Michael
Trong thời gian nghỉ ăn trưa, tôi đến tìm gặp Shay ở buồng giam tạm. Anh đang ngồi trên sàn, gần song sắt, còn một cảnh sát ngồi trên ghế canh bên ngoài, Shay đang cầm một tập giấy và cây viết chì, như thể đang phỏng vấn ai vậy.
“H,” viên cảnh sát nói, và Shay lắc đầu. “M?”
Shay viết cái gì đó vào giấy. “Tôi nắm được chân anh rồi đấy, anh bạn.”
Viên cảnh sát hít một hơi. “K.”
Shay cười nhăn nhở. “Tôi thắng.” Anh nguệch ngoạc gì đó trên giấy và đưa nó qua song sắt, đến lúc đó tôi mới nhận ra đây là trò treo cổ, và trong lần chơi này, Shay là đao phủ.
Viên cảnh sát, cau mày nhìn tờ giấy. “Szygszyg không phải là một từ.”
“Lúc bắt đầu chơi, anh đã không nói rằng đó phải là một từ thực sự,” Shay trả lời, rồi anh thấy tôi đang đứng bên ngưỡng cửa.
“Tôi là cố vấn thiêng liêng của Shay,” tôi báo với viên cảnh sát. “Cho chúng tôi một phút, được chứ?”
“Không thành vấn đề. Tôi phải lượn một lát.” Anh ta đứng dậy, để lại cho tôi cái ghế đẩu, và ra khỏi phòng.
“Anh thế nào?” Tôi nói khẽ.
Shay đi về phía góc phòng, nằm xuống cái giường sắt và quay mặt vào tường.
“Tôi muốn nói chuyện với anh, Shay à.”
“Cha muốn nói chuyện với tôi, không có nghĩa là tôi muốn nghe.”
Tôi ngồi xuống cái ghế. “Tôi là người cuối cùng trong bồi thẩm đoàn bỏ phiếu đồng ý án tử hình,” tôi nói. “Tôi là lý do khiến mười hai người chúng tôi phải cân nhắc quá lâu như vậy. Và ngay cả sau khi tôi bị mười một người kia thuyết phục rằng đây là bản án xác đáng nhất, thì trong tôi vẫn có cảm giác thật tệ. Sau đó, tôi thường bị hốt hoảng. Một ngày nọ, khi bị cơn hoảng loạn tấn công, tôi đi vào một nhà thờ và bắt đầu cầu nguyện.
Càng cầu nguyện, tôi càng thấy bớt hoảng loạn.”
Tôi xiết hai bàn tay đặt giữa đùi. “Tôi nghĩ đó là một dấu chỉ từ Chúa.” Shay khịt mũi, vẫn quay mặt vào tường.
“Tôi vẫn nghĩ đó là dấu chỉ từ Chúa, bởi nó đưa tôi vào lại cuộc đời của anh.”
Shay ngửa người ra, và lấy một tay che mắt.
“Đừng tự phỉnh mình,” Shay nói. “Nó đưa cha vào lại cái chết của tôi đấy.”
Khi tôi vào phòng vệ sinh nam, Ian Fletcher đang đứng đó. Tôi đã hi vọng sẽ không gặp phải ai trong này. Lời Shay vừa nói, sự thật trần trụi đó, khiến tôi choáng váng đến nỗi quặn thắt cả bụng, và tôi lao ra khỏi buồng giam tạm mà không nói gì. Tôi đẩy cửa vào một ngăn, khuỵu xuống, và đau đớn cùng cực.
Dù tôi có cố gắng lừa phỉnh mình thế nào đi nữa, dù cho tôi có nói gì về nỗi dằn vặt vì những tội lỗi quá khứ của mình, thì sự thật vẫn là, lần thứ hai trong đời, những gì tôi làm vẫn dẫn đến kết quả là cái chết của Shay Bourne.
Fletcher đẩy cửa ngăn và đặt tay lên vai tôi. “Này cha? Cha ổn chứ?”
Tôi chùi tay quanh miệng, chầm chậm đứng lên. “Tôi ổn,” tôi nói, rồi lắc đầu. “Không thực sự thế, tôi khủng khiếp lắm.”
Tôi bước đến bồn rửa mặt, mở vòi, và táp nước vào mặt, còn Fletcher thì đứng nhìn. “Cha có cần ngồi xuống hay gì không?” Tôi lau khô mặt bằng khăn giấy ông đưa cho tôi. Và đột nhiên, tôi muốn có ai đó mang giúp gánh nặng này với mình. Ian Fletcher là người đã gỡ rối những bí mật từ hai ngàn năm trước, chắc chắn ông có thể giữ bí mật này của tôi. “Tôi đã ở trong bồi thẩm đoàn xử anh ấy,” tôi lắp bắp nói qua miếng khăn giấy.
“Xin lỗi?”
Không, tôi nghĩ tôi mới là người phải xin lỗi chứ. Tôi nhìn thẳng vào mắt Fletcher. “Tôi đã ở trong bồi thẩm đoàn tuyên án tử hình Shay Bourne.
Trước khi tôi làm linh mục.”
Fletcher huýt sáo chậm và trầm. “Anh ta có biết không?”
“Tôi vừa cho biết cách đây vài ngày.”
“Còn luật sư của anh ta?”
Tôi lắc đầu. “Tôi vẫn cứ nghĩ đây hẳn là cảm giác của Judas sau khi bán Chúa Jesus.”
Fletcher nhếch mép. “Thật ra, có một phúc âm Ngộ đạo mới được khám phá, Phúc âm theo Judas, và trong đó nói rất ít về chuyện phản bội. Thật sự thì, phúc âm này thể hiện Judas như một người tâm giao của Chúa Jesus, người duy nhất Ngài tin tưởng giao phó làm những gì cần phải làm, cần phải xảy ra.”
“Ngay cả khi đó là một sự tự vẫn có hỗ trợ,” tôi nói, “thì tôi vẫn chắc rằng sau đó Judas đã cảm thấy mình như phế vật. Ý tôi là, ông ta đã tự sát.”
“Ừ,” Fletcher nói, “thế đó.”
“Ông sẽ làm gì nếu ông là tôi?” Tôi hỏi. “Liệu ông có làm cho xong chuyện này không? Giúp Shay hiến tặng trái tim?”
“Tôi cho rằng nó còn tùy vào lý do vì sao cha giúp anh ta,” Fletcher nói thật chậm rãi. “Để cứu anh ta, như cha nói trước tòa? Hay cha thực sự chỉ đang cố để cứu mình?” Ông lắc đầu. “Nếu một con người có thể trả lời cho những câu hỏi như thế này, thì chẳng cần tôn giáo làm gì. Chúc may mắn, cha à.”
Tôi về lại ngăn phòng vệ sinh, đặt nắp bồn xuống, và ngồi lên đó. Tôi lôi chuỗi hạt ra khỏi túi, và thầm thì những lời kinh quen thuộc, ngọt ngào trên môi tôi như đang ngậm kẹo vậy. Tìm ơn Chúa, không phải như tìm chìa khóa thất lạc, hay cố nhớ ra cái tên một cô đào xinh đẹp nào đó. Tìm ơn Chúa không chỉ là cảm giác, mà nó như ánh mặt trời soi rọi vào buổi sớm ngày u ám, như chiếc giường nâng đỡ êm ái trọn con người bạn. Và tất nhiên, bạn không thể tìm được ơn Chúa trừ phi thừa nhận mình đã lạc lối, mất mát.
Một ngăn trong nhà vệ sinh của tòa án liên bang có lẽ không phải là nơi để tìm ơn Chúa, nhưng cũng không có nghĩa là không thể.
Tìm ơn Chúa. Tìm Ân sủng. [Tìm Grace.] Nếu Shay sẵn sàng trao đi trái tim mình, thì ít nhất tôi có thể bảo đảm rằng sẽ có người tưởng nhớ anh. Một người nào đó, không phải tôi. Một người nào đó chưa từng lên án anh.
Và chính lúc đó, tôi quyết định đi tìm em gái của Shay.
JuneThật không dễ dàng gì khi chọn áo quần để mang cho con cái bạn trong hòm. Sau vụ giết người, nhân viên an táng đã bảo tôi nên nghĩ về chuyện này. Ông gợi ý nên dùng bộ nào thể hiện được bé, một bé gái xinh đẹp. Ông bảo tôi đem ảnh bé đến để có thể trang điểm cho đúng màu má hồng của bé, màu da tự nhiên, kiểu tóc của bé.
Tất cả những gì tôi muốn nói với ông là, Elizabeth ghét những bộ váy. Bé sẽ muốn mặc quần lưng thun không có nút, bởi mấy cái nút phiền lắm, hoặc có thể là bộ đồ lễ hội Halloween hồi năm ngoái, hay bộ áo blouse bác sĩ nhỏ xíu mà bé được tặng quà nhân dịp Giáng Sinh. Tôi còn nhớ có lần thấy Elizabeth đang “giải phẫu” cho một quả bí ngòi bự chảng. Tôi sẽ bảo ông phụ trách tang lễ rằng Elizabeth không có kiểu tóc đặc biệt nào, bởi chẳng thể bắt bé ngồi đủ lâu để chải tóc, chứ chưa nói đến bện hay uốn. Và tôi cũng không muốn ông trang điểm trên khuôn mặt của bé, khi mà tôi sẽ chẳng bao giờ có được khoảnh khắc mẹ và con gái đó, lúc hai mẹ con đứng trước tấm gương trong phòng tắm chuẩn bị cho một đêm hội hoành tráng nhất, khi tôi cho bé thử kẻ mắt, dùng mascara, và son môi hồng.
Người phụ trách tang lễ bảo tôi nên có một cái bàn đặt những kỷ vật ý nghĩa của Elizabeth, như thú nhồi bông hay những tấm ảnh kỳ nghỉ của cả nhà, những cái bánh chocolate, ông bảo tôi nên cho mở nhạc yêu thích của bé. Nên để các bạn học viết thư cho bé, để vào túi da đặt trong quan tài của bé.
Tôi chỉ muốn nói với ông ta rằng: ông không nhận ra rằng khi nói với tôi, cũng những chuyện mà ông nói với tất cả mọi người khác về việc tổ chức tang lễ sao cho ý nghĩa, là chính ông đang khiến nó trở nên vô nghĩa hay sao? Tôi muốn cho ông biết rằng Elizabeth xứng đáng được chào đón bằng màn pháo hoa, bằng hợp ca thiên thần, và cả trái đất xoay ngược chiều vì bé.
Cuối cùng, tôi mặc cho bé chiếc váy xòe múa ballet, bộ váy mà bé luôn muốn mặc mỗi khi chuẩn bị đi mua sắm cùng tôi, và tôi luôn phải nhắc bé cởi ra trước khi chúng tôi lên đường. Tôi để nhân viên phụ trách tang lễ là người đầu tiên được trang điểm trên khuôn mặt bé. Tôi để bé đem theo một chú chó nhồi bông, một người bố dượng, và gần như cả trái tim tôi.
Tang lễ của bé không để hòm mở, nhưng trước khi chúng tôi đi đến nghĩa trang, người phụ trách tang lễ đã mở nắp để chỉnh trang lần cuối cho bé. Ngay lúc đó, tôi đẩy ông ta ra. Để tôi, tôi nói thế.
Kurt đang mặc đồng phục, phù hợp với tư cách của anh, một cảnh sát chết khi đang làm nhiệm vụ. Anh trông hệt như mọi ngày, ngoại trừ một đường viền trắng quanh ngón tay đeo nhẫn của anh. Chiếc nhẫn bây giờ đi kèm sợi dây trên cổ tôi.
Elizabeth trông thật thanh nhã, tựa thiên thần. Mái tóc bé cột lại bằng những dây ruy-băng tiệp màu. Cánh tay bé ôm quanh eo của người bố dượng.
Tôi đưa tay vào trong quan tài, và khoảnh khắc chạm tay vào cổ con gái, tôi rùng mình, bởi dường như tôi vẫn nghĩ là nó phải ấm áp, chứ không phải là làn da lạnh lẽo giả tạo này. Tôi gỡ những dây ruy-băng ra khỏi tóc bé, nhẹ nhàng nâng đầu bé lên, rẽ tóc ra hai bên. Tôi kéo chiếc tất trái xuống một chút, để bằng với chiếc bên phải.
“Tôi hi vọng cô hài lòng,” người phụ trách tang lễ đã nói thế.
Nhưng những gì ông làm không giống chút gì với Elizabeth, bởi nó quá hoàn hảo. Con gái tôi áo quần phải nhăn nhàu, bàn tay thì bẩn vì mải mê đuổi theo mấy chú ếch, tất chân này chân kia lúc nào cũng khác màu, và nơi cổ tay là những chiếc vòng mà bé tự làm lấy.
Nhưng trong một thế giới xảy ra những chuyện không đáng có này, bạn sẽ thấy mình đang nói và làm những chuyện hoàn toàn trái ngược với ý bạn muốn. Vậy nên, tôi gật đầu, và nhìn ông ta niêm phong hai con người mà tôi yêu thương nhất trên đời.
Bây giờ, tôi lại thấy mình đang hệt như mười một năm trước, đứng giữa phòng con gái và chọn đồ cho bé. Tôi lướt qua áo, váy, những chiếc quần jeans mềm mịn như vải lanh, và áo khoác mỏng vẫn còn mùi vườn táo, nơi cuối cùng bé mặc nó. Tôi chọn một quần ống loe màu đen với áo thun tay dài có hình Tinker Bell, những bộ đồ mà tôi thấy Claire hay mặc vào những ngày Chúa nhật thong dong nhất, khi trời đổ tuyết và không có việc gì để làm ngoài đọc báo và ngủ lơ mơ bên bức tường ấm áp của lò sưởi. Tôi chọn hai quần lót, và đọc thấy trên mặt trước chữ THỨ BẢY, nhưng lại không tìm thấy những ngày khác trong tuần trong ngăn kéo. Khi đang tìm kiếm, tôi thấy một bức hình được bọc trong khăn tay màu đỏ. Tấm ảnh trong khung bạc hình oval là một bé sơ sinh. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đó là Claire, nhưng rồi nhận ra đây là Elizabeth.
Tấm hình này thường nằm trên nóc cây dương cầm bám bụi chẳng ai còn chơi nữa. Việc tôi không bao giờ để ý đến chuyện tấm ảnh không còn ở đó nữa, là bằng chứng cho thấy tôi đã học được cách để trở lại cuộc sống.
Và cũng vì thế, mà tôi gói ghém bộ áo quần mới tìm được, cho vào túi đem đến bệnh viện.