tay được đẹp đẽ, mẹ à.”
“Không phải mẹ nói về chuyện làm móng. Mà là về bốn mươi lăm phút con cảm nhận điều quan trọng nhất thế giới không phải bất kỳ ai khác… mà là bản thân mình.”
Đúng là mẹ, ngay khi tôi nghĩ chắc mình muốn giết bà mất, thì bà lại nói những điều khiến tôi muốn bật khóc. Tôi cố gắng nắm tay lại, nhưng mẹ đan tay mình vào tay tôi. “Tuần tới, nhớ đến spa. Chúng ta sẽ có một buổi chiều thật thú vị, chỉ hai người thôi.”
Cả lô lốc những câu nói đang chực tôi thốt ra. Cả hai chúng tôi đều bận làm việc để sinh nhai. Sẽ không phải là một buổi chiều thật thú vị, nếu chỉ có hai chúng tôi. Tôi có thể là một kẻ phàm ăn, nhưng không phải ăn hành đâu. Tôi nén lại và gật đầu, dù cả mẹ và tôi đều biết rằng tôi chẳng có ý định sẽ đến đó.
Khi tôi còn bé xíu, mẹ thường có những buổi spa ngay trong bếp, chỉ dành riêng cho tôi. Mẹ chế kem dưỡng tóc từ đu đủ và chuối, mẹ bôi dầu dừa lên da vai và cánh tay tôi, mẹ đắp dưa chuột lên mắt và hát cho tôi nghe những bài của Sonny & Cher. Sau đó, mẹ cầm một cái gương nhỏ trước mặt tôi. “Nhìn cô bé xinh đẹp của mẹ này,” và tôi đã tin những lời của mẹ rất lâu.
“Đến đền thờ nào,” mẹ tôi nói. “Chỉ tối nay thôi. Nó sẽ khiến bố con hạnh phúc lắm.”
“Có lẽ để lần tới,” tôi trả lời.
Tôi tiễn bố mẹ ra xe. Bố tôi mở máy rồi hạ cửa xuống. “Con biết không,” ông bảo. “Khi bố còn đi học, có một ông vô gia cư thường quanh quẩn gần tàu điện ngầm. Ông có một con chuột cưng thường hay ngồi trên vai gặm cổ áo khoác của ông, và ông không bao giờ cởi áo khoác, dù cho trời nóng đến 35 độ. Ông thuộc lòng chương đầu của quyển Mobi Dick. Mỗi khi đi ngang, bố đều đưa ông ấy một đồng.”
Một chiếc xe chạy ngang qua, của ai đó trong cộng đoàn của bố tôi, họ bấm còi chào.
Bố tôi mỉm cười. “Từ Đấng Thiên sai không có trong Cựu Ước… mà là một từ Do Thái chỉ người được xức dầu. Đó không phải là Đấng Cứu Thế, mà là một vị vua hay một tư tế với sứ mạng đặc biệt. Nhưng sách Midrash, nói nhiều đến moshiach, và ngài mỗi lúc mỗi khác nhau. Có khi ngài là một người lính, có khi là chính trị gia, có khi ngài có quyền lực siêu nhiên. Và có khi ngài ăn mặc như kẻ ăn mày. Lý do bố cho ông vô gia cư đó một đồng, là bởi bạn chẳng bao giờ biết được.”
Rồi ông de số lùi ra đường cái. Tôi đứng đó đến khi không còn thấy họ nữa, đến khi chẳng còn việc gì khác ngoài về nhà.