Maggie
Sau khi tòa tạm hoãn trong ngày cuối tuần, tôi ghé qua phòng vệ sinh trong tòa án. Tôi đang ngồi trong một ngăn, thì bỗng nhiên từ ngăn bên cạnh, một cái micro thò ra ngay dưới lớp ván tường. “Tôi là Ella Wyndhammer từ FOX News,” giọng một người phụ nữ nói. “Tôi không biết cô có bình luận gì về việc Tòa Bạch Ốc đã có tuyên bố chính thức về vụ của phạm nhân Bourne, và về sự tách biệt giữa giáo hội và nhà nước?”
Tôi không biết chuyện Tòa Bạch Ốc đã có tuyên bố chính thức, một phần trong tôi rùng mình khi biết là chúng tôi đã tạo được sự thu hút đến thế. Nhưng rồi tôi nghĩ xem tuyên bố này như thế nào, và có giúp gì cho vụ của tôi hay không. Rồi tôi mới sực nhớ ra mình đang ở trong phòng vệ sinh.
“Vâng, tôi có bình luận đây,” tôi nói, và ấn nút xả.
Bởi không muốn bị Ella Wyndhammer hay bất kỳ ai trong số hàng trăm phóng viên đang nhung nhúc trên từng bậc thang của tòa án bám mình như đỉa, nên tôi rút vào lô cốt của mình, một phòng gặp mặt luật sư - thân chủ, rồi khóa cửa lại. Tôi lấy một tập giấy vàng bắt đầu viết ra bài biện hộ cuối cùng của tôi cho ngày thứ hai, hi vọng đến lúc viết xong, thì đám phóng viên này đã quay qua một con mồi ngon lành hơn rồi.
Khi tôi mang lại đôi giày cao gót, và xếp lại tập giấy, thì trời đã tối. Đèn trong tòa án đã tắt, phía xa xa, tôi có thể nghe thấy tiếng một nhân công đang lau chùi sàn nhà. Tôi đi qua sảnh, qua máy dò kim loại đã tắt, hít một hơi thật sâu, và mở cửa.
Phần lớn đám truyền thông đã nghỉ đêm. Tuy vậy, phía đàng xa vẫn còn một phóng viên lỳ lợm đang cầm micro, ông ta gọi tên tôi.
Tôi bước nhanh qua. “Không bình luận,” tôi nói gấp, rồi nhận ra đó không phải là một phóng viên, và cũng không cầm micro. “Đúng lúc thật,” Christian nói, và tặng tôi bông hồng.
Michael“Cha là cố vấn thiêng liêng của anh ta,” Giám đốc Coyne gọi điện cho tôi lúc ba giờ sáng. “Đến cho anh ta vài lời khuyên đi.”
Tôi cố giải thích với ông giám đốc rằng Shay và tôi đã không còn nói chuyện, nhưng ông ta gác máy trước khi tôi kịp nói. Và vì thế, tôi thở dài, đành lết xác khỏi giường và lái xe đến nhà tù. Thay vì tầng I, viên quản giáo lại đưa tôi đến một nơi khác. “Anh ta đã được chuyển đi,” quản giáo giải thích.
“Tại sao chứ? Lại có ai làm anh ta bị thương sao?”
“Không, anh ta tự làm chuyện này khá là giỏi đấy,” viên quản giáo nói. Và khi chúng tôi dừng lại trước cửa buồng giam Shay, tôi hiểu ngay.
Gần như cả mặt anh thâm tím hết. Các khớp ngón tay đều tươm máu. Một dòng máu chảy xuống từ thái dương bên trái. Anh bị xích cổ tay, cổ chân và bụng, cho dù đang ở trong buồng. “Tại sao các anh không gọi bác sĩ?” Tôi yêu cầu như ra lệnh.
“Ông ấy đã đến đây ba lần rồi,” viên quản giáo nói. “Anh ta cứ giật tung hết băng gạc. Đó là lý do vì sao chúng tôi phải còng lại.”
“Nếu tôi hứa với anh là anh ta sẽ dừng ngay chuyện đang làm…”
“Đập đầu vào tường à?”
“Phải. Nếu tôi cam đoan, thì các anh có tháo còng cho anh ấy không?” Tôi quay về phía Shay, anh đang cố tình làm ngơ tôi. “Shay?” Tôi nói. “Như thế có được không?”
Shay chẳng phản ứng gì, và tôi không biết làm sao để khuyên anh đừng làm tổn thương bản thân nữa, nhưng viên quản giáo vẫn tiến tới cửa buồng và mở còng khỏi cổ tay và cổ chân Shay. Nhưng xích bụng vẫn giữ nguyên. “Để phòng khi,” viên quản giáo nói, rồi đi ra.
“Shay,” tôi nói. “Tại sao anh làm thế?”
“Cút xa khỏi mắt tôi.”
“Tôi biết là anh sợ. Và anh giận dữ,” tôi nói. “Tôi không đổ lỗi cho anh.”
“Vậy thì tôi đoán là có gì đó đã thay đổi. Bởi chắc chắn cha đã từng đổ lỗi cho tôi. Cha và mười một người khác nữa.” Shay nói thêm, dữ dội hơn. “Trong phòng đó như thế nào hả? Các người ngồi đó mà bàn tán nói rằng loại quái vật nào lại làm những chuyện kinh khủng như thế? Các người có nghĩ là mình đã không biết được toàn bộ câu chuyện hay không?”
“Vậy tại sao lúc đó anh không nói?” Tôi không kìm nén nổi nữa. “Anh chẳng cho chúng tôi biết gì cả, Shay à. Chúng tôi có lời giải thích của công tố viên về chuyện đã xảy ra, chúng tôi nghe lời trần tình của June. Còn anh chẳng bao giờ đứng dậy và yêu cầu từ chúng tôi một bản án khoan hồng.”
“Ai sẽ tin những lời tôi phải nói, khi đem so với lời của một gã cớm đã chết?” anh nói. “Luật sư của tôi đã không tin. Ông ta cứ nói suốt rằng chúng tôi phải dùng tuổi thơ khốn khổ của tôi để tìm lối thoát, chứ không phải dùng tường trình thật của tôi về những chuyện đã xảy ra. Ông ta nói tôi không phải kiểu người để bồi thẩm đoàn tin tưởng được. Ông ta chẳng thèm quan tâm đến tôi, mà chỉ muốn có năm giây lên bản tin tối. Ông ta có một chiến lược. Cha biết chiến lược đó là gì không? Lúc đầu ông ta nói với bồi thẩm đoàn là tôi đã không làm chuyện đó. Rồi đến giờ tuyên án, ông ta nói rằng: ‘Được rồi, anh ta đã làm thế đấy, nhưng đó là lý do vì sao quý vị không nên giết anh ta vì chuyện đó.’ Và như thế, cha có thể thừa nhận rằng lời phản kháng vô tội lúc ban đầu chỉ là dối trá.”
Tôi nhìn anh sững sờ. Trong suốt phiên tòa xử vụ giết người, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tất cả những chuyện này đang xoáy trong đầu Shay. Tôi chưa từng nghĩ rằng anh đã không đứng lên trong phiên tòa để xin khoan hồng, là bởi nếu làm thế sẽ giống như anh thừa nhận tội ác này. Bây giờ, nhìn lại mọi chuyện, có vẻ như bên bị cáo đã đổi giọng giữa phiên tuyên hình phạt và phiên tuyên án. Và như thế càng khiến tôi khó tin bất kỳ lời nói nào của họ.
Còn Shay? Anh cứ ngồi ở đó, với mái tóc bê bết và đôi mắt vô hồn. Sự im lặng của anh, mà lúc đó tôi tưởng là kiêu ngạo, lại chỉ là một nhận thức rằng với những người như anh, thế giới không như bao người khác. Và, như mười một bồi thẩm khác, tôi đã kết án anh trước cả khi có bất kỳ phán quyết nào. Xét cho cùng, một kẻ bị lôi ra tòa vì giết hai mạng người là loại người nào chứ? Có công tố viên nào lại muốn án tử hình mà không vì lý do chính đáng?
Khi tôi đã trở thành cố vấn thiêng liêng của anh, anh bảo tôi rằng những chuyện xảy ra trong quá khứ bây giờ không thành vấn đề nữa rồi, và lúc đó tôi hiểu là anh không chịu nhận trách nhiệm cho những gì mình đã làm. Nhưng nó cũng có nghĩa là anh biết rằng, dù cho vô tội, anh vẫn sẽ phải chết.
Tôi đã có mặt ở phiên tòa, tôi đã nghe hết mọi lời chứng. Nghĩ rằng Shay không đáng chịu án tử hình thì thật là lố bịch, thật không thể nào thế được.
Vậy còn, những phép lạ thì sao.
“Shay,” tôi nói khẽ, “tôi đã nghe về bằng chứng. Tôi đã thấy những gì anh gây ra.”
“Tôi chẳng làm gì hết.” Anh lắc đầu. “Là do bộ đồ nghề. Tôi để quên chúng lại ngôi nhà. Khi tôi gõ cửa, không ai ra mở, nên tôi đi vào để lấy chúng… rồi tôi thấy cô bé.”
Tôi thấy cồn cào, quặn thắt. “Elizabeth!”
“Bé thường chơi với tôi. Trò nhìn mắt nhau. Ai cười trước là thua. Lúc nào tôi cũng thắng, và một ngày nọ khi chúng tôi đang đọ mắt nhau, bé cầm cái tuốc vít của tôi lên, tôi không biết bé lấy bằng cách nào, rồi bé quay nó vòng vòng như gã điên cầm dao vậy. Tôi bật cười. Thắng chú rồi nhé, bé nói. Thắng rồi nhé. Và bé đã thắng trọn trái tim tôi.” Gương mặt Shay nhăn lại trong đau khổ. “Tôi không bao giờ làm đau bé. Hôm đó, khi tôi đến, bé đang ở với hắn ta. Hắn đã tuột quần xuống. Và bé… bé đang khóc… bé tin hắn là bố của mình.”
Shay đưa tay che mặt, như thể anh có thể ngăn được mình không phải nhìn thấy ký ức đó. “Bé nhìn tôi, như thể đang chơi trò đọ mắt, nhưng rồi bé cười. Chỉ khác là lần này, không phải bởi bé thua. Mà là bởi bé biết mình sẽ thắng. Bởi tôi ở đó. Bởi tôi có thể giải cứu bé. Cả đời tôi, mọi người nhìn tôi như một tên khốn nạn, như thể tôi chẳng làm được gì đúng đắn, nhưng bé, bé tin tưởng nơi tôi,” Shay nói. “Và tôi muốn… lạy Chúa, tôi muốn tin nơi bé.”
Shay hít một hơi thật sâu. “Tôi giật bé khỏi tay hắn và chạy lên lầu, lên căn phòng tôi vừa mới làm xong. Tôi khóa cửa. Tôi bảo bé là chúng ta sẽ được an toàn. Nhưng rồi có tiếng súng, và cả cánh cửa bay tung, hắn bước vào và chĩa súng vào tôi.”
Tôi cố hình dung cảm giác của Shay lúc đó, một người dễ hốt hoảng và lại không thể giao tiếp tốt, đột nhiên bị một khẩu súng chĩa vào mặt. Nếu là tôi, hẳn cũng sẽ hoang mang.
“Có tiếng còi hụ,” Shay nói. “Hắn gọi họ đến. Hắn nói là họ đến bắt tôi và không cảnh sát nào lại tin bất kỳ câu chuyện gì từ một kẻ quái dị như tôi. Bé hét lên, ‘Đừng bắn, đừng bắn.’ Hắn nói, ‘Qua đây, Elizabeth,’ rồi tôi chộp lấy khẩu súng để hắn không thể làm hại bé, và chúng tôi vật nhau, hai người đều giữ chặt khẩu súng, và nó nổ, rồi lại nổ nữa.” Shay nghẹn lời. “Tôi bắn trúng bé. Máu, máu đổ khắp nơi, trên người tôi, trên người bé. Hắn cứ gọi tên bé, nhưng bé không thèm nhìn hắn. Bé nhìn tôi trân trân, như khi chúng tôi chơi trò vậy, bé nhìn tôi, chỉ khác đây không phải là trò chơi… và dù cho mắt bé đang mở to, nhưng bé không còn nhìn nữa. Và trò chơi thế là xong, dù cho tôi đã không cười.” Shay cố nén tiếng khóc, đưa tay bịt lấy miệng. “Tôi đã không cười.” “Shay,” tôi nói khẽ.
Anh liếc nhìn tôi. “Thà bé chết đi thì hơn.”
Miệng tôi khô đắng. Tôi nhớ Shay đã nói cũng câu này với June Nealon ở buổi gặp gỡ công lý phục hồi, khiến cô phải khóc lóc lao khỏi phòng. Nhưng nếu hiểu những lời của Shay trong bối cảnh này thì sao? Nếu như Shay thực sự tin rằng chết là có phúc cho Elizabeth, sau những gì bé đã phải chịu dưới tay bố dượng?
Một mảnh ký ức hiện lên trong đầu tôi. “Quần lót của bé,” tôi nói. “Nó nằm trong quần của anh.”
Shay nhìn tôi như thể tôi là thằng đần. “Phải, bởi vì bé không có cơ hội để mặc lại, trước khi mọi chuyện này xảy ra.”
Shay mà tôi dần biết là một con người có thể khép miệng một vết thương với cái chạm tay, nhưng cũng là người có thể gây sự ầm ĩ nếu như khoai tây nghiền trong đĩa của anh có màu vàng hơn ngày hôm trước, Shay mà tôi biết sẽ không thấy có gì đáng ngờ về việc cảnh sát tìm thấy quần lót của cô bé trên người mình, hoàn toàn hợp lý khi anh chộp lấy nó khi bồng Elizabeth đi, để bảo đảm đoan trang cho bé.
“Anh đang bảo tôi súng nổ là lỡ tay?”
“Tôi chưa bao giờ nói rằng mình có tội,” anh trả lời.
Những học giả cố hạ thấp những phép lạ của Shay, luôn luôn vội vã chỉ ra rằng, nếu Thiên Chúa lại đến, Ngài sẽ không chọn trở thành một kẻ sát nhân. Nhưng nếu như Ngài đã không giết người thì sao? Nếu như tất cả chỉ là hiểu lầm, nếu như Shay không điên cuồng chủ tâm giết Elizabeth Nealon và bố dượng của bé, nhưng thực sự là cố gắng để cứu bé khỏi tay hắn ta thì sao?
Nó có nghĩa là Shay phải chết vì tội của một người khác. Lại một lần nữa như vậy.
“Không phải lúc,” Maggie nói khi cô ra mở cửa.
“Chuyện khẩn cấp.”
“Vậy thì gọi cảnh sát. Hay lấy cái điện thoại đỏ của cha mà gọi thẳng cho Chúa ấy. Tôi sẽ gọi cho cha vào sáng mai.” Cô chuẩn bị đóng cửa, nhưng tôi chèn chân vào.
“Mọi chuyện ổn cả chứ?” Một anh chàng với giọng Anh đặc sệt xuất hiện bên cạnh Maggie, còn cô thì mặt đỏ bừng.
“Cha Michael,” cô giới thiệu. “Còn đây là Christian Gallagher.”
Anh ta chìa tay ra. “Chào cha? Tôi đã nghe đủ chuyện về cha.”
Ôi, tôi hi vọng là không. Ý tôi là, nếu Maggie hẹn hò, rõ ràng có nhiều chủ đề nói chuyện thú vị hơn chứ.
“Vậy,” Christian nhẹ nhàng hỏi. “Ngọn lửa ở đâu vậy?”
Tôi thấy ái ngại, vẳng trong nhà có tiếng nhạc nhẹ đang chơi, và trên tay anh ta là nửa cốc rượu. Không phải có hỏa hoạn, mà là một ngọn lửa cháy từ bên trong, và tôi vừa tạt gáo nước lạnh vào hai ngọn lửa đó. “Tôi xin lỗi. Tôi không cố ý…” tôi bước lùi ra cổng. “Chúc một đêm tốt lành.”
Tôi nghe tiếng cửa đóng lại sau lưng, nhưng thay vì bước về phía xe, tôi lại ngồi trên hiên trước nhà. Lần đầu tiên gặp Shay, tôi đã bảo anh là anh không thể cô đơn nếu như Chúa ở cùng anh suốt, nhưng không hoàn toàn đúng thế. Ngài là tay cờ ầm ĩ, Shay đã nói thế. Và bạn cũng không thể kiếm được Chúa từ một bộ phim tối thứ sáu được. Tôi biết là tôi có thể đưa vào một mối tương giao bình thường với Chúa, và thế là quá đủ.
Nhưng như thế không phải là không có những lúc tôi không cảm nhận được mối liên kết này.
Cánh cửa hé mở, và qua khe sáng hẹp, Maggie bước ra. Cô đi chân trần, khoác áo vest.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Tôi không cố ý làm hỏng buổi tối của cô.”
“Ổn mà. Tôi không nghĩ rằng mọi thứ đều phải hoàn hảo cho mình.” Cô ngồi xuống cạnh tôi. “Có chuyện gì thế?”
Trong bóng đêm, với gương mặt hắt ánh trăng, cô trông đẹp như Đức Mẹ trong tranh thời Phục hưng. Tôi chợt nghĩ là Chúa hẳn đã chọn một người như Maggie khi Ngài chọn Đức Maria làm mẹ cho Con Ngài, một người sẵn sàng mang lấy gánh nặng của thế giới trên vai mình, ngay cả khi nó không phải là gánh nặng của cô. “Là Shay,” tôi nói. “Tôi nghĩ anh ấy vô tội.”