← Quay lại trang sách

Chương 4

Jo cầm đèn pin ra sau nhà tìm đứa bé. Khối khí được dự báo sẽ gây mưa vào hôm sau giờ đã tràn về, mây mù phủ lấp trăng sao. Chưa gì Jo đã ngửi thấy mùi mưa trong bầu không khí nóng ẩm. Nhưng cô không thấy dấu vết đứa bé đâu cả.

Vài tiếng sau, trời đổ cơn mưa, tiếng mưa rào rào trên mái nhà khiến Jo đang say giấc cũng phải tỉnh dậy. Cô nghĩ tới con bé, có lẽ lúc này nó đang côi cút một thân một mình trong khu rừng tối đen như mực giữa cơn mưa, cô tự dằn vặt bản thân, ước gì mình đã không gọi cảnh sát. Cô nhìn điện thoại. Hai giờ mười bảy phút sáng. Mới qua sinh nhật của mẹ cô vài tiếng. Nếu bà còn sống, bà sẽ bước sang tuổi năm mươi mốt.

Cô bước vào nhà tắm, cốt để phân tán tâm trí chứ cũng chẳng có nhu cầu gì. Trong lúc tắm rửa, cô nhoài người đến trước tấm gương trên bồn rửa mặt, săm soi sắc da khỏe mạnh và những lọn tóc sáng màu do cháy nắng của mình. Khuôn mặt cô giờ ốm hơn, tóc chưa đủ dài để cột ra sau, nhưng trông cô gần giống với bản thân mình hồi trước đây.

Mới gần thôi. Đôi mắt màu nâu sắc xanh trong gương nhìn cô như thể trêu ngươi. Nhưng ai là kẻ đang được phản chiếu, là con người cũ của Jo hay con người mới gần giống Jo? Cô bấu chặt lấy bồn rửa và cúi đầu, nhìn chằm chằm vào cái hố tối đen dưới vòi xả nước. Có lẽ, từ nay mọi thứ sẽ là vậy, hai phiên bản của cô cùng sống trong một cơ thể. Jo ngước nhìn người phụ nữ trong gương, rồi thình lình gạt công tắc đèn, ruồng rẫy cô ta vào màn đêm.

Cơn bão kéo dài cả buổi sáng, mà cô lại chẳng thể làm việc dưới trời mưa. Jo ngủ qua khoảng thời gian mà cô hay tỉnh giấc, chừng một tiếng sau khi bình minh ló dạng. Sau đó, cô thay đồ, uống cà phê, ăn ngũ cốc, rồi gom quần áo đem đi giặt, lộ trình quen thuộc của cô trong một ngày mưa. Quần áo đã mặc của cô bé ngoài hành tinh được vắt ở sọt đồ bẩn. Cô nhét chúng cùng đống đồ dơ, khăn tắm và chai bột giặt vào chiếc túi thể thao của mình.

Jo cất laptop và phần dữ liệu thô đủ cho một tiếng nhập liệu của mình vào chiếc cặp chéo. Lúc khóa cửa chính, cô nhác thấy thứ gì đó chuyển động ngoài rìa tầm nhìn. Tấm chăn cũ cô để trên ghế sô pha bằng liễu gai đang phủ lên một bóng hình to đúng bằng đứa bé gái người ngoài hành tinh. Con bé trùm chăn qua đầu, cố gắng ẩn nấp.

Jo muốn tìm cách chuyển sự nhẹ nhõm trong lòng mình thành cơn tức giận nhưng không thể. “Cô đoán con chưa biết cách giấu hình hài con người của mình đi thì phải,” cô nói với cái bóng đó.

Mép chăn trượt xuống, khuôn mặt nhợt nhạt của cô bé lộ ra. “Con vẫn chưa biết cách,” nó thành thật.

“Thế cơ thể người Hetrayeh trông như thế nào?”

Đứa bé cân nhắc vài giây. “Bọn con nhìn như ánh sao. Không hẳn là có cơ thể.”

Câu trả lời sáng tạo ra phết! Jo tính toán xem mình nên làm gì. Nếu cô gọi cảnh sát trưởng, chỉ tổ con bé lại trốn tiếp. Khả năng duy nhất bây giờ là nhốt cô bé trong một căn phòng cho đến khi cảnh sát đến. Jo không ưng viễn cảnh này cho lắm, mà dù có ưng đi nữa thì căn nhà này cũng chẳng có căn phòng nào không mở được từ bên trong.

Đứa bé như cảm nhận được suy nghĩ của Jo. “Con đi ngay đây. Con chỉ quay về bởi vì đêm qua con không nhìn thấy đường để đi.”

Dù cô bé cố gắng tìm cách che giấu, Jo vẫn mơ hồ cảm nhận được nỗi túng quẫn mà nó phải trải qua lúc trốn khỏi nhà cô. Đêm qua, mây đen che kín trăng sao, bầu trời tối đen như hũ nút, đến độ dẫu giơ tay ra trước mặt cũng chẳng nhìn thấy rõ. Chắc con bé chỉ lảng vảng đâu đó gần ánh đèn của căn nhà.

Đứa bé ngồi dậy và gạt tấm chăn qua một bên. “Thường thì con ngủ trong cái chòi cũ đằng kia, nhưng nước mưa cứ rỏ giọt lên người con.”

“Đó là nơi con ở vào cái đêm con đến chỗ bếp lửa nhà cô à?”

Con bé gật đầu. “Ở đó có giường. Con ngủ chung với Gấu Nhỏ.”

Lúc Jo mới chuyển đến, căn nhà này có duy nhất một tấm nệm khổ lớn, đã tan tành vì bị chuột đóng tổ, để trong nhà suốt cả mùa đông. Nhiều sinh viên sinh học nhắm mắt nhắm mũi sử dụng chiếc giường khai mùi nước tiểu, nhưng Jo không bấm bụng làm vậy nổi. Cô kéo tấm nệm hôi như cú, nham nhở vứt ngoài chòi và chi một phần tiền nghiên cứu của mình mua tấm nệm đôi với giá chiết khấu.

“Con không nên ở trong căn chòi ấy đâu,” Jo dặn. “Trông nó như thể sắp sụp bất cứ lúc nào vậy.”

“Con biết mà. Mái nhà thủng một lỗ to tướng. Thành ra giường của con cũng ướt sũng.” Con bé nói điều này một cách đầy bi kịch, như thể cái nệm tồi tàn ấy là thứ duy nhất nó trao thân gửi phận trên cõi đời này.

“Con có đói không?” Jo hỏi.

Đứa bé nhìn cô đầy ngờ vực.

“Con muốn ăn bánh kếp chứ?”

“Con cá là cô lại lừa con thêm lần nữa,” đứa bé nghi ngờ.

“Không hề. Chỉ là cô chuẩn bị phải ra ngoài, và cô không muốn bỏ mặc con một mình với cái bụng đói.”

Đứa trẻ nhìn trân trân vào khu rừng ướt mưa bằng đôi mắt buồn rười rợi, cân nhắc xem nên làm gì. Đừng mang con bé ra khỏi cái chảo rồi thả nó vào lò lửa, viên cảnh sát đã nói như thế. Đây thực sự là lựa chọn duy nhất của cô hay sao? Bất giác, Jo muốn ôm con bé vào lòng và giữ rịt nó trong vòng tay. “Cô có si-rô đấy,” Jo dụ dỗ.

Con bé ngẩng đầu nhìn cô. “Con nghe nói si-rô rưới lên bánh kếp ăn ngon lắm.”

“Thật không thể tin là con vẫn còn nhớ phải giả bộ như mình chưa từng ăn.”

“Cô có tính lừa con không vậy?”

“Cô không hề.” Jo tra chìa vào ổ để mở cửa. “Nào, vào thôi.”

Sau khi đánh chén xong chiếc bánh kếp và cốc nước cam đến căng cả bụng, đứa bé năn nỉ Jo cho Gấu Nhỏ vào trú mưa và ăn bánh kếp ngoài hiên. Jo đành nhân nhượng, với điều kiện con chó và đám bọ chét của nó không được bước vào nhà. Con bé mặc áo mưa của Jo, cầm theo chiếc bánh kếp ra chòi dụ Gấu Nhỏ. Con chó đã đói meo, nhưng phải đợi đến khi Jo bước vào bên trong mới dám lỉnh lên hiên nhà để lấy thức ăn. “Nếu nó đái hay ị ngoài kia, con sẽ phải dọn đấy nhé,” Jo cảnh báo.

“Con sẽ dọn mà. Con cho nó tô nước được không ạ?”

“Được chứ. Giờ cô đi đến chỗ giặt là đây.”

“Sao ở đây không có máy giặt vậy ạ?”

“Cô đoán thầy Kinney không muốn lãng phí tiền vào máy giặt khi nơi này chỉ được thuê vài tháng trong một năm.”

“Đó cũng là lý do nơi này không có tivi ạ?”

“Chắc thế.”

“Cô mang tivi của mình tới được mà.”

“Ở đây không có truyền hình cáp mà cũng chẳng có mạng Internet đâu,” Jo đáp.

“Sao lại thế ạ?”

“Thầy Kinney là thế hệ những nhà sinh vật học theo quan niệm: chúng ta làm việc, ăn uống và thực sự sống chỉ khi hoàn toàn hòa mình vào thế giới tự nhiên.”

“Cô đi đến tiệm giặt ủi có lâu không?”

“Chắc sẽ mất vài tiếng.” Jo đang suy tính xem có nên khóa cửa lại, để đứa bé ở ngoài lúc mình đi vắng hay không. Nhưng ngẫm một hồi, cô quyết định cất ống nhòm vào túi cùng với laptop. Hai thứ này và ví tiền là những món đồ duy nhất cô sở hữu đáng giá để ăn trộm.

“Đừng tắt lò khi cô đi vắng nhé,” cô dặn.

“Cô cho con ở trong nhà ư?”

“Ừ, chí ít là bây giờ. Chúng ta sẽ bàn đến những chuyện sắp tới sau khi cô về, được chứ?”

Đứa bé không trả lời.

“Đừng rớ đến cái bàn đằng kia trong lúc cô không ở nhà đấy,” Jo nhắc.

Con bé nhìn về phía bàn làm việc chất đầy sách, báo và giấy tờ. “Đống đó là gì vậy ạ?”

“Tài liệu khoa học của cô. Đừng phá nghe chưa?”

Con bé đi theo Jo ra ngoài hiên có tấm chắn. Gấu Nhỏ cuộn tròn mình thành một quả bóng chắc nịch trên thảm, ánh nhìn cảnh giác của nó dán chặt vào người Jo khi cô bước về phía cửa chắn.

“Nhớ là không được cho con chó vào nhà đâu đấy,” Jo nhắc con bé một lần nữa.

“Con biết rồi mà.”

Jo kéo mũ trùm đầu lên và chạy băng qua cơn mưa nặng hạt về phía đường xe chạy. Đứa bé nhìn cô chất đồ rồi bước lên xe, tấm thân bé nhỏ như hư như thực, méo mó mờ ảo qua tấm chắn đùng đục đẫm mưa ngoài hiên.

Trên quãng đường bốn mươi lăm phút chạy xe đến thị trấn Vienna, mà người dân địa phương ở đây hay đọc là Vi-enna, mưa chỉ còn lún phún, mặc dù trời vẫn sầm sì mây đen, hăm he khả năng mưa lại trút xuống. Khu trung tâm của Vienna trông giống những nơi Jo từng thấy trên mấy bộ phim ngày xưa, và chẳng hiểu sao, điều này lại khiến cô cảm thấy dễ chịu đến lạ lùng. Cô chạy xe bon bon qua con phố vắng, hai cụ ông cụ bà ngồi dưới mái hiên một cửa tiệm vẫy tay chào cô, cô cũng đưa tay đáp lại. Cô đi ngang qua đồn cảnh sát trên đường đến tiệm giặt ủi.

Jo ngồi trên chiếc ghế nhựa màu xanh quen thuộc đối diện cửa sổ, trong lúc quần áo của cô xoay tròn trong lồng hai chiếc máy giặt. Cô mở hình của Tabby trong danh bạ điện thoại, tấm hình chụp cô bạn đeo băng đô tai mèo vằn, một con cá vàng bằng nhựa lủng lẳng trông như điếu thuốc trên môi. Tabby trở thành người bạn thân nhất của Jo từ năm thứ hai đại học, khi cùng làm việc trong phòng thí nghiệm, và cô nàng cũng ở lại Đại Học Illinois làm luận án tốt nghiệp của mình. Tabby đã trúng tuyển vào một trường thú y, có chương trình học rất tốt, nhưng cô nàng hay tự hỏi tại sao mình không chuyển sang một ngôi trường khác có khung cảnh xung quanh non nước hữu tình hơn, chứ không phải bốn bề đều là những cánh đồng trồng bắp và đậu tương.

“Jojo,” Tabby trả lời sau ba hồi chuông. “Thị Trấn Súc Sích [9] đó thế nào rồi?”

Tabby thấy thật buồn cười khi giữa chốn đồng không mông quạnh của Illinois lại có một thị trấn mang tên Vienna, thành ra cô nàng khăng khăng gán cái tên này với nhãn hiệu xúc xích Vienna, chứ không phải là tên của thủ đô nước Áo.

“Sao bà biết tôi lên Vienna?” Jo thắc mắc.

“Thì bà chỉ gọi cho tôi khi đi giặt ủi chứ sao với trăng gì. Tôi còn biết trời ở đó đang mưa bởi vì bà thuộc dạng sẽ mặc đi mặc lại đống đồ cho đến khi nó rách như tổ đỉa, chứ nếu là một ngày đẹp trời thì còn lâu bà mới đi giặt ủi, vì mải lo đi nghiên cứu rồi.”

“Tôi không ngờ là tôi dễ đoán vậy cơ đấy,” Jo ngạc nhiên.

“Chứ còn gì nữa. Điều đó có nghĩa là bà đang quần quật làm việc dù bác sĩ đã dặn bà không được nôn nóng.”

“Tôi đã bình chân như vại suốt những hai năm còn gì. Giờ tôi cần làm việc.”

“Hai năm vừa rồi không dễ dàng, Jo nhỉ?” Tabby khe khẽ nói.

Jo nhìn chằm chằm vào vũng nước trong ổ gà trên mặt đường nhựa bên ngoài cửa sổ mù sương của tiệm giặt ủi, bề mặt nước lăn tăn vì mưa. “Hôm nay là sinh nhật mẹ tôi,” cô nói.

“Vậy sao?” Tabby hỏi. “Bà ổn chứ?”

“Ừ.”

“Xạo!”

Cô ổn thật. Ban đầu, cô định gọi cho Tabby để xin lời khuyên về cô nhóc kì lạ kia, nhưng chẳng hiểu sao cô lại lỡ miệng tâm sự về ngày sinh nhật của mẹ mình.

“Ở đó có nước không? Bà cầm nước lên đi,” Tabby yêu cầu.

Gì cơ?

“Chúng ta nâng ly chúc mừng sinh nhật mẹ của bà.”

Jo giơ bình nước màu xanh cũ nát đang đặt bên cạnh mình lên.

“Sẵn sàng chưa?” Tabby hỏi.

“Rồi,” Jo đáp.

“Chúc mừng sinh nhật cô Eleanor Teale, người thổi hồn vào hoa, người khiến vạn vật và thế giới xung quanh bừng nở. Ánh sáng của cô vẫn luôn bên cạnh chúng con, nuôi dưỡng thương yêu trên khắp vũ trụ.”

Jo nâng chai nước lên bầu trời xám xịt rồi uống. “Cảm ơn nhé,” cô nói, đưa ngón tay chùi khóe mi. “Bà chúc hay lắm.”

“Cô El là một trong những người tuyệt vời nhất mà tôi từng gặp,” Tabby kể. “Không tính đến người mẹ mang nặng đẻ đau ra tôi.”

“Mẹ tôi cũng quý bà lắm đấy,” Jo nói.

“Tôi biết. Chết tiệt… Giờ bà làm tôi rưng rưng rồi đây này, trong khi tôi đang cố gắng tìm cách giúp bà vui lên cơ mà.”

“Thì bà đã làm được rồi đấy,” Jo đáp. “Nhưng bà đoán xem ai sắp đến thăm tôi nào?”

“Đừng bảo tôi là…”

“Ừ, là Tanner.”

“Phải chi tôi có mặt ở đó, tôi sẽ đá đít hắn!”

“Gã ấy chẳng đáng được nhận chừng đó sự quan tâm đâu.”

“Sao hắn dám vác mặt đến đấy cơ chứ?”

“Tôi đoán hắn muốn đến. Hắn ta và hai nghiên cứu sinh nữa đang ở buổi hội thảo cùng với giáo sư hướng dẫn của tôi tại Chattanooga. Nghe đâu bốn người bọn họ sẽ tạt vào Nhà Kinney và ở lại qua đêm trên đường lái xe về trường đại học.”

“Căn nhà ấy có đủ phòng cho bốn người nữa cơ à?”

“Không đủ giường, nhưng những nhà sinh vật học như bọn tôi thì quăng đâu ngủ đó ấy mà.”

“Thế bà quăng Tanner vào rừng đi. Ngay chỗ tổ kiến ấy.”

Còn đứa bé, Jo biết cho nó ở đâu bây giờ? Suốt quãng đường lái xe từ nhà đến đây, cô chỉ nảy ra một phương án duy nhất. Nhưng nếu nó không có tác dụng…

“Bà còn ở đó không vậy?” Tabby hỏi.

“Tôi vẫn đang nghe đây,” Jo đáp. “Hai đêm trước có một điều kỳ cục xảy ra…”

“Chuyện gì?”

“Có một cô bé xuất hiện ở nhà tôi và không chịu đi.”

“Con bé đó bao nhiêu tuổi?”

“Nó không chịu kể. Tôi đoán nó tầm chín, mười tuổi gì đó.”

“Trời đất ơi, Jo! Bà phải bảo nó về nhà ngay đi.”

“Tất nhiên là tôi đã bảo rồi. Nhưng rồi tôi thấy người nó toàn vết bầm tím.”

“Do bị bạo hành sao?”

“Tôi đoán vậy.”

“Thế thì bà phải gọi cảnh sát đi chứ!”

“Tôi gọi rồi. Nhưng khi cảnh sát đến, con bé liền chạy trốn.”

“Tội nghiệp thật!”

Trước khi Jo kịp kể cho Tabby chuyện cô bé đã quay trở lại, cô nghe thấy tiếng chuông thông báo cuộc gọi chờ đang vang lên. Nhìn màn hình, cô thấy thầy Shaw Daniels, giáo sư hướng dẫn của cô, đang gọi. “Tôi phải cúp máy đã. Thầy Shaw gọi tôi.”

“Ừ, vậy chào nhé,” Tabby tạm biệt. “Với cả thỉnh thoảng dù không mưa bão cũng phải gọi cho tôi đấy nhé.”

“Tôi biết rồi.” Jo cúp máy và nhấn nút trả lời cuộc gọi đến. “Em đang tính gọi thầy ạ.”

“Em nghe máy làm thầy bất ngờ quá,” Shaw lên tiếng. “Đang ở chỗ thực địa à?”

“Trời đang mưa nên em đi giặt một ít đồ.”

“Tốt, cuối cùng em cũng chịu ngơi tay rồi.”

Có ai trong số họ chịu để cô được là chính bản thân mình trước khi họ biến thành bác sĩ chẩn đoán không nhỉ? Cô ngờ rằng thầy Shaw gọi cốt là để hỏi thăm tình hình sức khỏe cô. Thầy từng thuyết phục cô thuê một trợ lý thực địa lúc cô đang trong quá trình hồi phục, đồng thời thầy cũng rất phản đối chuyện cô sống một thân một mình ở Nhà Kinney.

“Tối nay bọn thầy ghé qua đó thăm được không?” Shaw hỏi.

“Tất nhiên là được ạ. Thầy dự tính mấy giờ đến?”

“Bọn thầy sẽ lên đường sau khi kết thúc chuyên mục cuối, khoảng ba giờ sẽ xong. Chắc tầm bảy rưỡi, hoặc trễ nhất là tám giờ, bọn thầy sẽ đến nơi. Nếu em đợi được thì chúng ta sẽ đưa em ra ngoài ăn tối.”

“Mình ăn tại nhà thì sao thầy? Em đang tính nướng thịt burger. Nhưng có khi sẽ phải nướng trong nhà nếu trời vẫn cứ mưa không ngớt.”

“Em có chắc là muốn bày vẽ bao nhiêu thứ như vậy không?”

“Có gì mà bày vẽ đâu ạ,” Jo đáp.

“Nếu em muốn thì được thôi,” ông nói. “Gặp em sau nhé.”

Sau khi dừng lại ở tiệm tạp hóa và quầy nông phẩm để mua nguyên liệu, Jo quay về nhà vào khoảng đầu giờ chiều. Không thấy bóng dáng con bé đâu cả. Jo hy vọng nó đã về nhà. Nhưng sau khi tưởng tượng đến viễn cảnh tồi tệ mà con bé đã phải trải qua, cô lại hối hận vì đã nghĩ như thế. Cô kiểm tra loanh quanh trong nhà, con bé không lấy trộm gì cả. Vật duy nhất nằm sai chỗ là cuốn giáo trình Điểu học, không còn ở trên bàn mà bị bỏ lại trên ghế.

Jo tìm cách đẩy con bé ra khỏi suy nghĩ. Cô còn rất nhiều thứ phải lo trước khi khách đến. Sau khi dọn dẹp ngăn nắp căn nhà, cô bắt đầu chuẩn bị đồ tráng miệng, là một chiếc bánh mứt đào và một chiếc bánh mứt dâu đại hoàng làm bằng trái cây cô mua ở quầy nông sản. Bình thường, có cho vàng cô cũng không phung phí thời gian thực địa quý giá của mình vào những việc như thế này, nhưng mưa vẫn trút xuống không ngừng và cô muốn chuẩn bị một bữa tối thật ngon cho thầy Shaw - chứ không phải cho Tanner Bruce. Tanner cũng là một trong những nghiên cứu sinh được thầy Shaw hướng dẫn, chỉ trên cô một năm vào lúc cô bắt đầu theo học, nhưng giờ đã vượt trước cô ba năm và gần như hoàn thành chương trình học của mình. Trước khi rời trường để chăm sóc mẹ mình nằm viện, Jo đã lên giường với Tanner. Ba lần. Nhưng mối liên lạc duy nhất mà cô có với hắn ta sau khi rời trường là chữ ký của hắn trên tấm thiệp chia buồn từ thầy Shaw và các nghiên cứu sinh của thầy.

Tay Jo điệu nghệ dàn đều bột, nhào thành hình tròn, dù tâm tưởng của cô đang vẩn vơ trở về cái ngày cuối cùng cô ở bên cạnh Tanner. Đêm tháng Bảy ấy trời rất oi và nóng, đến mức họ không thể ngủ trong lều, nên đã lỉnh ra ngoài và mây mưa với nhau trong một cái hồ sâu của con suối gần nơi cắm trại. Đáng ra, ký ức ấy đã là một trong những kỷ niệm đẹp nhất đời cô nếu không có Tanner Bruce.

“Cô đang làm bánh cho ai vậy ạ?”

Sự chú ý của Jo nhanh chóng kéo ngược về đôi tay mình. Cô bé đã lẻn vào nhà mà không gây ra bất kỳ một tiếng động nào, mái tóc và bộ quần áo quá khổ của Jo đang được khoác trên người con bé ẩm ướt vì mưa.

“Con đi đâu vậy?” Jo hỏi.

“Con vào rừng.”

“Làm gì?”

“Con tưởng cô lại đưa viên cảnh sát kia trở lại.”

Jo rắc một lớp bột mịn lên cái khay nướng bánh mới mua. “Cô đã quyết định cô cháu mình sẽ tự lo liệu chuyện này. Con có nghĩ chúng ta đủ sức làm vậy không?”

“Được ạ,” con bé đáp.

“Vậy con hãy nói cho cô nhà con ở đâu và lý do tại sao con lại không chịu quay về. Cô sẽ giúp con giải quyết bất cứ chuyện gì đang xảy ra.”

“Con đã nói với cô rồi mà. Con có thể ăn bánh khi bánh ra lò không ạ?”

“Bánh này để dành lát nữa, cho khách của cô.”

“Ai đến ạ?”

“Giáo sư hướng dẫn cô làm luận án và ba nghiên cứu sinh nữa.”

“Họ đều là nhà điểu học ạ?”

“Phải. Mà sao con biết từ đó?”

“Trong cuốn Điểu học của cô. Con đã đọc phần mở đầu và hai chương đầu tiên,” con bé khoe, phát âm từ “mở đầu” thành mở dầu.

“Con đọc nó thật hả?”

“Con bỏ qua những phần mà người đến từ hành tinh Hetrayeh không hiểu, nhưng không có nhiều lắm. Con thích chương bàn về sự phong phú của các loài chim và việc mỏ chim phù hợp với thứ chúng ăn, còn chân thì phù hợp với môi trường sống. Con chưa bao giờ nghĩ về điều đó cả.”

“Khả năng đọc của con ở cấp độ thượng thừa đấy.”

“Con dùng não của cô bé đã chết để đọc, bạn ấy cũng thông minh ra phết.”

Jo quệt bàn tay dính đầy bột của mình lên chiếc khăn lau đĩa. “Rửa tay đi rồi cô cho con véo phần rìa của lớp vỏ bánh.”

Cô bé ngoài hành tinh lon ton chạy về phía bồn rửa. Đợi đến khi con bé rửa xong, Jo lên tiếng, “Cô cần một cái tên dễ hơn để gọi con chứ không phải là Earpood. Con có nghĩ ra tên nào bình thường hơn không?”

Đứa bé đưa tay lên xoa cằm, làm bộ ngẫm nghĩ. “Vậy Ursa thì sao ạ? Vì con đến từ nơi loài người gọi là Đại Hùng [10] ?”

“Cô thích cái tên Ursa này đấy.”

“Vậy cô gọi con như vậy nhé.”

“Họ của con thì sao?”

“Major ạ.”

“Nghe cũng hợp lý. Con đã bao giờ làm vỏ bánh chưa, Ursa?”

“Bọn con không có bánh ở Hetrayeh.”

“Để cô chỉ con.”

Ursa học cách làm vỏ bánh nhanh chẳng kém gì nắm bắt các kiến thức ở trình độ đại học trong sách, và trong lúc chờ bánh được nướng chín, căn phòng ngào ngạt mùi thơm, con bé phụ Jo làm salad khoai tây. Hai cô cháu áp dụng công thức của mẹ Jo, mà theo ý kiến của cô là thứ salad khoai tây duy nhất trên đời đáng để ăn. Tiếp đến, hai người chuẩn bị thịt bò xay để làm nhân burger theo cách của mẹ Jo, sử dụng xốt Worcestershire, vụn bánh mì và các loại gia vị khác. Kể từ lúc chuyển đến căn nhà gỗ này, cô chưa lần nào tự nấu một bữa ăn kỳ công như thế. Cô thích ý tưởng nấu các món theo công thức của mẹ vào ngày sinh nhật của bà như một cách để tưởng niệm, và thêm nữa, việc chuẩn bị đồ ăn giúp cô vơi bớt nỗi căng thẳng đang dâng cao khi sắp sửa gặp lại Tanner. Ngay cả đứa bé cũng không đủ để phân tán tâm trí cô.

Khi đem cất bơ, Ursa xem xét đống bia trong tủ lạnh. “Các nhà điểu học là dân nghiện rượu bia hở cô?”

“Sao con lại nghĩ vậy?” Jo thắc mắc.

“Con thấy nhiều bia quá.”

“Cho tận bốn người kia mà.”

“Cô không uống sao?”

“Chắc cô uống một chai thôi.”

“Cô không thích say xỉn ạ?”

“Ừ, cô không thích.” Jo nhìn thấy sự e dè ánh lên trong mắt con bé. “Con từng có trải nghiệm nào không vui với người rượu chè be bét à?”

“Sao mà có được ạ? Con mới đến đây thôi mà.”