← Quay lại trang sách

Chương 1 1

Ký ức ban sơ nhất, chính là màu trắng sáng đẹp đẽ của áo lót nhìn thấy qua lần áo sơ mi của em.

Muốn kể từ lần gặp gỡ đầu tiên, cho dù thế nào, cũng phải bắt đầu từ đây.

Tuổi mười lăm, bóc đi hết thảy vỏ bọc bên ngoài, em đơn giản mà tự nhiên, là một cô bé bẽn lẽn hướng nội.

Sau lễ Khai giảng, các học sinh mới đều tụ tập trong lớp học, để cho tiện, giáo viên sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự phát âm của tên học sinh, không phân biệt nam nữ, sau Igarashi là Inoue, vì vậy lẽ tất nhiên là tôi được xếp ngồi phía sau em, trước mắt chính là tấm lưng mảnh mai của em.

Tôi chẳng rõ vì tiết trời ấm áp hay vì nguyên do gì, lúc đó em không mặc áo khoác hay gi lê, mà chỉ mặc độc một chiếc sơ mi trắng.

Cặp mắt tôi bị hút chặt vào cái cổ nhỏ nhắn của em, những đường cong thanh mảnh trên cơ thể em tựa như một đứa bé vẫn chưa bước vào tuổi dậy thì.

Em mặc một chiếc áo ngực nhỏ che bầu ngực lại, khiến tôi cảm thấy có gì đó không hài hòa.

Ấn tượng của tôi với thứ đó giống kiểu nhỏ một giọt mực đỏ xuống nền toan trắng. (Nhưng trên thực tế, cái tôi nhìn thấy xuyên qua lớp áo sơ mi màu xanh nhạt ấy là màu trắng của chiếc áo ngực.)

Hai đặc điểm trái ngược của em khi mười lăm tuổi ấy khiến tôi bối rối, có lẽ đây chính là cơ duyên đầu tiên khiến hai người đến với nhau.

Về sau, tôi kể chuyện này cho Yuko nghe, em nhìn tôi với nụ cười khó hiểu.

“Thực ra, hồi em mười lăm tuổi, vốn chẳng cần thiết phải mặc áo ngực, nhưng mà, ăn mặc quá khác biệt với những bạn gái khác thì lại ngại, vả lại ở tuổi ấy người ta ai chẳng muốn làm những chuyện vượt quá sức mình chứ.”

Em tiếp lời:

“Có điều, nếu hồi đó anh Inoue nói chuyện này với em, em sẽ cảm thấy nội tâm mình bị người khác nhìn thấu, có khi hôm sau chẳng dám đi học nữa.”

Tôi thở phào một hơi dài vì may hồi đó đã không nói gì. Bởi tôi không giỏi trong việc nắm bắt nội tâm của người khác nên thường gây tổn thương cho người khác bằng hành động thiếu suy nghĩ mà mình không biết.

Chúng tôi đã gặp nhau như vậy, nhưng trong một khoảng thời gian tương đối dài, em gần như chẳng có sức nặng gì trong lòng tôi, vóc dáng thuần khiết của tôi và lối ăn mặc phô trương, chỉ để lại cho tôi ấn tượng không hài hòa.

Nhập học không lâu, em liền tham gia đội thể dục nhịp điệu của trường, đội nổi tiếng cả nước, ngay sau đấy tôi gia nhập đội điền kinh (nếu trở lại hai mươi năm trước, đội tuyển này cũng có người từng vô địch ở giải thi đấu thể thao các trường trung học toàn quốc, nhưng hiện tại đó là một đội nhỏ yếu, thậm chí muốn tiếp tục duy trì thôi cũng đã khó khăn lắm rồi).

Tôi nghĩ hai chúng tôi đều có tư chất bẩm sinh.

Em có một hình thể ưu việt, cái đầu nhỏ nhắn tôi thậm chí có thể giấu được trong lòng bàn tay, thân thể mảnh mai hết sức, đôi chân dẻo dai, khỏe mạnh, nhảy cao hơn các đối thủ thông thường.

Từ những vị tổ tiên sống trong rừng rậm và thảo nguyên, tôi lần lượt kế thừa hai đặc điểm thoạt nhìn tựa như tương phản nhau, đó là sự nhanh nhẹn và sức bền. Vì vậy, mùa thu năm lớp 11 ấy, hai chúng tôi đều trở thành tuyển thủ trong top 3 của tỉnh. Cả ngày chúng tôi đều nghĩ xem làm thế nào để nhanh hơn, dẻo hơn, chính xác hơn, gần như chẳng có thời gian đâu mà để tâm đến những việc khác nữa. Ba năm cấp ba chúng tôi đều học một lớp, nhưng cơ hội tiếp xúc vì ý thức được sự tồn tại của đối phương có thể nói là vô cùng ít ỏi.

Chẳng hạn, mặc dù chúng tôi đi cùng một chuyến xe buýt đến trường, nhưng trừ giai đoạn thi cử, đội tuyển nghỉ ra, hai chúng tôi chưa bao giờ ngồi chung một chiếc xe.

Bình thường, em bắt chiếc xe đầu tiên của buổi sáng đến trường tham gia buổi tập sáng của đội thể dục nhịp điệu. Hai tiếng đồng hồ sau, tôi mới xuất hiện ở bến xe buýt đó. Những bạn học khác thì lên một chuyến xe buýt nào đó giữa hai thời điểm trên. Tôi chuyên môn chọn chuyến xe muộn như thế, xét cho cùng, là vì tôi cực ghét tiếng ồn ào ầm ĩ trên xe của bọn bạn cùng lớp.

Chiếc xe buýt mà tôi lên mỗi sáng chỉ có hai người, cứ như là xe riêng vậy, trên xe ngoài tôi ra còn có một bạn nữ, cũng có bệnh ghét đông người giống tôi (có khi còn nặng hơn).

Cô bạn ngồi ở trên đầu xe, còn tôi ngồi ở phía cuối.

Tất nhiên, khi vào lớp, tiết học đầu tiên đã bắt đầu, nhưng ở trường chúng tôi không có các giáo viên nhà quê, hay phàn nàn về chuyện này. Họ chẳng nói gì cả, nhưng sẽ viết thêm một dòng vào lời nhận xét cuối học kỳ.

Tôi cảm thấy đây là một việc làm hết sức lịch sự.

Tôi đi đôi dép trong nhà mà các học viên lớp học ban đêm dùng vào, để cuốn sách dành cho giáo viên được các anh khóa trên cho lên bàn thay cho sách giáo khoa, chậm rãi thầm gióng lên trong lòng tiếng chuông vào lớp đã chậm mất ba mươi phút đồng hồ.

Các thầy cô giáo giống như mấy con rối trên kênh truyền hình giáo dục, giảng bài chán không chịu nổi, đối với tôi, tác dụng gây buồn ngủ còn hơn cả lũ ruồi nhặng vo ve. Vì vậy, hầu hết các tiết buổi chiều tôi đều tự tiện coi như miễn phải học, một mình chui vào phòng của đội điền kinh đọc tác phẩm của những nhà văn Anh mà tôi yêu thích như Alan Sillitoe, John Fowles.

Thầy cô giáo các môn thường hỏi Yuko nguyên nhân tại sao tôi không đi học.

Rủi thay, ba năm cấp ba, em hầu như đều ngồi ở vị trí trước mặt tôi.

Với sự thật ấy và như thể dự đoán trước mối quan hệ sau này của hai chúng tôi, các thầy cô giáo đều tự tiện coi em là giám sát viên của tôi.

Tất nhiên, Yuko không thể nào biết được tôi ở đâu. Trước câu hỏi của thầy cô giáo, em lúc nào cũng lộ ra vẻ mặt lúng túng, trả lời rằng: “Em không rõ.” Suốt ba năm cấp ba, kiểu hỏi – trả lời này đã lặp đi lặp lại vô số lần, trong tâm trí em, “Inoue” và “Em không rõ” lúc nào cũng gắn liền với nhau.

Sự thực là, khi ấy chúng tôi chẳng biết gì về nhau cả.

Em không biết tôi đang ở đâu, tôi cũng chỉ nhìn thấy mỗi chiếc áo ngực màu trắng của em.

Không lâu sau khi lên lớp 12, mang trong lòng một chút hối hận cùng hy vọng, tôi kết thúc cuộc sống thi đấu thể thao tại trường cấp ba, mặc lên người bộ đồ chật cứng gắn mác “sĩ tử”, vùi đầu vào những ngày tháng tẻ ngắt.

Mặc dù vậy, tôi cũng không hy sinh thời gian chạy bộ của mình.

Bởi với tôi, chạy bộ cũng tự nhiên như hít thở, mà, giống như hít thở, đó là việc không thể thiếu.

Để việc học tập đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian có hạn, tôi quyết định tập trung đọc bốn cuốn sách tham khảo dùng cho ôn thi đại học: từ vựng tiếng Anh, các mẫu câu tiếng Anh, tác phẩm cổ điển và chữ Hán. Như thế vừa tiết kiệm lại vừa đơn giản, phù hợp với tính cách của tôi. Còn với các môn xã hội, tôi chẳng định ôn tập, dự định đến lúc làm bài thi sẽ phát huy trực giác phi thường của mình, kiếm được điểm số nhiều hơn xác suất trong phần trắc nghiệm.

Trong kỳ thi thử toàn quốc duy nhất mà tôi tham gia, thành tích môn tiếng Anh và Quốc ngữ đều lọt vào số 5% hạng trên, có điều, trực giác phi thường mọi khi lại không phát huy được trong bài thi các môn xã hội, khiến tôi nhận được điểm số không đẹp đẽ gì cho cam. Tính bình quân ra thì thành tích tất nhiên thuộc dạng hết sức bình thường. Có điều, qua kỳ thi thử lần này, tôi cho rằng phương pháp học tập của mình về cơ bản là không sai lầm.

Phương pháp học tập hiệu quả cao này khiến tôi có được rất nhiều thời gian, thậm chí còn quá dư dật, tôi bèn thỏa sức chạy bộ để bù đắp lại khoảng trống ấy.

Trên sân vận động trường đã không còn chỗ cho học sinh lớp 12 nữa. Vì vậy, tôi đành kiếm không gian chạy bộ trong công viên tự nhiên cách trường không xa lắm.

Ngày hôm đó, sau giờ tan học, tôi đạp xe đến công viên tự nhiên như thường lệ.

Nếu bảo là số mệnh đã định sẵn, thì có cảm giác như là xong chuyện rồi mới ra vẻ ta đây, nhưng hồi tưởng lại, vẫn có thể nói rằng, cuộc gặp mặt của chúng tôi quả thực giống như trời cao đã sắp đặt sẵn vậy.

Hôm đó tôi đi đường tắt mà bình thường không hay đi, cắt ngang qua sân trường đại học Quốc gia, còn John, con chó già mắc bệnh viêm tai giữa em nuôi thì cứ quẩn quanh chỗ cột biển chỉ đường ở cổng công viên không chịu về, những điều này cuối cùng đã trở thành nhân tố khiến chúng tôi gặp nhau.

Tôi dựng xe ở hàng rào bãi đỗ xe gần cổng công viên, khởi động cho nóng người, sau đó chạy dọc theo con đường dẫn vào rừng. Những cành cây đã nhuốm sắc thu khe khẽ đung đưa theo gió, phát ra những tiếng rì rào, giống như bọn trẻ con huýt sáo. Tôi chầm chậm chạy trong ánh nắng vàng rải xuống qua những kẽ lá.

Không lâu sau, trên con đường nhỏ phía trước xuất hiện bóng dáng một thiếu nữ, tóc dài tung bay trong gió, chiếc áo khoác màu vàng nhạt phối với váy ngắn kẻ ô, bên cạnh có một con chó cực kỳ xấu xí. Chẳng rõ vì sao, bóng lưng em khiến tôi thấy thân thiết lạ thường. Lúc tiến lại gần, sự thân thiết ấy dần dần biến thành cảm giác tựa hồ như từng quen biết, tôi cảm nhận được nhịp tim của mình tăng nhanh rõ rệt mà chẳng hiểu tại sao.

Tôi lại chạy thêm mấy bước nữa. Chắc là nghe thấy tiếng bước chân tôi, cô gái chậm rãi xoay người, sau đó nói:

“Chào cậu, Inoue.”

Lúc đó tôi vẫn không ý thức được em là ai, thật sự là quá ngốc. Trước mặt cô gái không quen biết lại gọi ra được tên mình, tôi hơi lúng túng. Cô nhìn tôi với bộ mặt đầy vẻ ngạc nhiên.

Sự im lặng vụng về đè nặng khiến tôi thấy tức thở.

Vì ngại không nhìn thẳng vào mắt em, tôi chỉ còn biết nhìn đăm đăm vào đôi chân trắng muốt thon dài bên dưới chiếc váy ngắn kẻ ô. Chân em giống như những tia sáng chiếu xuyên qua tầng mây xuống mặt đất, sáng bóng và thẳng tắp. Xét theo một nghĩa nào đó cũng khiến người ta cảm thấy thiếu mất sự quyến rũ mà con gái ở lứa tuổi này lẽ ra nên có.

Nét ngây thơ.

Tôi đột nhiên ý thức được cô gái này là ai. Nếu em mặc áo sơ mi trắng, có lẽ tôi đã nhớ ra ngay được rồi, có điều tôi không nói suy nghĩ này ra.

“Chào cậu, Igarashi.” Tôi nói.

Giờ nhớ lại, có lẽ đây mới là lần đầu thực sự gặp gỡ của hai người.

Trên hai đường thẳng song song không bao giờ giao nhau, con trai của nữ thần Venus đã thêm vào một biến số. Em đáng yêu vô cùng, một cô gái đáng yêu như vậy không ngờ lại là người hết sức thân thuộc ở ngay bên cạnh mình, điều này khiến tâm trí tôi cứ xao động không yên.

“Cậu có vẻ thích chạy bộ nhỉ.”

Nghe em nói vậy, tôi đỏ mặt mà chẳng hiểu vì sao. Chữ “thích” này, khi em nói ra bằng chất giọng nhỏ nhẹ hơi run run ấy, trong lòng tôi bất giác khẽ rung lên.

“Đúng thế, thích.” Tôi có cảm giác như thể mình đang thổ lộ điều gì đó, lại hốt hoảng bổ sung thêm: “Chạy bộ ấy.”

“Ừ.” Em nói, “mình cũng thích.”

Tôi ngạc nhiên nhìn vào gương mặt em.

“Ý mình là tản bộ với John trong khu rừng này…” Em nói, nhoẻn miệng mỉm cười.

Tóm lại, hồi gặp nhau năm mười lăm tuổi ấy, chúng tôi đã dần dần bị đối phương thu hút. Có điều, chỉ là vẫn chưa quen với tình cảm đó, không biết nên xử lý như thế nào, đành phải đè một tảng đá lên, cho nó chìm xuống đáy lòng.

“Tại sao hồi trước chúng ta không gặp nhau trong rừng cây nhỉ?” Tôi hỏi.

Em chớp chớp đôi mắt to: “Đúng thế, hôm nay mình đợi ở cổng công viên lâu hơn thường ngày một chút.”

Ồ…

“Mình thì đến cổng công viên sớm hơn thường ngày một chút.” Tôi nói.

“Vậy thì xem ra, thường ngày chúng mình toàn để lỡ cái một chút ấy.” Em nói.

“Hình như là thế đấy.”

“Hay là ngày mai cũng giống như hôm nay, ở lại đây thêm một lúc nhỉ?”

Nghe thấy em nói vậy, tôi có cảm giác sâu thẳm trong lòng có thứ gì đó đang cấp tốc dâng lên.

Đúng thế, nói thật lòng, chính trong thời khắc ấy, tôi đã yêu.

2

Kể từ lần đó, gần như ngày nào hai chúng tôi cũng gặp nhau trong rừng, ra sức trò chuyện như thể muốn bù đắp lại thời gian ba năm đã qua.

Cảm giác này, giống như mình luôn sống cô độc trong một căn phòng chật hẹp, khẽ đẩy cánh cửa ra, bước sang phòng bên cạnh, liền phát hiện em đã ở ngay đó. Vốn dĩ hai người ở rất gần nhau, vậy mà mất công đi cả một vòng. Ở hành lang đối diện, và cả phía trước nữa, có vô số các cánh cửa, nhưng chẳng có cái nào hấp dẫn tôi. Tôi hiểu hai người thì tốt hơn một người, mặc dầu vậy, nếu hỏi ba người có tốt hơn hai người không thì tôi có cảm giác là không thể.

Thoắt cái đã đến mùa xuân.

Tưởng chừng như tháng Tư đến sớm hơn mọi khi cả một tháng, nhưng, đây có lẽ chỉ là ảo giác của tôi.

Yuko theo học một trường cao đẳng ở Tokyo nên dọn vào ký túc xá sinh viên ở khu Setagaya.

Tôi thì quyết định học ở trường sư phạm tỉnh nhà.

Đề thi chỉ có hai môn tiếng Anh và Quốc ngữ, xuất phát từ lý do thực dụng, tôi mới đăng ký thi đại học Sư phạm, chứ hoàn toàn không có ý định làm thầy giáo. Tôi còn đồng thời đăng ký cả khoa Sư phạm của một trường đại học tư thục ở Tokyo nữa. Tiếng Anh và Quốc ngữ thi còn tạm được, nhưng môn Xã hội thì đã lập nên kỷ lục khó tin về xác suất (nói đúng sự thật là tiệm cận vô hạn với điểm 0), kết quả là trượt. Trực giác phi thường kia đã phát huy tác dụng phụ. Đội tuyển điền kinh của hai trường đại học này đều rất nổi tiếng, đây cũng là một động cơ khác khiến tôi đăng ký. Nhưng vì động cơ không thuần khiết này của tôi, tương lai nước nhà có lẽ sẽ mất đi một người thầy giáo tài năng, hễ nghĩ đến điều này, lòng tôi lại thấy nhoi nhói đau.

Kết quả này làm cho hai chúng tôi bị tách xa về mặt không gian, có điều, chúng tôi vẫn gắng tận dụng các cơ hội có hạn để có thời gian bên nhau. Tính tình thuần phác theo kiểu thuyết duy linh[1] khiến cả hai đều hơi e dè điện thoại, vì vậy, mọi sự giao lưu của chúng tôi đều cậy nhờ cả vào thư tín.

Có lẽ, chính sự gấp gáp không thể đợi chờ này đã gây ra tác dụng ngược, chỉ cần có cơ hội gặp nhau, chúng tôi liền dùng phương thức trực tiếp nhất để tìm hiểu đối phương.

Nói thực lòng, chúng tôi đều còn quá trẻ, lại sở hữu thân thể mềm dẻo, hấp dẫn hơn bất cứ ai, không thể nào bỏ qua sự tồn tại của chúng được.

Tôi vẫn còn giữ bức tranh tự họa hai người thời bấy giờ, thoạt nhìn trông như quảng cáo của Calvin Klein vậy. Hai người chỉ mặc đồ lót nằm trên giường, tựa cặp mèo đang phơi nắng, gương mặt ngập tràn hạnh phúc. Với sự hồn nhiên và tò mò, chúng tôi ngắm nhìn thế giới xa lạ mình vừa đặt chân vào với con mắt choáng ngợp.

Trên thực tế, chúng tôi rất ít khi có thời gian tự do thoải mái, một tháng chỉ được gặp một hai lần, những chỗ để một mình bên nhau cũng cực kỳ ít ỏi. Nếu may mắn, gặp lúc người nhà đều ra ngoài hết, chúng tôi có thể chậm rãi hưởng thụ niềm khoái lạc ái ân trong phòng tôi. Nếu công viên vắng người, chúng tôi có thể vuốt ve nhau. Trong sảnh lớn của nhà ga lúc đêm khuya, chúng tôi có thể ôm nhau vào lòng, khi đợi đèn giao thông ở ngã tư đường buổi chập tối, chúng tôi có thể khẽ hôn nhau.

Tôi không đủ tiền đi khách sạn, vì chẳng ai nghèo hơn một sinh viên theo đuổi điền kinh nữa rồi, nhưng chúng tôi vẫn rất thỏa mãn.

Vì thiếu suy nghĩ, nên chúng tôi đã coi nhẹ rất nhiều thứ trước mắt, song tôi nghĩ, đây cũng là chuyện bất đắc dĩ. Thì thế, liệu có bao nhiêu người mười mấy tuổi đầu có thể nghĩ ngợi sâu xa đây?

Đam mê nhục dục trào dâng vô hạn, thậm chí còn ước vọng viển vông là có thể bay lượn giữa không trung, có ai nghĩ được rằng, thân xác này sẽ trở thành gông xiềng của cả đời người?

Chuyện đó xuất hiện mà không hề có điềm báo trước.

Đối với tôi, cuộc đời sau sự kiện đó, là những đợt tấn công dồn dập hết đợt này đến đợt khác.

Nói vắn tắt lại, Yuko đã có thai.

Dẫu biết phương pháp tránh thai của chúng tôi cực kỳ vụng về, không đầy đủ, nhưng hai đứa vẫn khó lòng tin nổi sự sống lại có thể được sinh ra một cách đơn giản như thế. Mặc dù vẫn không ngừng rưới dòng nước sinh mệnh ngọt ngào như nước cam lộ lên mảnh đất màu mỡ, nhưng cả hai hầu như không nhận thức được ý nghĩa của hành vi ấy.

Nhẩm tính thời gian, em sẽ vác cái bụng to đùng như sắp nổ tung trước ngày sinh đến tham dự lễ tốt nghiệp. Chúng tôi nghĩ, mặc dù vậy thì cũng có thể cố lấy được bằng tốt nghiệp. Tốt nghiệp xong, em sẽ đi làm ngay, con sẽ do tôi chăm sóc. Tuy thứ tự hơi bị đảo ngược nhưng khi nào tôi tốt nghiệp, hai đứa sẽ kết hôn. Chúng tôi cho rằng điều đó có thể thực hiện được, vả lại còn đặt ra kế hoạch một cách hết sức nghiêm túc nữa.

Thế nhưng, sau khi nói chuyện mang thai và kế hoạch về sau cho bố mẹ hai bên, chúng tôi mới ý thức được suy nghĩ này ấu trĩ đến chừng nào, tầm nhìn của chúng tôi hạn hẹp ra sao. Chúng tôi chỉ suy nghĩ trong thế giới của hai người, hoàn toàn không tính đến những người khác và nhân tố xã hội. Bố mẹ hai bên (đặc biệt là bố mẹ Yuko) cực lực phản đối việc sinh đứa trẻ ra đời, đều nói rằng tranh thủ còn sớm mà bỏ đứa trẻ đi là lựa chọn tốt nhất.

Trước khi họ nói ra chuyện này, chúng tôi chưa từng nghĩ đến. Câu nói kinh khủng này khiến sắc mặt chúng tôi tái mét, chuẩn bị phản kháng những ông bố bà mẹ lạnh lùng kia. Trong tay họ toàn là vũ khí hạng nặng như xã hội, thường thức và đạo đức. Chúng tôi lại chỉ có lòng nhiệt huyết bản năng cùng sự bốc đồng phi logic, với thứ vũ khí nghèo nàn là hai bàn tay không, cùng lắm là thêm mấy hòn đá nhỏ. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn giống như những quốc gia non trẻ vùng Balkan chủ trương dân tộc tự quyết, dũng cảm tham gia chiến đấu.

Thế nhưng, bài học lần này đã khiến chúng tôi ý thức sâu sắc rằng cho dù vào thời điểm nào, trong những cuộc chiến tranh kiểu như thế này, người bị hại thực sự luôn là kẻ yếu không tham gia chiến đấu.

Điều mất đi, là đứa con lẽ ra được sinh ra trên đời của chúng tôi.

Khi đó, cái thai của Yuko vẫn chưa vào thời kỳ ổn định, kết quả chẩn đoán sau đó cũng xác định tử cung của em có vấn đề, nhưng chúng tôi vẫn luôn cho rằng, chính áp lực của cuộc tranh chấp đã dẫn đến cái chết của đứa bé.

Sau khi mọi sự kết thúc, Yuko nằm trên giường bệnh rơm rớm nước mắt nói với tôi:

“Em xin lỗi.”

“Không cần xin lỗi.”

Tôi nói.

“Vì Yuko còn đau lòng hơn cả anh nữa. Nếu phải xin lỗi, thì cả hai chúng mình cùng xin lỗi đứa con lẽ ra được sinh ra trên đời này đi...”

Tôi vừa nói vừa cầm tay Yuko lên.

“Giá như có thể mang đứa trẻ đến cõi đời này trong sự chờ đợi của mọi người thì tốt biết bao...”

Đúng vậy, Yuko thì thầm.

“Này, anh nói xem con chúng ta là trai hay là gái?” Yuko khẽ hỏi.

“Có lẽ là, anh cảm thấy có lẽ là con gái, một cô bé chạy nhanh, nhảy cao, giống hệt như Yuko ấy.”

Tôi cảm thấy có lẽ là vậy.

“Một ngày nào đấy trong tương lai, hóa thân của đứa trẻ này sẽ lại đến với chúng ta phải không nhỉ?”

“Đúng thế, vì vậy, đây chỉ là sự chia ly nhất thời.”

Sau này, tôi vẫn nhớ rõ mồn một cuộc đối thoại lúc đó.

Vả lại, khi phát hiện dự đoán lúc đó có một sự tươngđồng kỳ diệu với hiện thực, tôi có cảm giác mơ màng gần như chóng mặt.

Sự việc này đã phủ bóng đen lạnh lẽo xuống những ngày tháng tiếp theo của chúng tôi.

Em không còn tập thể dục nhịp điệu nữa, cũng tầm thời gian đó, tôi đổ bệnh và rời bỏ cuộc sống điền kinh. Bố mẹ cấm chúng tôi qua lại, cảm giác ở bên nhau còn khó khăn hơn lúc trước. Chúng tôi trốn tránh sự giám sát của bố mẹ, lén lút dùng tên giả viết thư cho nhau.

Thời bấy giờ, điện thoại di động và email vẫn còn chưa phổ cập, nói một lời “Hello” thì cả tuần sau mới nhận được hồi đáp từ đối phương, giống như là phi hành gia vũ trụ chuyển thư qua lại giữa Trái đất và sao Thiên Vương vậy. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi không khác gì các cặp tình nhân thế kỷ thứ 18, chỉ có thư tín là cách thức liên lạc duy nhất.

Về sau, khi Yuko tốt nghiệp cao đẳng, làm việc ở một câu lạc bộ thể thao trong vùng, tình hình có cải thiện hơn. Với lý do đường hoàng chính đáng là công việc, em có thể tự do ở bên ngoài đến tối muộn.

Buổi tối, chúng tôi chậm rãi tản bộ trên con đường lớn không người qua lại, ngồi trên chiếc ghế dài ở sân vận động không một bóng người mà nói chuyện.

Lúc đó, sức khỏe của tôi rất kém, gần như phải sống một cách lê lết gắng gượng, khoảng thời gian ở bên em là thứ duy nhất giúp tôi chống chọi được.

Cứ thế được hai năm, tôi tốt nghiệp đại học.

Đúng như quyết định ban đầu, tôi không làm thầy giáo mà chọn một văn phòng đại diện tư pháp nhỏ ở thị trấn bên cạnh.

Theo ước định năm mười chín tuổi, chúng tôi muốn nhân cơ hội này để kết hôn. Mặc dù đứa bé đã chết, chúng tôi vẫn muốn chuẩn bị sẵn sàng nơi chốn để con bé (thằng bé?) được sinh ra lần nữa.

Lúc chúng tôi tuyên bố sẽ kết hôn, sự phẫn nộ của bố mẹ em nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Họ nghiêm khắc trách móc em bao lâu vẫn lén lút qua lại với tôi, còn cả quyết rằng tôi là người xấu xa nhất. Bố mẹ tôi thì nghiêng về hướng chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng tôi, nhưng có lẽ bởi ngại bố mẹ em, nên cũng không nói thẳng ra.

Tất nhiên, chúng tôi không mơ mộng xa vời rằng bố mẹ sẽ giơ cả hai tay lên mà chúc phúc, nhưng cũng không ngờ lại nhận được sự phủ định dứt khoát đến thế. Là con cái của họ, chúng tôi đã bị tổn thương, nhưng vì đứa trẻ sẽ ra đời của mình, hai đứa tôi đã quyết tâm tự lập.

Tôi và Yuko thuê một căn hộ hai buồng ở khoảng giữa nơi làm việc của hai đứa.

Buổi tối hôm chuyển đống hành lý đơn sơ đến, chúng tôi ký tên vào đơn đăng ký kết hôn trên chiếc bàn gấp nhỏ xíu và nên vợ nên chồng.

3

“Này, anh có thấy gần đây em gầy đi không?” Yuko nói.

Tôi nhìn lại lần nữa gương mặt em phía bên kia bàn ăn.

“Gầy đi hả?”

Tôi khẽ lắc đầu, trả lời: “Nhìn mặt em còn đầy đặn hơn hồi trước ấy.”

“Thế ạ?”

“Ừ.” Tôi gật đầu, tiếp tục ăn thịt muối trong đĩa.

Trong quán rất yên tĩnh, bản nhạc “A Summer Place” mở nhè nhẹ, càng tôn lên bầu không khí tĩnh lặng.

Cho lần đầu tiên kỷ niệm ngày cưới, chúng tôi đã tới một nhà hàng Ý ven đường quốc lộ, cách căn hộ của hai đứa chừng mười phút đi bộ. Bên trong rất vắng khách, nhân viên phục vụ nhàn rỗi đứng đó, ngây ngẩn nhìn ra cửa.

“Em giảm cân à?” Tôi hỏi.

Em vừa dùng dĩa xiên cải xoong, vừa trả lời: “Chẳng rõ nữa, gần đây em không cân, nhưng cảm thấy quần áo đều rộng hết, váy cũng trở nên lỏng lẻo, hơi lo lo.”

“Hừm.” Tôi ngẫm nghĩ giây lát rồi hỏi: “Hay là đã trở lại vóc dáng như lúc trước rồi?”

Hồi em còn tập thể dục nhịp điệu, thể trọng chỉ chừng bốn mươi cân. Mặc dù phải ngừng tập do mang thai và bị sẩy thai, vóc dáng cũng không thay đổi nhiều. Nhưng sau khi kết hôn, thể trọng Yuko dần dần tăng lên, giờ đã được bốn mươi lăm cân rồi, chủ yếu là nhờ sự cố gắng của em. Hai chúng tôi muốn có em bé, vì vậy Yuko cần mập hơn một chút để thân thể thích ứng với việc mang thai.

“Mặc dù em đang gắng sức ăn uống...”

Phía sau câu nói buông ra cùng tiếng thở dài này ẩn chứa một câu hỏi u uất: tại sao vẫn chưa thể có thai?

Chúng tôi chờ mong được gặp lại đứa trẻ đã mất kia, lúc nào cũng có cảm giác thế giới của hai người không hoàn chỉnh. Tôi và Yuko đều cho rằng, đứa bé chắc chắn sẽ lấp đầy phần trống trải trong nội tâm của hai đứa. Mặc dầu không được bố mẹ thừa nhận, không tổ chức nghi lễ nào, nhưng chúng tôi vẫn là một cặp vợ chồng chỉn chu không hổ thẹn với ai, đứa bé hoàn toàn có thể đến với thế giới này một cách quang minh chính đại.

Thế nhưng...

“Xem ra cố gắng mãi cũng không được đền đáp...”

Tôi tiếp lời em: “Có điều, dạo gần đây da em sáng bóng, thế có phải là trạng thái sức khỏe đang rất tốt không?”

“Vâng.” Yuko gật đầu, “cảm giác như trong cơ thể tràn đầy năng lượng. Em còn nghĩ, không khéo đây chính là thời điểm thích hợp đó.”

“Cũng tức là,” tôi giơ ngón tay trỏ lên, “đứa nhỏ ấy có khi còn suy nghĩ chu đáo hơn chúng ta, nó biết rõ mình nên ra đời vào lúc nào.”

Từ hồi sống chung, chúng tôi đã không dùng các biện pháp tránh thai khi làm tình nữa. Nhưng nghĩ lại, nếu lúc đó Yuko có mang, em sẽ phải bỏ công việc làm huấn luyện viên, cuộc sống của hai chúng tôi sẽ lập tức nhuốm màu sắc bần cùng. Tôi mới là nhân viên kiến tập ở văn phòng, chỉ nhận được một khoản tiền lương ít ỏi đến đáng thương, sinh hoạt phí hầu như đều dựa vào thu nhập của em. Thế nhưng, mùa xuân năm nay thu nhập của tôi đã tăng lên đáng kể, rốt cuộc cũng nhận được tiền lương ngang với những người khác. Hai đứa cũng đã có một khoản tiết kiệm dù không nhiều, kể cả giờ em có nghỉ việc luôn, chúng tôi vẫn ứng phó được.

Yuko mỉm cười: “Đúng thế, thật là một đứa trẻ thông minh.”

“Vì nó là con hai chúng ta mà.”

“Thế sao?”

“Đúng vậy.”

“Nhưng mà, năm nay đúng là chớp mắt một cái đã qua rồi...”

Ra khỏi nhà hàng, chúng tôi men theo con đường dành cho người đi bộ ven đường quốc lộ đi về nhà.

Đã muộn lắm rồi, nhưng đèn của dòng xe cộ không ngớt khiến xung quanh rõ như ban ngày.

“Không hối hận chứ?”

Nghe tôi hỏi thế, em chầm chậm lắc đầu.

Tôi hỏi tiếp luôn: “Không muốn gặp bố mẹem à?”

“Không có gì đâu.”

Em đáp, dùng ngón tay mảnh mai vén mái tóc đang bay tung trong cơn gió dịu dàng của ngày xuân.

“Em đã là người trưởng thành rồi, nếu họ không tán đồng cách sống của em, em cũng không thể tán đồng suy nghĩ của họ.” Em lẩm bẩm nói tiếp.

“Nếu không, chẳng phải là rất có lỗi với đứa trẻ sắp ra đời hay sao? Bố mẹ nói cuộc hôn nhân của chúng ta là sai lầm, nếu khuất phục trước cách nói của họ, thì cũng phủ định luôn cả đứa trẻ sẽ ra đời trong tương lai còn gì.” Yuko mỉm cười buồn bã.

Thái độ gắng hết sức ưỡn ngực lên mà sống của em khiến tôi đau ở trong tim, có lúc trong lòng lại ngập tràn cảm giác nôn nao không thể biểu đạt thành lời.

Lấy mình là quyết định chính xác chứ?

Liệu Yuko có còn một con đường đời khác, bằng phẳng hơn, thoải mái hơn?

Hễ nghĩ tới đây, tôi liền cảm thấy không thở nổi, tưởng chừng như không khí ở xung quanh đã trở nên loãng toẹt.

Đêm hôm đó, tôi ôm chặt lấy em, nói: “Đúng đấy, hình như là hơi gầy rồi.”

Em vẫn ở trạng thái lâng lâng vì không quen uống rượu vang, ngước đôi mắt nhập nhèm lên nhìn tôi.

“Anh cũng thấy thế à?”

“Ừ.” Đúng là tôi cảm thấy những đường cong ở hông em đã phẳng hơn.

“Đứa bé, liệu có đến không nhỉ?” Em thì thào nói.

Tôi đặt tay lên phần bụng dưới phẳng lì trơn nhẵn, bật cười khúc khích, vẽ một vòng tròn xung quanh cái rốn khá đẹp của em.

“Không vấn đề. Có lẽ là đang cạnh tranh ở đây này, bọn chúng đều muốn về nhất mà.”

“Đúng thế.” Yuko lẩm bẩm nói, khẽ ngáp một cái.

Tôi nằm ngửa bên cạnh em, nhìn chăm chú lên trần nhà mờ mờ tối, chỉ lát sau đã nghe thấy tiếng thở đều đặn của em. Ngực em khe khẽ phập phồng bên dưới lớp chăn len.

Bầu ngực đúng là nhỏ hơn trước một cỡ, có điều tôi định tạm thời không nói ra điều này. Tôi nhớ đến bóng lưng mảnh mai của em hồi mười lăm tuổi, tự nói với bản thân: đúng thế, so với hồi ấy, ngực Yuko đã đầy đặn hơn rất nhiều.

4

Tôi lẩm bẩm trong miệng bài hát “Chiếc cốc màu xanh trong ký ức”, trộn xa lát chuẩn bị cho bữa tối.

Mấy ngày nay, tôi toàn ăn tối một mình.

Mùa xuân năm nay, Yuko chuyển từ nhân viên chính thức của câu lạc bộ sang làm huấn luyện viên vũ đạo tự do, thu nhập tăng lên nhưng phải làm việc rất muộn. Tôi thì trái ngược với em, ngày lại qua ngày chỉ làm một công việc tẻ ngắt, hôm nay chẳng khác gì hôm qua, nếu không có sự kiện gì đột biến, hằng ngày đúng bảy giờ tối là sẽ về đến nhà. Vì vậy, ban ngày Yuko làm sẵn đồ ăn cho tôi rồi mới đi làm.

Tối nay lại chỉ có một mình, tôi lấy đồ ăn Yuko đã làm sẵn, chuẩn bị ăn bữa cuối cùng trong ngày.

Tôi đặt âu xa lát đã trộn xong lên bàn ăn, đổ nước khoáng vào cốc.

Lúc này, ngoài cửa vọng lại tiếng bước chân quen thuộc. Tiếng leo cầu thang “cộp cộp, cộp cộp”, nghe mà chỉ muốn dùng làm hiệu ứng cho quảng cáo giầy trên ti vi.

Ngay sau đó, cửa mở ra, có tiếng Yuko vang lên: “Em về rồi.” Có lẽ do ảnh hưởng tâm lý, tôi có cảm giác em không được hoạt bát như thường ngày.

“Về sớm thế em, không phải có lớp lúc chín giờ à?” Tôi hỏi.

Yuko vào phòng khách, cởi chiếc ba lô to tướng ra khỏi vai, thở dài một tiếng, ngồi xuống ghế.

“Không ạ, em bị nhầm, từ sáu giờ chiều nay là buổi họp và kiểm tra sức khỏe định kỳ của nhân viên.”

“Kiểm tra sức khỏe?”

“Vâng.” Em nhấp một ngụm nước khoáng thấm cổ họng, vẻ mặt bấy giờ mới thư thái phần nào. “Câu lạc bộ thể dục thể thao chính là bán sức khỏe lấy tiền còn gì?”

“Đúng thế.”

“Vì vậy, họ cũng có yêu cầu tương ứng với các nhân viên, thông qua các cuộc kiểm tra sức khỏe định kỳ để nâng cao ý thức về sức khỏe của mọi người.”

“Ừ.” Tôi gật đầu, hỏi: “Thế đã kiểm tra những gì rồi?”

“Đo các số đo thân thể, so sánh với kết quả lần trước. Nghe đồn là nếu vòng eo tăng lên thì sẽ ảnh hưởng đến đánh giá thành tích. Còn phải đo tỷ lệ mỡ trong cơ thể, chỉ số sức mạnh cực đại, khả năng hấp thụ ô xy...”

Khi tôi hỏi kết quả kiểm tra của Yuko, vẻ mặt em đột nhiên trở nên phức tạp.

“Em không còn là nhân viên chính thức, lẽ ra không cần thiết phải làm kiểm tra sức khỏe...”

Ngưng một lát, em thẽ thọt tiếp lời: “Em cảm thấy không được ổn lắm, vì vậy chỉ để họ đo kích thước thân thể...”

“Ừ?”

“Kết quả, tất cả các chỉ số đều thấp hơn lần trước.”

“Đúng là gầy đi rồi.”

Em lắc đầu, nói: “Không chỉ gầy đi thôi đâu, cả vóc người cũng thấp đi nữa.”

“Vóc người?”

“Vâng ạ.”

Hỏi ra mới biết, hôm nay kết quả đo chiều cao của em là 1 mét 59,5. Ba tháng trước, khi em còn là nhân viên chính thức, chiều cao là 1 mét 61,5. Thấp đi mất hai cm, chuyện này có thể quy cho sai số được không nhỉ?

Vả lại, vòng ngực từ 81cm biến thành 78 cm, vòng eo từ 57 cm thu lại 56 cm, vòng mông từ 84 cm còn lại 82 cm, tất cả các số đo đều nhỏ đi.

“Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”

Yuko tựa như muốn bật khóc tới nơi, nhìn tôi nở một nụ cười kỳ lạ rồi lắc đầu.

“Dạo gần đây ăn uống thế nào?” Tôi hỏi.

“Không thay đổi, thậm chí còn thèm ăn hơn trước...”

“Ồ.” Kể cả mất cảm giác thèm ăn thì cũng không thể giải thích được hiện tượng chiều cao thấp đi. Tựa hồ đang tìm kiếm một ký ức trôi nổi giữa không trung, tôi nheo mắt lại.

“A, nhưng mà...hình như anh đã đọc ở đâu đấy, lúc người ta gầy đi, do lượng mỡ dưới gót chân giảm bớt, cơ bắp thu nhỏ lại nên có lúc chân sẽ nhỏ đi, vóc dáng sẽ thấp hơn.”

Vẻ mặt u ám đầy bất an của Yuko trong chớp mắt đã sáng bừng lên.

“Chắc là thế đấy nhỉ?”

“Chắc chắn là thế rồi.” Tôi mỉm cười với em. “Sự thay đổi nhịp độ công việc thể hiện ngay trên cơ thể đấy. Đây là tín hiệu báo rằng em không nên quá sức.”

“Đúng rồi, hay là bớt đi vài buổi dạy nhỉ?”

“Có lẽ như thế thì tốt hơn đấy.”

“Ừm, em sẽ suy nghĩ.”

Mặc dù vậy, không thể gạt đi được hết nỗi bất an trong lòng, Yuko bảo tôi rằng kể từ hôm nay trở đi, mỗi ngày em sẽ đo các số đo cơ thể rồi ghi chép lại. Có lẽ như vậy sẽ tốt hơn.

Chín mươi phần trăm nỗi bất an là những ảo tưởng không căn cứ bành trướng ra trong tâm trí người ta. Chỉ cần dùng những con số rõ ràng để chứng minh là có thể tiêu trừ hoàn toàn. Khi ấy, tôi đã nghĩ như thế.

5

“Nhớ lại hồi học cấp ba, anh, em, còn có cả John nữa...”

Yuko vươn vai nói.

Chúng tôi đang đi tản bộ dưới ánh nắng tháng Năm chiếu qua những kẽ lá.

“Cu cậu, giờ vẫn khỏe chứ nhỉ?”

Nghe tôi nói vậy, em bật cười khúc khích, chữa lời: “Không phải cu cậu, mà là con bé ấy...”

“Gì hả? Tên John mà...”

“Nhưng lại là chó cái.”

Cái tên John này cũng phổ biến gần như tương đương với tên Taro dùng cho đàn ông ở Nhật Bản vậy.

“Em đặt tên cho nó đấy.”

“Chậc chậc, chậc chậc, em đúng là một người đặt tên không có trách nhiệm.”

“Con chó trước đấy em nuôi cũng tên là John.” Yuko mỉm cười.

“Nó là chó đực?”

Em gật đầu.

“Nó chết già từ hồi em còn bé tí, bố thấy em đau lòng nên xin một con chó của người ta về để an ủi em, chính là con John bây giờ đấy.”

Tựa hồ đang lục tìm lại những ký ức xa xăm, Yuko nói với tôi bằng ngữ điệu rất chậm rãi.

“Hồi ấy em còn nhỏ, cứ nghĩ rằng con chó nhỏ ấy chính là John tái sinh, nên gọi nó là John như một lẽ đương nhiên, rồi nó dùng cái tên ấy luôn.”

“Lúc tái sinh, chẳng lẽ cả giới tính cũng thay đổi luôn à?”

“Có chứ, chắc chắn là có. Gấu có thể tái sinh thành sóc cơ mà. Tái sinh thì không có hạn chế gì cả.”

Nếu đúng là thế thật, tôi muốn biến thành một thứ hoàn toàn khác tôi của hiện tại.

Đúng thế, ví dụ, tôi muốn biến thành một thứ gì đó kiểu như đồng hồ cát làm bằng thủy tinh, lúc nào cũng lắng nghe tiếng cát chảy bên trong mình, lặng lẽ khắc họa thời gian, có lẽ cuộc đời như vậy cũng hay phết.

“Nhưng mà...”

Yuko đột nhiên rơi vào trầm tư, dừng bước lại, u uất nhìn tôi.

“Nghe nói những đứa trẻ chưa ra đời đã chết thì không thể bước vào Thiên Đường, chuyện này có thật không nhỉ?”

Tôi tức khắc đáp: “Không đâu, sao lại nghĩ thế?”

“À, em cảm giác Thiên Đường giống như phòng chờ ấy, những người muốn tái sinh ở đó đợi đến lượt của mình.”

“Thế à?”

“Đúng vậy. Thế nên em nghĩ, những đứa trẻ không thể lên Thiên Đường thì không thể nào tái sinh...”

Tôi không rõ tại sao Yuko lại nói ra những lời này. Nhưng chuyện em hy vọng có thể gặp lại đứa con đã mất của chúng tôi thì tôi rõ hơn ai hết. Từ hồi đó chúng tôi đã yêu đứa trẻ chưa thể đến với thế gian ấy rồi.

Chúng tôi muốn gặp con, cầm bàn tay nó, vuốt ve mái tóc nó...

Hai chúng tôi đều nghĩ về cùng một chuyện.

6

Không lâu sau, chúng tôi đến đích.

Đó là một cái đình cũ kỹ ở chỗ sâu nhất trong khu rừng mà hồi cấp ba, hầu như ngày nào chúng tôi cũng đến.

Dù đang là giữa trưa, chỗ này cũng rất tối. Ở nơi đây, chúng tôi đã vô tư trò chuyện, không ngừng hôn hít nhau, tựa như những đứa con của ánh sáng.

Yuko ngồi trên chiếc ghế băng gỗ dài có mùi âm ẩm, lấy bộ đồ đan len trong túi ra. Mấy ngày trước, em bắt đầu đan bít tất cho đứa con sẽ chào đời trong tương lai của chúng tôi. Tôi cười em, nói: “Vẫn còn chưa có dấu hiệu mang thai cơ mà.” Thế là em đáp: “Em có dự cảm, tuy rằng không thể giải thích rõ, nhưng trong cơ thể hình như có người đang gõ cửa ấy.”

Tính toán thời gian, thời điểm đứa bé ra đời hẳn là vào mùa khá lạnh, vậy nên, em đã dùng sợi len màu mâm xôi, đan những chiếc bít tất cực nhỏ, nhìn có vẻ rất vừa với đám búp bê đồ chơi.

Tình mẫu tử khiến con người ta bộc lộ sức tưởng tượng phong phú, làm một người đàn ông như tôi cảm thấy không thể nào tin nổi.

Tôi thay áo T-shirt dài tay bằng vải cotton và giày chạy, đứng tại chỗ vận động cho nóng người.

“Nhưng cuộc đời của chó sao lại ngắn ngủi thế nhỉ?” Tôi nói.

Nghĩ đến con John đời thứ hai cũng đã cao tuổi, tâm trạng tôi có chút chán nản.

Em vẫn không ngừng tay đan bít tất, ngẫm nghĩ giây lát, rồi nói với tôi:

“Vì chó không tham lam như con người.”

“Ừ.”

“Chó chẳng bao giờ muốn làm việc nọ việc kia, chỉ ngoan ngoãn chấp nhận sự thực rằng mình ‘đến với thế gian này’, như vậy là đã thỏa mãn lắm rồi, sau đó cứ lặng lẽ mà sống qua một đời, chẳng phải thế sao?”

Tôi thầm nhủ, con người đúng là rất tham lam. Đôi khi, nghĩ đến sự ngắn ngủi của đời người, tôi thấy hơi buồn. Trước khi gặp Yuko, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến những chuyện này, nhưng giờ hễ nghĩ đến việc thời gian mình được ở bên em chỉ có năm, sáu chục năm nữa là trong lòng lại thấy tiếc nuối. Có điều, kể cả là một, hai trăm năm, chắc hẳn cũng sẽ có cảm giác như vậy thôi.

“Thôi anh đi chạy một vòng đây.”

“Vâng.”

Tôi để Yuko lại trong đình hóng mát, chạy vào rừng.

Có một dạo, tôi hoàn toàn thoát ly khỏi cuộc sống thể thao, nhưng giống như một thứ tình cảm quyến luyến thúc vào sau lưng, dần dần, tôi lại bắt đầu chạy bộ trở lại.

Chạy được chưa đầy chục bước, tôi có cảm giác như quay lại thời học cấp ba. Mặt đất mềm xốp, mùi hương ngửi được thuở ấy, và cả những hạt ánh sáng bay lượn tựa như tơ liễu... tất cả những thứ ấy sao mà thân thiết thế. Tôi chạy về phía mùa xuân năm mười bảy tuổi.

Thực tế, thời gian không thể nào quay trở lại.

Nhưng con người ta sở hữu một năng lực rất kỳ diệu, có thể khéo léo lợi dụng ký ức để đi ngược dòng chảy thời gian. Cứ thế, một người có thể tự do qua lại trong dòng thời gian mà mình từng đi qua, rắc lên cuộc đời nhạt nhẽo vô vị thứ gia vị chua cay. Có thể nói, những người già gần như là chìm ngập trong thứ gia vị ấy mà sống qua ngày. Có điều, cảm giác của tôi lúc này chẳng dính dáng gì đến năng lực trời sinh của con người ấy cả, mà thực chất hơn gấp bội.

Đường đi dạo quanh co trong công viên tự nhiên này dài chừng năm dặm. Tôi chạy một vòng hết bốn mươi phút rồi lại quay về chỗ cái đình nhỏ.

Yuko không ở đó. Trên ghế băng để chiếc bít tất đan dở. Tôi ngẫm nghĩ giây lát, rồi bước về phía con đường nhỏ ban đầu đã chạy qua.

Gió xuyên qua các tán cây thổi lá rung rinh, tấu lên một điệu nhạc hài hòa. Tôi giẫm mạnh xuống thảm lá rụng ẩm ướt, tiếp tục đi sâu vào rừng.

Thoáng sau, người thiếu nữ đứng giữa bóng chiều chạng vạng màu xanh sẫm thu hút trọn ánh mắt của tôi. Lúc này, tôi có một ảo giác kỳ diệu.

Ký ức trở về.

Em mặc chiếc váy ngắn có viền ren. Tức là váy của đội cổ động. Bên trên là áo nỉ chui đầu. Đôi chân thẳng tắp.

Không hiểu tại sao, tôi đột nhiên có cảm giác hụt hẫng cơ hồ muốn phát điên lên.

Yuko ngoảnh đầu lại.

Tựa như một đứa trẻ bị phát hiện đang nghịch ngợm, em nhìn tôi với vẻ mặt kỳ lạ, vừa giống như đang giận, lại vừa giống như đang khóc.

Tôi chạy lên trước, chẳng nói chẳng rằng, ôm chặt lấy em.

“Satoshi à…” Em gọi tôi, âm điệu chao đảo giữa ngạc nhiên và nghi hoặc.

“Sao thế em?”

“Dạ.”

Hồi xưa Yuko cũng gầy gò thế này ư?

Tôi đột nhiên thấy thương cảm, lại ôm em chặt thêm nữa.

“Satoshi?”

“Ừ, không có gì đâu.”

“Vậy à?”

“Ừ.”

Yuko gọi tôi theo nhiều cách khác nhau.

“Satoshi”, “Inoue”, “chồng…”

Dường như em sử dụng các cách gọi này một cách vô thức, nhưng tôi luôn nghĩ, những cách xưng hô này phải chăng đại diện cho những cảm xúc khác nhau? Tôi cảm thấy rất khó phát hiện ra được quy luật bên trong, cuối cùng đành gạt sang một bên không nghĩ đến nữa.

Nhưng chữ “Satoshi” buột ra khỏi miệng Yuko lúc này có lẽ liên quan đến vẻ bi thương gần như rơi lệ ấy của em.

“Em làm gì ở đó vậy?”

Trên đường về nhà, tôi hỏi Yuko.

“Chẳng làm gì cả, lúc ngồi một mình đợi anh, chẳng hiểu sao, đột nhiên thấy bất an lắm, thế nên…” Giọng em nhỏ dần, gần như không nghe thấy, “nên là đi tìm anh.”

“Em đúng là như đứa trẻ ấy.”

“Satoshi, anh sao vậy?”

“Gì cơ?”

“Tại sao lại ôm chặt lấy em thế?”

Tại sao nhỉ?

Tại sao lúc ấy tôi lại có dự cảm mình sẽ đánh mất em?

“Anh cũng chẳng hiểu nữa. Yuko, trong khoảnh khắc nhìn thấy em, ký ức của lần gặp gỡ đầu tiên trong khu rừng ấy lại xuất hiện trong tâm trí anh…”

Và rồi dưới sự dẫn dắt của những quy tắc vô hình, tôi đã đi tới điểm tận cùng của dự cảm ấy. Nhưng lúc đó, tôi lại chẳng thể nào nhìn rõ được con đường dẫn tới điểm tận cùng.

“Anh không hiểu.”

“Anh lạ thật đấy.”

Có điều, Yuko vẫn mỉm cười vui vẻ.