← Quay lại trang sách

Chương 4 18

Tản bộ vào ngày Chủ Nhật đã trở thành thú tiêu khiển của Yuko.

Đối với người suốt cả ngày ở lì trong nhà như em, có lẽ mặt trời ngày cuối tuần giống như viên bảo thạch đang tỏa ra hào quang quyến rũ lơ lửng giữa không trung vậy.

Chúng tôi đi xuyên qua rừng, đi qua cây cầu nhỏ, nhặt đinh ốc ở công trưởng bỏ hoang.

Nhưng ngày hôm đó, chúng tôi đi nhiều hơn bình thường một quãng đường.

“Hình như bị lạc rồi.” Tôi nói.

“Em biết mà, anh bỗng dưng ít nói hẳn đi, ánh mắt bắt đầu lơ đãng ngó nghiêng.” Yuko nói.

“Hình như sắp mưa rồi?”

“Không sao, chúng ta cứ đi tiếp đi.”

Tôi bị một cô bé trông bề ngoài chỉ chừng mười tuổi kéo tay lôi đi, mặc dù vậy, tôi vẫn thấy rất vui sướng.

Một lúc sau, mưa rơi tí tách.

Cả con đường trải nhựa bị những hạt mưa nhuộm thành màu đen kịt, làm tôi liên tưởng đến làn da của người bệnh. Tôi do dự không biết có nên nói ý nghĩ này với Yuko không, cuối cùng quyết định sẽ không nói. Đây là một liên tưởng chẳng có ý nghĩa gì cả, vả lại còn vạch trần bóng đen ám ảnh trong lòng tôi ra nữa.

Mưa càng lúc càng to.

Chúng tôi chạy đi tìm chỗ trú.

Chạy được một lúc, Yuko giơ ngón tay lên chỉ.

“Mau nhìn chỗ kia.”

Qua những góc cạnh do các mái nhà tạo nên, có thể trông thấy một tòa tháp nhọn nhô cao.

“Đó là gì?”

“Hình như không giống với nhà ở bình thường.”

“Đi xem không?”

“Ừ.”

Chạy khoảng một phút, chúng tôi đến trước mặt tòa kiến trúc ấy.

Đó là một tòa nhà kiểu Tây rất cổ xưa. Trên tấm biển gỗ treo ở cột cửa có mấy chữ viết tay. Do nhiều năm bị mưa gió vùi dập, tấm biển gỗ ấy trông như thể bộ trò chơi ghép hình đang được ghép dở dang, tuy vậy vẫn có thể nhìn ra trên đó viết chữ “Green Church”.

“Một nhà thờ.”

“Hình như là thế.”

Bước đến gần mới thấy trên đỉnh tháp nhọn có một cây thánh giá.

“Tạm thời vào đây tránh mưa nhé.”

“Có thể tự tiện vào được không?”

“Cửa mở mà, vừa khéo tranh thủ cơ hội này cầu nguyện với Thượng Đế.” Tôi nói.

Chúng tôi vào trong sân nhà thờ.

Trong sân cây cối um tùm xanh ngát, thậm chí còn tạo cảm giác hơi âm u, con đường nhỏ lát đá đi xuyên qua mảng cây cối rậm rạp. Chúng tôi đi tới trước cửa lễ đường, quyết định trú mưa ở đó. May thay, phía trên ô cửa vừa hay có một mái nhà nhỏ chìa ra có thể che mưa. Mé bên phải là hành lang ngoằn ngoèo thông ra phía sau khu nhà.

“Satoshi, nhìn kìa!” Yuko kéo kéo ống tay áo của tôi.

Tôi nhận ra em đã đẩy cánh cửa phía sau mình mở ra chừng 10cm.

“Không khóa, có thể nhìn được bên trong.”

Qua khe cửa, có thể trông thấy những hạt bụi lấp lánh bay lượn giữa quầng sáng màu xám nhạt, bên trong có một ban thờ nhỏ và hai hàng ghế đẩu.

“Nhà thờ này giản dị thật.”

“Đúng thế, nhưng mà, khiến người ta có cảm giác rất ấm áp.”

“Vậy sao?”

Chúng tôi bất giác đi vào bên trong.

Ở đây dường như lơ lửng một thứ mùi của thời gian xưa cũ, thứ mùi có thể gắn kết với những ký ức quan trọng thời ấu thơ. Chúng tôi bước trên sàn nhà kẽo cà kẽo kẹt, đi về phía ban thờ.

“Ồ, Satoshi này!” Yuko ôm chặt lấy cánh tay tôi, hơi có vẻ bất an thì thầm nói nhỏ: “Thượng Đế đang nhìn kìa.”

Đó là bức tượng Jesus treo phía sau ban thờ.

Yuko chắp tay trước ngực, mắt nhắm nghiền, đầu cúi xuống.

Tôi vừa chăm chú nhìn chiếc cổ mảnh mai của em, vừa khe khẽ nhủ thầm trong dạ: Mong rằng Thượng Đế có thể nghe thấy lời cầu nguyện của em.

Đột nhiên, sau lưng chúng tôi vang lên tiếng nói.

“Khóa lễ ngày Chủ Nhật đã xong từ sáng rồi.”

Chúng tôi kinh ngạc quay đầu lại, phát hiện một người da trắng cao lớn đang đứng ở sau lưng, trông ông ta phải cao hơn tôi đến mười mấy phân.

Ông ta mặc áo sơ mi vải bông màu xanh lam với quần cộc nhung kẻ đen đã bạc màu. Đáng chú ý nhất là mái tóc xoăn tít màu cam, trông cứ như thể món mì Ý vậy.

“Xin lỗi, chúng tôi muốn tránh mưa ở đây một lúc thôi ạ.”

Tôi chưa kịp lên tiếng, Yuko đã cúi đầu xin lỗi luôn.

Người đàn ông có vẻ như đã hiểu, ông ta nhún vai.

“Thì ra là thế, nếu vậy xin mời cứ thoải mái, nơi này không từ chối bất cứ ai.”

Sau đó, ông mỉm cười. “Tôi tên là John Birdman, là mục sư của nhà thờ này.”

Trông bề ngoài như một đứa trẻ quá khổ, nhưng những nếp nhăn trên mặt lại giống một người già đã mệt mỏi với cuộc đời, có điều dù sao vẫn đoán được ông nhiều tuổi hơn tôi, và trẻ hơn bố mẹ tôi. Ông khiến chúng tôi có cảm giác thân thiết, hình như không chỉ vì ông cùng tên với con chó già “John” mà hai chúng tôi rất yêu quý, nụ cười của ông vừa có sự ngây thơ rạng rỡ của trẻ con, lại vừa mang vẻ hòa ái của người lớn tuổi.

“Chỗ này lạnh quá, có muốn vào nhà tôi ngồi không?”

Chúng tôi còn chưa biết nên trả lời thế nào cho phải, ông đã lại trưng ra nụ cười vừa như trẻ thơ vừa như người già ấy, nói tiếp: “Nhà tôi ở ngay sau lễ đường này thôi, có cả sữa nóng nữa.”

Đây là một lời đề nghị rất hấp dẫn, hai chúng tôi lập tức gật đầu đồng ý, thậm chí còn quên cả cảm ơn. Có điều, cuộc sống thường ngày của chúng tôi vốn đã xa vời những thông lệ xã giao ấy rồi.

Chúng tôi xuyên qua hành lang xung quanh lễ đường đi sang nhà ông. Ông đi phía trước, không ngớt nói gì đó. Có điều, ông nói nhanh quá, lối phát âm tiếng Nhật với khẩu âm Anh ấy rất kỳ quặc, gần như không hiểu được ông đang nói gì.

“… à?”

Tôi chú ý thấy ông cứ hỏi đi hỏi lại câu hỏi này, bèn bước lên đi bên cạnh, yêu cầu ông nhắc lại. “À, tôi đang hỏi, hai người là anh trai và em gái à?”

Tôi cảm nhận được thân hình Yuko chợt sững lại.

Đầu óc tôi trong chớp mắt đã xoay chuyển vô số ý nghĩa, nhưng vẫn buột miệng đáp theo phản xạ: “Không ạ, chúng tôi là vợ chồng.”

Birdman dừng lại, dáng vẻ thật giống chú chim bồ câu ngừng uống nước, hệt như cái tên của ông. Giây lát sau, ông chậm rãi quay người, lần lượt nhìn kỹ gương mặt hai chúng tôi, ra sức lắc đầu.

“Chuyện này, nghe có vẻ rất kỳ lạ.”

“Là vì cô ấy trông nhỏ quá phải không ạ?”

“Đúng vậy.” Birdman nói.

“Nhưng mà,” tôi hướng ánh mắt nhìn sang phía Yuko, “dù bề ngoài cô ấy như vậy, nhưng thực tế cô ấy bằng tuổi tôi, đã hai mươi ba tuổi rồi.”

Tôi đã chuẩn bị sẵn tư tưởng, chờ ông cười nhạo đây là trò đùa của người Phương Đông bịa ra. Song, bất ngờ thay, ông lại nói bằng giọng hết sức bình tĩnh:

“Ở đây hình như có lý do gì phải không, nếu được, có thể kể cho tôi nghe không?”

Nói đoạn, ông lại dẫn chúng tôi bước tiếp.

19

Trong phòng khách nhà mục sư, ông mời chúng tôi uống sữa nóng, lại còn nhỏ thêm một giọt si rô hoa quả. Thân thể lạnh cóng dần thấy ấm áp trở lại.

Tôi thực thà trình bày sự việc xảy ra cho mục sư Birdman nghe, ông lặng lẽ suy nghĩ một lúc, rồi chậm rãi ngẩng đầu và hỏi:

“Tức là, hiện tượng này bắt đầu từ mùa xuân năm nay?”

“Đó là lúc chúng tôi nhận ra, nhưng mà, có lẽ đã bắt đầu từ trước đó rồi…”

Sau khi kể mọi chuyện cho ông, tôi dường như thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Những thứ bí mật, chính vì không có hình dạng, nên mới càng thêm nặng nề.

Mục sư Birdman có vẻ rất đáng tin cậy, mà kể cả không phải thế, tôi cũng không hề do dự kể hết mọi chuyện ra, có lẽ vì tôi cũng mệt mỏi rồi.

“Xem chừng, hai người đã đau khổ một thời gian dài rồi.”

Tôi thầm nghĩ, cảm giác ấy hình như không giống đau khổ. Thế nhưng, cái cảm giác không thể nào ngủ được giữa đêm thâu có lẽ cũng tương tự như đau khổ.

“Tôi chỉ là một người bình thường, vì vậy chẳng thể nào đưa ra lời khuyên gì về hiện tượng này… nhưng mà, từ góc nhìn của một mục sư, mỗi điều kỳ lạ dường như đều bị ảnh hưởng rất lớn bởi ý chí của Thượng Đế.” Ông nói.

“Nếu đúng là vậy, rốt cuộc Thượng Đế khiến Yuko nhỏ lại để làm gì?” Tôi hỏi.

Birdman chầm chậm lắc đầu.

“Chuyện này thì tôi không rõ, có lẽ, đáp án chính là ở trong lòng hai người.”

“Thêm một cốc sữa nóng nữa nhé?”

Dường như chỉ đợi cuộc trò chuyện của chúng tôi ngắt quãng, vợ của mục sư Birdman bước vào phòng khách, lúc nãy chị vừa đứng dậy, có lẽ là để đi hâm nóng sữa cho chúng tôi.

Vóc người chị rất nhỏ nhắn, hình như nhỉnh hơn Yuko vài cm. Chị là người Nhật, trông rất xinh đẹp, tháo vát. Theo như tôi thấy, hình như chị khoảng trên dưới ba mươi. Nhưng về chuyện phân biệt tuổi tác phụ nữ, tôi đã mất hết lòng tin ở mình rồi.

Chị vừa rót sữa từ chiếc bình sứ trắng vào cốc của chúng tôi, vừa hỏi: “Yuko, sao em mặc đồ cứ như trẻ con thế kia?”

Yuko mặc một chiếc áo ngắn kiểu búp bê tự may lấy bên ngoài quần yếm màu trắng.

“Tuy rằng cơ thể bị thu nhỏ lại, nhưng một cô gái hai mươi ba tuổi ăn mặc thời trang một chút cũng chẳng phải tội lỗi gì, đúng không nào?”

Hôm nay Yuko ăn mặc hệt như một học sinh nữ tham gia thi chạy việt dã vậy. Tôi đã nhìn quen mắt, cũng không để tâm lắm, có điều, nếu bảo đây là trang phục của một phụ nữ hai mươi ba tuổi thì đúng là quá trẻ con.

“Đi với chị vào đây được không? Chắc ở đây chị có đồ hợp với em đấy. Đằng nào thì quần áo em cũng ẩm hết cả rồi, nên thay ra đi.”

Yuko bối rối nhìn tôi, thấy tôi khẽ gật đầu, em nói: “Vậy xin làm phiền chị ạ.” rồi theo vợ mục sư Birdman ra khỏi phòng khách.

“Chị nhà thật xinh đẹp.”

“À, cảm ơn anh.” Ông có vẻ rất ngượng ngùng, giống như một chàng trai trẻ.

“Cha cô ấy là người Nhật, mẹ là người Việt Nam, hai dân tộc đều nổi tiếng là nhiều phụ nữ đẹp.” Mục sư Birdman đứng lên khỏi ghế, cầm khung ảnh trên tủ bát đĩa đưa cho tôi. “Đây là ảnh chụp hồi cô ấy chín tuổi.”

Tôi chăm chú nhìn bức ảnh trên tay, một cô bé xinh xắn có mái tóc đen dài đang mở to mắt nhìn tôi, cô đứng giữa một cặp nam nữ, chắc là cha và mẹ.

“Năm thành phố Sài Gòn thất thủ, cô ấy rời khỏi Việt Nam, trên người chỉ mang theo tấm ảnh này.”

“Hai người đứng sau là cha mẹ chị ấy ạ?”

“Đúng thế. Cha cô ấy là viên chức của hãng buôn, khi sang Hà Nội nhậm chức đã quen với mẹ cô ấy, lúc đó bà vẫn còn đang đi học, cuối cùng hai người kết hôn, rồi sinh ra vợ tôi.”

“Nghe giống như chuyện trong tiểu thuyết vậy.”

“Đời người ít nhiều đều có thành phần của một vở kịch mà. Sống là thế đó.”

Thật sự như vậy sao?

Tất cả mọi người đều sống một cuộc đời có thể kể lại cho người khác nghe, giống như tiểu thuyết của Charles Dickens ư?

Như chị vợ của mục sư Birdman này chẳng hạn.

Như Yuko chẳng hạn…

“Cha mẹ cô ấy trở thành vật hy sinh của lửa chiến tranh đều đã qua đời. Yoriko vợ tôi cùng với dì cô ấy, đi đường bộ qua Tây Á, Đông Âu, cuối cùng dừng chân ở nước Pháp.”

Tôi nhìn lại bức ảnh trên tay kỹ hơn.

Lúc đó họ đang nghĩ gì? Cha mẹ cô bé còn trẻ quá, trông chẳng có gì là dính dáng đến cái chết cả. Tiếng sột soạt phát ra từ áo choàng đen của Thần Chết, phải chăng đã truyền đến tai họ rồi?

“Nói vậy, mục sư và chị nhà quen nhau ở Pháp?”

Ông lắc đầu.

“Không. Cô ấy tốt nghiệp trường Nhật ở Pháp rồi cùng dì sang Hồng Kông, học trường thư ký văn thư, sau khi học xong thì làm việc cho một nhà máy của Pháp ở đó. Chúng tôi quen nhau vào thời điểm ấy.”

Tôi lặng lẽ gật đầu, trả khung ảnh lại cho mục sư.

“Quê tôi ở Glasgow, Scotland, bố tôi làm việc ở nhà máy luyện thép. Trong thị trấn nơi tôi sống ấy, hầu như tất cả mọi người đều liên quan đến nhà máy luyện thép, cách này hay cách khác.”

Ông đặt khung ảnh trở lại tủ bát đĩa, dịch qua dịch lại mấy lần, điều chỉnh sao cho vị trí bày được đẹp nhất.

“Mọi người đều cho rằng chóng chầy gì tôi cũng sẽ làm việc ở nhà máy luyện thép, nhưng tôi lại trở thành mục sư, rời thị trấn nhỏ quê hương đi khắp thế giới.”

Ông nói nhỏ thêm một câu: “Tôi là một kẻ tha hương.”

Rồi chìm vào trầm mặc.

Chỉ giây lát sau, ông lại cất tiếng:

“Cuối cùng, tôi phiêu bạt đến hòn đảo nhỏ ở Viễn Đông, tìm được người bạn đời của mình. Có lẽ, mục đích chuyến du hành của tôi chính là để gặp được Yokiro.”

Ông nói rằng, họ di cư đến Nhật Bản vì nơi này là một quê hương khác của chị.

“Năm năm trước, bà ngoại của Yokiro vẫn còn khỏe mạnh, vả lại, tôi nghĩ, dòng máu chảy trong cô ấy khao khát nơi này hơn bất kỳ điều gì khác.

“Yoriko là viên ngọc của Đông Dương.” Câu nói thốt ra từ miệng người đàn ông Scotland cao lớn này, tựa hồ như không phải để cho người khác nghe.

Chiều cao của hai người họ chênh nhau khoảng hơn bốn mươi phân, tôi rất muốn hỏi mục sư Birdman xem họ hôn nhau thế nào. Tất nhiên, tôi không thể đặt ra một câu hỏi bất lịch sự như thế được.

Một lúc sau, vợ mục sư Birdman trở lại.

“Hai người nhìn ra đây một chút được không?”

Nghe tiếng chị gọi, chúng tôi hướng mắt ra phía cửa phòng. Yuko đứng ở đó, vì xấu hổ nên cả thùy tai cũng đỏ ửng lên.

Em mặc váy liền thân xanh lam, khoác áo len mở cổ màu trắng sữa, tóc không tết bím như mọi khi nữa mà tết thành một búi hình dạng phức tạp, đôi môi cũng tô chút son nhạt.

“Thế nào? Mau nói đi chứ.”

Trước sự thúc giục của vợ mục sư Birdman, tôi bước về phía Yuko, vừa nhìn đăm đăm vào mắt em, vừa nói:

“Đẹp vô cùng, cứ như là biến thành một người khác ấy. Đây là Yuko thứ ba mà anh không biết đấy.”

“Vậy ạ?” Yuko đi về phía cửa sổ để né ánh mắt của tôi. Tới một khoảng cách nhất định, em mới quay đầu lại, khẽ nói “cảm ơn” bằng giọng yếu ớt.

Vẻ đẹp của Yuko ẩn chứa một lý do đặc biệt.

Từ đôi mắt trẻ thơ của em toát ra ánh nhìn mê hoặc. Chính nhờ tính cách kép mâu thuẫn này, mà em sở hữu vẻ bí ẩn đẹp mê hồn mà không ai có thể tìm ra lời giải đáp.

Chị Yoriko nói với chồng: “À, có tin tốt lành này em muốn báo cho anh.”

“Gì vậy?

“Đôi vợ chồng trẻ này muốn cử hành hôn lễ ở nhà thờ của chúng ta.”

“Hôn lễ…”

“Đúng thế.”

Mục sư ngơ ngác nhìn vợ, sau đó ném ánh mắt nghi hoặc về phía tôi.

“Thực tình, chúng tôi vẫn chưa chính thức tổ chức hôn lễ, vì vậy đang tìm nơi có thể tổ chức nghi lễ này.” Nghe tôi nói vậy, ông liền lộ vẻ khó xử.

“Chà, cậu cũng thấy rồi đó, lễ đường ở đây rất chật hẹp, thậm chí không đủ chỗ ngồi để mời khách khứa đâu…”

“Chuyện này không sao, họ muốn tổ chức hôn lễ chỉ có hai người.” Vợ ông nói.

Chị Yoriko nhắc lại nguyên văn một lượt những lời Yuko đã nói ở phòng bên kia: chúng tôi và hai bên cha mẹ đã cắt đứt quan hệ, vì bí mật của Yuko nên hai chúng tôi cũng sống cô lập, bởi vậy trong hôn lễ không cần mời ai cả.

Nghe đầu đuôi mọi chuyện, mục sư gật đầu mấy lần liền.

“Rõ rồi. Hồi trước cũng có mấy cặp vợ chồng tổ chức hôn lễ với rất ít người tham dự trong nhà thờ này, nhưng hôn lễ chỉ có hai người thì mới là lần đầu tiên. Dẫu vậy, tôi sẽ cố hết sức giúp hai bạn.”

Tôi đưa mắt liếc nhìn Yuko. Em cố ý làm bộ lườm tôi một cái, tựa như đang nói: “Ngày mưa, không ngờ lại xảy ra chuyện như thế này.”

Sau đó, hai chúng tôi đều mỉm cười.

20

Mưa tạnh, một dải cầu vồng hai tầng vắt ngang bầu trời phía Đông.

Chúng tôi hầu như không nói năng gì, lẳng lặng đi trên con đường về nhà. Cả hai đều đang hồi tưởng lại hạnh phúc mà cơn mưa mang đến.

Có thể cử hành hôn lễ rồi!

Chị Yoriko vợ mục sư Birdman còn nói sẽ cho Yuko mượn váy cưới chị dùng khi kết hôn, có thể hơi rộng một chút, nhưng hình thể hai người vốn tương đồng, chỉ cần nhồi thêm một số thứ vào trong bộ lễ phục khoa trương để che đậy là được, vì vậy chuyện này không thành vấn đề. Mục sư Birdman nói việc còn lại là chuẩn bị nhẫn. Tất nhiên là ý nói nhẫn cưới. Những thủ tục này khiến chúng tôi có được niềm vui mới.

Cảm giác mình và thế giới rộng lớn ngoài kia có liên hệ với nhau.

Thật tuyệt.

Ngay ngày hôm đó, chúng tôi liền tới tiệm đá quý ở trung tâm mua sắm trước cửa ga để đặt nhẫn bạc. Nếu khắc ngày tháng và chữ đầu tên lên nhẫn thì mất hai ngày. Chúng tôi đã hẹn sẽ tổ chức hôn lễ vào thứ Sáu, tức năm ngày nữa, vì vậy chắc chắn là kịp. Nhân viên cửa hàng từ đầu chí cuối vẫn không xóa bỏ được nghi vấn rằng “chúng tôi đang diễn trò”. Mặc dù Yuko ăn mặc như người lớn, nhưng nếu để cho em nói “Tôi muốn mua nhẫn cưới”, có thể nhân viên cửa hàng sẽ đưa cho em một chiến nhẫn trang sức bằng nhựa mất.

21

Về đến nhà, vì muốn rũ bớt mệt mỏi sau chuyến đi dạo quá lâu, chúng tôi vào phòng tắm trước, đổ đầy nước vào bồn rồi cùng ngâm mình trong đó, nước ngập đến tận vai. Hồi trước, dù cố thế nào cũng không làm được chuyện này, nhưng vì “kích cỡ” của Yuko đã thu nhỏ lại, nên ngay chiếc bồn tắm nhỏ của nhà chúng tôi cũng có thể chứa được cả hai người cùng lúc.

“Thật là một ngày kỳ lạ.”

Chúng tôi đối diện nhau, ngâm mình trong bồn tắm.

“Những người chẳng giống ai.”

Yuko ngồi lọt thỏm giữa hai đầu gối tôi.

Qua khúc xạ của làn nước, tôi thấy phần ngực Yuko còn phẳng hơn cả thực tế.

Tôi kể cho Yuko câu chuyện của chị Yoriko mà tôi nghe được từ mục sư Birdman.

“Thì ra là thế. Chị ấy cực kỳ đặc biệt, vả lại còn rất có khí chất, đến cả việc hiện tượng kỳ lạ như thế xảy ra với em chị ấy cũng có thể chấp nhận nhanh chóng. Em đã kể hết mọi chuyện cho chị ấy nghe, không giấu giếm gì cả, cảm thấy trong lòng dễ chịu lắm.”

Chị Yoriko từ nhỏ mất cha mẹ, lại không ngừng chứng kiến những cái chết trong chiến tranh. Những năm tháng tàn khốc như thế không ngờ lại vun đắp nên tính cách dịu dàng nhân ái, điều này khiến tôi cảm thấy nội tâm của người ta quả thực linh hoạt đến mức khó thể nào tưởng tượng nổi. “Tuy rằng không nói hẳn ra, nhưng anh cứ có cảm giác, bản thân mục sư cũng từng trải qua nhiều trắc trở.”

“Thế ạ?”

“Ừ. Con trai người công nhân nhà máy luyện thép sao lại trở thành mục sư? Tại sao ông ấy phải rời bỏ quê hương đi phiêu du khắp thế giới? Bên trong chắc chắn phải có nguyên nhân gì đấy chứ.”

“Có lẽ chính những nguyên nhân ấy đã khiến hai người gắn kết với nhau.”

“Đúng thế, kiểu như sự cô độc gắn kết hai người vậy.”

“Thật à?”

“Ừ.”

Chúng tôi ra khỏi bồn tắm, gội đầu cho nhau. Mái tóc màu hổ phách của Yuko dày hơn vẻ bề ngoài rất nhiều, gội rất tốn thời gian. Em ngồi cúi đầu trước mặt tôi, trông thật nhỏ nhắn. Tôi vừa gội đầu, vừa ngắm nhìn thân thể em, muốn xác nhận lại một lần nữa những đường nét trẻ thơ ấy.

Nếu nói rằng trên thân thể người phụ nữ, những bộ phận càng gần khu vực trung tâm thần bí kia càng quyến rũ (tạm thời không nhắc đến cái gò nhỏ trên ngực), vậy thì móng tay, móng chân hoặc xoáy tóc trên đỉnh đầu chính là nơi kém hấp dẫn nhất. Tôi chầm chậm đưa ánh mắt dịch chuyển từ những đầu mút của cơ thể ấy đến khu vực trung tâm.

Cái cổ nhỏ nhắn đến mức thiếu tự nhiên.

Chỗ hõm xương quai xanh bị phủ lên một cái bóng mơ hồ.

Ngón chân nhỏ như viên kẹo, cẳng chân thẳng tắp tựa như không có cảm giác của sự sống, đầu gối nhòn nhọn.

Tất cả các bộ phận ấy đều hoàn toàn không gợi nên chút mơ tưởng tính dục nào cho người khác.

Nói thực lòng, đến cả phần bụng dưới phẳng lì cùng với túm lông mu phía bên dưới của em cũng không thể nào khiến tôi hưng phấn.

Hiện giờ tôi chỉ có thể làm tình với Yuko trong bóng tối. Có lúc làm tình, trong đầu hiện lên thân thể đã từng trưởng thành của em, thực chẳng khác nào là tự thủ dâm cả. Tôi cảm thấy thế này thật không đúng, nhưng chỉ cần Yuko muốn, tôi vẫn sẽ tiếp tục làm tình với cơ thể nhỏ bé ấy.

Đêm đó, tôi lại làm tình với Yuko lần nữa.

Tôi cảm nhận rằng, đối với em, làm tình không phải vì muốn có được điều gì, mà là để không đánh mất thứ gì đó.

Em sợ mất. Mất đi mọi thứ mà cơ thể hai mươi ba tuổi sở hữu nhưng cơ thể mười ba tuổi lại không có.

Âm thanh em phát ra quá đỗi thê lương, tôi có cảm giác mình đang phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.

22

Mấy ngày sau đó bận tối mắt tối mũi.

Nào là phải bỏ công sức đi tìm đôi giày da cỡ 22 để phối với váy cưới, nào là đi lấy nhẫn cưới đã làm xong, rồi đến tiệm làm tóc để cắt tóc… vân vân. (Tất nhiên, đây đều là việc của Yuko, có điều, do cộng hưởng tâm lý, tôi cũng sốt ruột theo.)

Trên thực tế, tôi cũng cần phải chuẩn bị một bộ lễ phục kiểu áo vest đuôi tôm hay vest tuxedo gì đấy, nhưng mục sư Birdman nói không cần phải câu nệ hình thức quá, vì vậy tôi định mặc bộ vest đi làm đẹp nhất của mình.

Cứ bận cuống lên như vậy, thoắt cái đã đến ngày thứ Sáu.

Tôi đi làm như thường lệ. Buổi lễ dự định bắt đầu lúc sáu giờ tối. Khi tôi xong việc đến Green Church, Yuko chắc hẳn đã trang điểm thành một cô dâu xinh đẹp rồi.

Lúc ra khỏi nhà, tôi thấy nụ cười của Yuko lúc tiễn mình có vẻ gì đó không được tự nhiên lắm. Chắc là do căng thẳng trước lễ cưới, nhưng mãi đến tận trước khi buổi lễ bắt đầu, tôi mới biết sự thực hóa ra không phải như vậy.

23

Khi tôi đến nhà thờ, mục sư Birdman đang đứng ở cửa đợi.

“Hôm nay xin nhờ ông.”

Nghe tôi nói vậy, ông rối rít gật đầu.

“Mấy chuyện nghi lễ cứ để tôi lo. Chỉ là, có chút…”

Mục sư đi tới bên cạnh tôi, khom người xuống, ghé miệng vào bên tai tôi thì thào: “Yuko có chút vấn đề.”

“Vấn đề?” Tôi nhớ đến nụ cười không tự nhiên lúc sáng sớm nay của Yuko, “cô ấy sao rồi ạ?”

Ông giơ ngón cái và ngón trỏ ra, biểu thị rằng vấn đề không lớn lắm.

“Chúng ta mau vào thôi.”

Trước sự thúc giục của mục sư Birdman, tôi bước vào lề đường. Ông bảo tôi ngồi tạm xuống ghế dành cho tín đồ, sau đó ngồi xuống bên cạnh.

Vách tường lễ đường bị ánh nến trên ban thờ nhuộm thành màu cam nhàn nhạt. Hình như tôi đã thấy màu sắc này ở đâu đó rồi, ngẫm nghĩ một lúc mà không sao nhớ ra nổi. Về sau, tôi đột nhiên sực nhớ, đó là màu canh bí đỏ Yuko làm tối hôm trước.

“Sao vậy ạ?” Tôi hỏi mục sư.

“Chuyện là thế này…”

Mục sư dường như đang chọn lựa từ ngữ, ngập ngừng một lúc.

“Cô ấy hơi… tâm trạng hơi không được ổn định.”

Ông nói xong, lại còn nháy mắt rất điệu nghệ.

“Một chút thôi, thực sự chỉ có một chút chút thôi.”

Chẳng lẽ em cũng xuất hiện triệu chứng kiểu như bệnh trầm cảm trước hôn nhân, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy không thể nào, vì thực tế chúng tôi đã kết hôn rồi mà.

“Là thế này, lúc mặc váy cưới đã xảy ra vấn đề.”

Nghe mục sư nói thế, tôi rốt cục cũng thở phào nhẹ nhõm.

“Thì ra là thế, tôi còn tưởng là…”

Ông lắc đầu, ngắt lời tôi, nói tiếp:

“Không chỉ váy cưới, cả giày cũng không vừa nữa. Vả lại, nghe nói tối qua lúc thử nhẫn cũng phát hiện ra có chút vấn đề nhỏ.”

Tôi bóp chặt cái hộp đựng nhẫn để ở túi trong của bộ vest, cảm thấy trong đó ngập đầy nỗi bi thương không thể biểu đạt thành lời của Yuko.

“Từ lần trước, tốc độ thu nhỏ hình như tăng một cách đột biến. Cô ấy rất bất an.” Nghe mục sư Birdman nói vậy, tôi lẳng lặng gật đầu.

Lẽ ra tôi phải để ý thấy rồi. Không chỉ là nụ cười thiếu tự nhiên buổi sáng hôm nay, tối hôm qua hoặc còn sớm hơn nữa, em đã luôn ở trong trạng thái bất an. Vậy mà tôi hoàn toàn không chú ý, em đã phải nỗ lực lớn nhường nào để giả bộ như không có chuyện gì xảy ra.

“Tóm lại, buổi lễ vẫn cứ tiến hành theo kế hoạch. Bây giờ vợ tôi đang cố gắng trang điểm cho Yuko. Sau đó, chúng ta sẽ cử hành hôn lễ.”

Mục sư bảo tôi đưa nhẫn cho ông.

Ông cầm lấy hộp đồ trang sức, mở nắp ra, sau đó đặt chiếc nhẫn vào rãnh của chiếc đế phủ vải xa tanh.

“So với việc béo ra không xỏ nhẫn vào được, chuyện lần này chẳng qua chỉ là vấn đề vặt vãnh.” Mục sư nói.

“Tôi lo cho tâm trạng của Yuko.”

“Tôi sẽ cố hết sức để hôm nay trở thành một ngày ghi dấu ấn sâu đậm trong ký ức cô ấy.”

Mục sư nói xong, nhẹ nhàng đặt bàn tay to lớn lên vai tôi.

Chúng tôi kiên nhẫn đợi Yuko chuẩn bị xong xuôi, giống như những người Nga đợi chờ phân phối, lại vừa giống như những cặp vợ chồng trẻ đợi chờ đứa bé ra đời.

Khoảng ba mươi phút sau, một cô bé mở cửa lễ đường lặng lẽ bước vào.

Khoảng khắc ấy, tôi thấy bất an dữ dội, căng thẳng đến nín thở.

Bởi lẽ, cô bé ấy còn nhỏ hơn Yuko mà tôi trông thấy buổi sớm nay nhiều. Chỉ trong có một ngày ngắn ngủi, lẽ nào đã thay đổi nhiều đến thế rồi ư?

Cô bé mặc váy liền thân màu nhạt, mở to mắt nhìn tôi trân trối.

Tựa như muốn cắt đứt ánh mắt đang quấn chặt vào nhau của chúng tôi, mục sư Birdman cất tiếng:

“Cô bé này tên là Yurie, tôi mời cô bé đến đánh đàn organ cho buổi lễ hôm nay.”

“À, thì ra là thế, tôi biết rồi.”

Mục sư nói vậy, tôi mới để ý thấy gương mặt của cô bé và Yuko hoàn toàn khác nhau, tóc đen, mắt một mí thanh tú, sống mũi cao… Chỉ là, tôi đã bị nét tương đồng phổ biến của các cô thiếu nữ làm cho mê muội nên mới rơi vào thứ ảo giác kỳ quặc ấy.

“Lần đầu gặp mặt, chúc mừng cô dâu chú rể.”

Giọng cô bé nghe trong trẻo vui tai, cô còn cúi đầu rất thấp nữa.

“Cảm ơn em.”

Tôi bối rối đáp khe khẽ.

Bộ dạng này của tôi thật sự rất thiếu phong độ của người lớn, nhưng thế này cũng đã là cố hết sức rồi.

“Cô bé mới mười một tuổi, nhưng đã là một người chơi đàn chuyên nghiệp rồi. Tiết mục Thánh ca vào ngày Chủ nhật toàn là nhờ cô bé đệm đàn cho đấy.”

“Thì ra là thế.” Tôi gật đầu, lại đưa mắt sang phía cô bé.

Mười một tuổi.

Ánh mắt thuần khiết của cô bé làm tôi thấy hơi ngượng ngùng. Chẳng bao lâu nữa, Yuko cũng sẽ quay lại độ tuổi này.

Cô bé ngoảnh mặt qua nhìn mục sư Birdman.

“Cô Yoriko nói chuẩn bị sắp xong rồi, mục sư cũng sẵn sàng đi.”

“Ồ, vậy hả.”

Mục sư giải thích với tôi trình tự cuối cùng rồi cầm nhẫn và Kinh Thánh đi tới trước bàn thờ.

Tôi không thể thuật lại tỉ mỉ những chuyện xảy ra tiếp sau đó vì quá đỗi căng thẳng và hưng phấn.

Thoạt tiên, trong đầu tôi cứ xoay mòng mòng nỗi lo về Yuko và cái nhẫn, sau đó nỗi lo ấy dường như chảy cả vào các mạch máu, đẩy tôi vào một trạng thái gần như say rượu. Vì vậy, ký ức của tôi cũng vỡ vụn ra như của một gã say vậy, lại còn chẳng hề chuẩn xác.

Nhưng một số mẩu ký ức thì lại hằn rõ trong tâm trí tôi, ví dụ như, lúc xuất hiện cùng với chị Yoriko ở cửa lễ đường, bộ váy cưới trên người Yuko phơi ra những đường nét không tự nhiên… một số chỗ phồng lên, còn chỗ vốn dĩ căng phồng lên thì lại bẹt gí, hõm vào. Dường như em đã khóc rất lâu, hai mắt sưng đỏ lên.

Còn tiếng đàn mà cô bé mười một tuổi diễn tấu, cùng những lời dài dằng dặc mục sư dẫn ra từ sách Phúc Âm theo Mác cô hay Thư gửi tín hữu Epheso thì tôi chẳng nhớ gì cả.

Song những lời Birdman nói vào cao trào của buổi lễ tôi lại khắc ghi vào óc không sót chữ nào.

“Chúng ta ở trước mặt Thượng Đế chứng kiến đôi bạn trẻ này kết đôi, cầu xin Chúa Trời chúc phúc.”

Ký ức thật kỳ lạ.

Trong đầu hình như có một người tí hon cực kỳ tỉ mỉ, lần lượt lựa chọn từng khoảnh khắc một. Tôi không biết tiêu chuẩn chọn lựa đó. Hoặc có thể nói, trong đầu có một bàn đánh bi pin ball[2] chứ chẳng có người tí hon nào cả.

Cho dù thế nào, khoảnh khắc cảm động nhất, căng thẳng nhất ấy đã được ghi lại rõ nét, dán nhãn “Đồ quý”, cất vào trong kho sách.

Tôi thành kính cầm tay trái Yuko lên, đeo nhẫn vào ngón vô danh, chiếc nhẫn thoáng cái đã trượt xuống tận cuối ngón tay, thậm chí còn nhanh chóng xoay một vòng ở đó. Tôi bất giác rùng mình. Để chiếc nhẫn khỏi rơi, em ra sức ép chặt tay trái lại, giữ lấy niềm vui lúc đó cùng chiếc nhẫn ở bên mình. Yuko ngẩng đầu lên nhìn gương mặt tôi, nở nụ cười an tâm và vui sướng, sau đó những giọt lệ to tướng lã chã tuôn rơi. Nước mắt tựa như cơn mưa đột nhiên đổ xuống giữa ngày nắng ráo, lan đến tất cả những người có mặt ở đó. Tôi thấy sống mũi mình cay cay, gương mặt Yuko trước mắt mờ hẳn đi. Tôi ngoảnh đầu sang nhìn, phát hiện mắt mục sư Birdman cũng ươn ướt, mũi đỏ ửng, gần như đồng màu với mái tóc của ông. Yoriko dùng khăn tay bịt miệng, trong đôi mắt đẹp ầng ậc nước. Thậm chí cả cô bé chơi đàn khuất sau chiếc đàn organ,đôi vai cũng không ngừng run rẩy. Tôi khom người xuống, Yuko hơi kiễng chân lên, tôi thấy chân em trượt ra khỏi đôi giày da nhỏ xíu. Để minh chứng cho tình yêu vĩnh cửu, chúng tôi hôn nhau.

Môi em ấm nóng, có vị mằn mặn.

Vào khoảnh khắc đó, đàn organ tấu lên cao vút, tôi cảm thấy chúng tôi đã nhận được lời chúc phúc của Thượng Đế.

Khi ấy, tôi đắm chìm vào ảo tưởng, cảm giác như lời thề ước vĩnh cửu đã được Thượng Đế nghe thấy và biến nó thành hiện thực bởi trách nhiệm của Người.

“Cho đến khi cái chết chia lìa hai người.”

Chúng tôi hẵng còn trẻ, cảm giác cái chết chỉ rơi xuống đầu những kẻ đen đủi nào đó (kiểu như đêm khuya đi qua đường ray đụng phải tàu chở hàng mỗi tối chỉ chạy qua có một lần), còn cách cuộc sống thường nhật của chúng tôi xa lắm.

Cũng có nghĩa là, vào lúc này, ít nhất trái tim chúng tôi cũng cảm nhận được tình yêu vĩnh hằng chân chính. Tôi nghĩ, chính hôn lễ đã khiến hai chúng tôi có tâm trạng này, thực sự là rất tuyệt vời.

Kết thúc nghi lễ, chúng tôi quay về nhà mục sư Birdman bắt đầu buổi tiệc cưới chỉ có bốn người. Cô bé chơi đàn đã về trước, nói rằng muốn xem phim truyền hình có thần tượng tham gia diễn xuất. Mười một tuổi là như thế đấy. Chúng tôi cùng uống rượu vang, chụp ảnh, vui vẻ trò chuyện, chúc mừng cho ngày hôm nay.

Nếu người ngoài nhìn thấy cảnh tượng này, chắc chắn sẽ lấy làm thắc mắc có gì mà phải chúc mừng. Đa phần chắc sẽ thấy cái tổ hợp bốn người này thật khó hiểu, một cô bé cung cách già dặn, một phụ nữ trưởng thành trông như cô bé con, lại còn cả một người đàn ông cao lớn không rõ tuổi tác và một thanh niên vừa mới lột bỏ những vết tích măng sữa.

Người phụ nữ trưởng thành trông như cô bé con kể cho mọi người nghe một câu chuyện.

Chị chăm chú nhìn vào ánh trăng màu trắng ngả rọi qua cửa sổ, nói:

“Ở Việt Nam quê hương tôi, có một truyền thuyết, xảy ra từ rất lâu rồi, kể rằng ở một vùng nọ, có một chàng trai trẻ tên là Cuội…”

Một hôm, Cuội đeo rìu vào trong núi sâu.

Anh ta đi tới bên bờ suối, phát hiện ra một cái hang ẩn sau bóng cây um tùm. Trong hang có bốn con hổ con.

Cuội bèn vung rìu lên giết hết lũ hổ ấy.

Giật mình ngoảnh lại, Cuội trông thấy hổ mẹ dữ tợn đang tiến về phía mình. Anh ta hét lên hoảng hốt, vội trèo lên cây cao gần đó.

Con hổ mẹ đi một vòng xung quanh lũ hổ con, bứt lá của cái cây cạnh đó, bón vào miệng lũ con. Một sự việc kỳ lạ đã xảy ra, lũ hổ con lập tức sống lại, đứng dậy bình thường.

Sau khi cả nhà hổ rời đi, Cuội tụt từ trên cây xuống, đánh cả gốc cái cây thần kỳ kia đem về nhà.

Trên đường về nhà, anh ta gặp một ông cụ chết bên bờ sông, liền giã nát lá cây bỏ vào miệng ông lão, chỉ một chốc sau, ông lão đã cải tử hoàn sinh.

“Cây này quý lắm đấy, tuyệt đối không được làm nó bị ô uế đâu.” Ông già để lại câu nói ấy rồi đi mất.

Cuội về đến nhà, trồng cây trong vườn, mỗi ngày đều dùng nước sông trong vắt tưới tắm chăm sóc. Chỉ cần nghe nói có người chết, anh ta lập tức mang theo lá cây tìm đến, giúp người đó sống lại.

Danh tiếng của Cuội nhanh chóng lan khắp cả vùng.

Về sau, anh cứu sống con gái của một vị trưởng lão trong làng, rồi kết hôn với cô gái ấy.

Cuội đã dặn dò vợ nhất thiết không được làm cây bị ô uế. Thế nhưng, một ngày kia, khi anh ta đi vào núi, người vợ đã đổ phân vào gốc cây. Kết quả, mặt đất nứt toác, cây thần bật rễ, bay lên cao. Cuội ở trong núi về nhà, trông thấy cây bay lơ lửng giữa không trung thì hoảng hốt vô cùng, vội nhảy lên toan kéo nó trở về. Nhưng cây thần kéo theo cả Cuội càng bay càng cao, cuối cùng bay lên mặt trăng.

“Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già. Cuội ơi ta nói Cuội nghe, ở cung trăng mãi làm chi…[3]” chị Yoriko cất tiếng hát nhịp nhàng.

“Ở Việt Nam, cứ đến tết Trung thu là lũ trẻ con đều hát như vậy. Tất nhiên là hát bằng tiếng Việt. Không giống như truyền thuyết của Nhật, có một con thỏ trên mặt trăng, theo truyền thuyết Việt Nam, trên mặt trăng có một ông già”.

Tới đây, chị im lặng giây lát như thể đang lật trang, sau đó lại bắt đầu thong thả kể tiếp.

“Chuyện này chị nghe bà ngoại kể lại, ở quê bà, truyền thuyết này còn được thêm vào một đoạn nữa.”

Lúc này, Yoriko hơi vươn người ra nhìn chúng tôi dường như muốn nói, tiếp sau đây mới vào chủ đề chính.

Chúng tôi chỉ lặng lẽ nhìn chị. Yoriko khe khẽ gật đầu lại kể tiếp:

“Quê bà ngoại ở một làng của người Kinh gần thị trấn Bắc Ninh. Truyền thuyết kể rằng, hồi xưa Cuội từng đi qua ngôi làng đó, có một trưởng lão trong làng qua đời, anh ta đã dùng lá cây thần cứu sống ông ấy. Trong làng có một cặp vợ chồng trẻ, con gái nhỏ của họ đã chết từ một tháng trước. Thế là hai vợ chồng đến cầu xin Cuội, hy vọng anh ta có thể cứu sống đứa bé. Nhưng vì đứa bé đã được mai táng rồi nên kể cả Cuội cũng không giúp được hai vợ chồng.”

Chị Yoriko dừng lại ở đó, như đang đợi lời kể của mình thấm vào tim chúng tôi. Chị lắc lư người theo một quy luật nhịp nhàng, như thể đang đếm số.

Đứa con bị mất.

Vợ chồng trẻ.

Mãi tôi mới đoán được chị Yoriko định nói gì.

“Trước lời khẩn cầu của cặp vợ chồng, Cuội cũng không biết phải làm sao. Lúc này, vị trưởng lão vừa được cải tử hoàn sinh kia đi tới, hỏi rằng: “Dù phải trả giá thế nào, hai người cũng muốn con gái sống lại phải không?” Cặp vợ chồng trẻ kia gật đầu: “Tất nhiên rồi ạ.” Kết quả, vị trưởng lão chỉ vào người vợ: “Vậy thì, chị này ăn lá cây đi, ước nguyện của hai người sẽ thành sự thực.”

Yoriko thở dài một tiếng như thể đặt một dấu chấm câu, ngừng kể.

Đợi một lúc, tôi thúc giục: “Sau đó thì sao ạ?”

“Hai người lại có lại đứa con.” Yoriko nói, “đứa con gái đã chết trở về thế chỗ của người vợ, người vợ biến thành con gái. Sau này, khi con gái trưởng thành, hai người lại trở thành vợ chồng lần nữa.

24

Lúc chúng tôi ra khỏi nhà mục sư Birdman thì đã gần nửa đêm. Bầu trời không một gợn mây, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống bóng hai chúng tôi không ngừng nhảy múa trên con đường trải nhựa.

Tôi mở to mắt ngẩng đầu nhìn bầu trời, những muốn tìm cây thần và Cuội trên đó mà không thấy một bóng dáng nào.

“Vợ biến thành con gái.”

Chị Yoriko đã nói vậy. Nhưng mà, con của chúng tôi chưa thành hình đã rời khỏi thế gian này, vậy thì, rốt cuộc Yuko sẽ biến thành gì đây?

“Người vợ trẻ lại như con gái, dần dần lớn lên, sau đó sống hạnh phúc bên người chồng.”

Tôi nghĩ, có lẽ đây mới là đoạn chị Yoriko muốn kể cho chúng tôi nghe, chị ấy muốn dùng câu chuyện này để xoa dịu nỗi bất an trong lòng Yuko. Giữa truyền thuyết lưu truyền trên bán đảo phía Tây xa xôi và cặp vợ chồng trẻ sống trong thị trấn nhỏ ở đảo quốc Viễn Đông này, chắc chắn có một mối liên hệ đáng để suy ngẫm. Đúng là chúng tôi mong gặp lại con, nhưng Cuội sẽ không xuất hiện, Yuko cũng không ăn thứ lá cây thần kỳ ấy. Vì vậy, đứa trẻ đã chết sẽ không trở về thế chỗ của Yuko, sau này em vẫn là em, cho dù thân thể có thu nhỏ lại đi chăng nữa.

Hy vọng con có thể gặp lại chúng tôi theo cách thông thường, khi mà Yuko lớn trở lại.

Yuko từ nãy vẫn yên lặng đi bên cạnh tôi.

Thỉnh thoảng, như sực nhớ ra gì đó, em vung chân đá bay viên sỏi ven đường, nhưng động tác ấy hôm nay có vẻ thiếu tập trung.

“Cảm giác của em bây giờ thế nào?” Tôi hỏi.

Em ngẩng đầu nhìn tôi, nhoẻn miệng mỉm cười.

“Vui lắm. Em hạnh phúc, lòng thấy yên bình lắm. Đúng là một lễ cưới tuyệt vời, chảy hết cả nước mắt.”

“Đúng thế, anh cũng khóc theo em đấy.”

“Anh nhìn đây.” Yuko chìa tay trái ra trước mắt tôi. Nhẫn cưới đeo ở ngón giữa, “nếu đeo vào ngón tay này thì vừa như in, cứ đeo kiểu này một thời gian đã nhé. Nếu so với độ lớn của thế giới thì độ chênh lệch giữa ngón vô danh và ngón giữa gần như có thể nói là bằng không đấy.”

“Đúng thế.”

Em khoác cánh tay tôi, sau đó áp mặt vào đó.

“Chúng ta là một gia đình. Hôm nay chẳng qua chỉ thêm một ngày kỷ niệm nữa thôi.”

“Đúng thế, đúng vậy mà.”

Sau này, tôi mới hiểu hàm ý của Yuko.

“Chúng ta là một gia đình.” Tại sao không phải là “vợ chồng” mà là “một gia đình”?

Tôi nghĩ, trong cụm từ “một gia đình” mà Yuko nói đó, ngoài tôi và em, có lẽ còn có cả đứa con lẽ ra phải sinh ra trên đời này nữa.

“Đứa con gái đã chết trở về thế chỗ của người vợ.”

Từ câu nói này của chị Yoriko, Yuko đã trông thấy điều mà tôi không thể thấy.

Một hôm nọ, khi chúng tôi đã kết hôn được một năm, em từng có một trải nghiệm hết sức kỳ lạ. Vì cảm giác quá thiếu chân thực, em lại thấy không quan trọng lắm, nên vẫn luôn cất nó vào một hốc tối tựa như nhà kho chứa đồ trong tâm trí, thậm chí còn không kể cho tôi.

Thế nhưng, sau khi nghe chị Yoriko kể chuyện, em mới biết trải nghiệm của mình mang một ý nghĩa sâu sắc.

Tối hôm đó, em viết trong nhật ký:

“Điều này, đối với tôi, vừa là một sự an ủi, đồng thời cũng đem đến cho tôi niềm vui sâu sắc. Câu chuyện chị Yoriko kể sau hôn lễ tuyệt đối không phải là ngẫu nhiên. Có lẽ, chính vì để nghe được câu chuyện ấy từ chị, chúng tôi mới gặp gỡ vợ chồng mục sư Birdman…”