← Quay lại trang sách

Chương 5

Sau khi hai cô cháu ăn xong bánh mì kẹp và để bánh vừa mới nướng chín ra bên ngoài cho nguội, Jo đưa Ursa đi thay lại bộ đồ đã được giặt sạch của con bé. Ra khỏi phòng ngủ, thấy Jo đang làm việc trên laptop, cô bé liền tiến tới sô pha và đọc tiếp cuốn Điểu học.

Jo nghiêng màn hình về phía Ursa để con bé không thấy cô đang dùng điện thoại của mình vào Internet. Khi đã có kết nối, cô gõ bé gái mất tích Ursa trên Google nhưng không có kết quả gì. Mặc dù viên cảnh sát đã nói trong vùng không có trẻ em mất tích, cô vẫn thử gõ trẻ em mất tích ở Illinois, nó dẫn cô đến trang web Trung Tâm Quốc Gia về Trẻ Em Mất Tích Và Bị Lạm Dụng cùng một danh sách dài đến đau lòng ghi tên những đứa trẻ bị mất tích ở Illinois. Nhiều đứa trẻ đã chết, xương cốt chôn giấu trong những ngôi mộ sẽ không bao giờ được tìm ra. Một số bức ảnh chụp những đứa trẻ bị mất tích từ năm 1960, và một số bức được phục dựng bằng máy tính về những đứa trẻ đã chết nhưng không xác nhận được danh tính. Có một tấm suýt chút nữa làm Jo rơi nước mắt. Nó chụp vỏn vẹn một đôi giày, tất cả những gì còn sót lại của đứa trẻ vị thành niên xấu số.

Jo cũng dùng trang web này để xem hình những đứa trẻ ở Kentucky gần đó, hay ở những bang lân cận như Missouri, Iowa, Wisconsin và Indiana. Ursa Major không có trong danh sách nào, dù cô bé đã không ở nhà ít nhất hai đêm. Jo đặt điện thoại xuống. “Con đọc Điểu học đến đâu rồi?”

“Con không thích hệ thống hóa sinh học cho lắm,” Ursa nhận xét.

“Cô cũng chẳng thích thú gì.” Nói rồi cô với lấy chìa khóa xe trên bàn. “Tạnh mưa rồi. Cô tính lái xe xuống đường để kiểm tra các tổ chim. Con có muốn đi cùng cô không?”

“Có ạ!” Con bé bật dậy khỏi ghế và mang đôi dép quá khổ của Jo vào chân. “Cô kiểm tra tổ chim như thế nào ạ?”

“Cô quan sát và xem tình hình các tổ chim ra sao.”

“Đó là cách cô lấy được bằng tiến sĩ ạ?”

“Còn nhiều việc hơn chứ không chỉ dừng lại ở đó. Cô ghi lại số mệnh của mỗi tổ chim cô phát hiện ra, rồi từ những dữ liệu đó, cô có thể tính toán tỷ lệ làm tổ thành công của chim sẻ đất màu chàm ở từng nơi cô thực địa.”

“Cô nói số mệnh nghĩa là sao ạ?”

“Số mệnh là những gì xảy ra sau khi tổ chim được xây dựng. Cô theo dõi số lượng trứng mà chim đẻ ra xem có bao nhiêu con nở, bao nhiêu chim non đủ lông đủ cánh. Đủ lông đủ cánh ở đây nghĩa là những chú chim non này có thể bay khỏi tổ. Nhưng nhiều lúc cũng có những cặp chim bố chim mẹ bỏ tổ trước khi con cái đẻ trứng, hoặc trứng bị động vật săn mồi ăn thịt mất. Và cũng có lúc trứng nở rồi nhưng chim non chưa đủ lông đủ cánh thì đã bị động vật săn mồi ăn thịt.”

“Tại sao cô không cản động vật săn mồi ăn chim non ạ?”

“Cô không cản được, mà dù có thể cản đi chăng nữa thì mục tiêu nghiên cứu của cô không phải là cứu từng con chim non. Nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu thêm về cách bảo tồn số lượng chim trên quy mô lớn.”

“Động vật săn mồi bao gồm những con gì ạ?”

“Rắn, quạ, giẻ cùi lam, gấu mèo là những động vật săn mồi chính trong các khu thực địa của cô.” Jo lẳng chiếc túi đựng thiết bị thực địa của mình qua vai. “Đi thôi, kẻo thời tiết trở xấu. Cô không muốn dọa chim bay khỏi tổ trong lúc trời mưa tầm tã thế này.”

“Vì trứng không được để ướt ạ?”

“Cô không muốn trứng hoặc chim non bị ướt hay lạnh. Trong lúc nghiên cứu phải cố gắng hạn chế đến mức tối thiểu tác động lên thành công của việc làm tổ.”

Khi Jo và đứa bé ra khỏi nhà, Gấu Nhỏ thủng thẳng bước lại từ căn chòi. Giờ nó ngoan hơn nhiều, thậm chí còn để Ursa xoa đầu. “Ở đây nhé,” cô bé dặn con chó. “Mày hiểu điều tao nói không? Tao sẽ về sớm.”

Ursa không thích việc phải ngồi ở ghế sau và thắt dây an toàn. Hẳn trước đó đã có người cho con bé ngồi ghế trước mà không cài dây an toàn cho nó. Jo giải thích với cô bé tại sao việc thắt dây an toàn lại rất cần thiết và túi không khí để phía trên có thể giết chết trẻ em ra sao nếu nó bật ra.

“Nếu túi không khí giết chết trẻ em, ai lại để nó trong xe ô tô chứ?” Ursa thắc mắc.

“Vì người sản xuất xe hơi muốn trẻ em ngồi ở ghế sau, vì đó là nơi an toàn nhất.”

“Vậy nếu có một chiếc xe tải tông vào từ đằng sau, chỗ đứa trẻ đang ngồi thì sao ạ?”

“Rốt cuộc con có nghe lời cô hay không đây?”

Ursa lọ mọ trườn ra ghế sau và thắt dây an toàn.

Gấu Nhỏ chạy theo chiếc xe lúc hai cô cháu rời khỏi đường lái xe Nhà Kinney. “Cô Jo, dừng xe lại! Dừng lại đi mà!” Ursa nài nỉ. “Nó đang chạy theo mình kìa!”

“Dừng lại thì giúp ích được gì chứ?”

Ursa nhoài người ra cửa sổ và nhìn con chó biến mất ở khúc quanh. “Nó chạy không kịp!”

“Cô không muốn nó chạy kịp. Nó không được đến khu vực nghiên cứu của cô. Mang một con thú săn mồi đến sẽ khiến lũ chim hoảng sợ.”

“Cô Jo ơi! Nó vẫn chạy theo kìa!”

“Con đừng thò đầu ra ngoài cửa sổ nữa. Con đường này rất hẹp, coi chừng bị cây quật trúng mặt bây giờ.”

Ursa đau khổ nhìn chằm chằm vào chiếc gương chiếu hậu.

“Con chó đó biết con đường này. Nó sinh ra ở đây thì phải?” Jo nói.

“Có lẽ là không. Biết đâu nó nhảy ra từ một chiếc xe ô tô thì sao ạ?”

“Cô thấy nó bị tống ra khỏi xe vì chủ nhân của nó không muốn có nó thì đúng hơn.”

“Cô sẽ quay lại đón nó chứ?”

“Không.”

“Cô ích kỷ thật đấy!”

“Ừm.”

“Kia có phải là nơi chú Gabriel Nash sống không ạ?” Ursa hỏi, chỉ tay về phía một con đường đất hằn vết xe qua lại và bảng hiệu đề CẤM VÀO.

“Cô nghĩ là phải,” Jo đáp.

“Có lẽ Gấu Nhỏ sẽ tạt vào đó.”

“Cô đoán Anh Bán Trứng sẽ không thích điều đó đâu. Chú ấy nuôi gà và nuôi mèo mà.”

“Sao cô lại gọi chú ấy là Anh Bán Trứng trong khi tên chú ấy là Gabriel ạ?”

“Vì cô quen chú ấy nhờ việc mua trứng.”

“Con tưởng chú ấy là người tốt?”

“Cô chưa bao giờ nói chú ấy là người xấu cả.”

Jo lái xe đến tổ chim xa nhất để đảm bảo chú chó không đuổi kịp, vòng xe lại ở cuối con đường phía Tây và dừng xe trước miếng băng dán quan trắc đầu tiên. Cô lấy tài liệu từ bọc hồ sơ đề ĐƯỜNG TURKEY CREEK ra và đưa cho Ursa xem. “Tài liệu này được gọi là ghi chép tổ chim. Cô làm cho mỗi tổ chim mình tìm thấy một bản, mỗi tổ được đánh một con số riêng. Tổ này là TC10, có nghĩa là tổ chim thứ 10 cô tìm thấy ở khu thực địa đường Turkey Creek. Trên cùng của hồ sơ, cô ghi lại thông tin về địa điểm và thời gian tìm thấy tổ chim; còn ở bên dưới, cô ghi những gì mình thấy mỗi lần kiểm tra tổ. Ngày cô phát hiện ra tổ chim, có hai quả trứng bên trong, lần tiếp theo tăng lên bốn quả. Lần gần đây nhất cô đến thì vẫn chỉ có thế, và cô ghi chú lại là mình lỡ làm chim mẹ hoảng sợ bay khỏi tổ.”

“Vậy chim non đã nở chưa ạ?”

“Vẫn còn sớm quá. Chim mẹ sẽ ấp trứng trong khoảng mười hai ngày.”

“Ấp trứng nghĩa là chim mẹ giữ cho trứng được ấm áp sao?”

“Đúng vậy. Mình cùng đi xem chim mẹ thế nào rồi nhé.” Hai cô cháu rời khỏi xe. Jo chỉ cho Ursa cách mình đã đánh dấu hướng dẫn lên miếng băng quan trắc màu cam để đưa cô trực tiếp đến tổ chim như thế nào. “INBU là mã của chim sẻ đất màu chàm [11] , đây là loài chim chính mà cô nghiên cứu, còn đây là ngày cô phát hiện ra nó. Những con số và chữ cái còn lại thể hiện khoảng cách bốn mét từ đây về hướng Nam - Tây Nam, tổ chim cách mặt đất chừng một mét rưỡi.”

“Ở đâu ạ? Con muốn được thấy nó!”

“Rồi con sẽ thấy thôi. Đi theo cô.” Hai cô cháu gạt đám cỏ dại ẩm ướt ven đường, tiến tới, thế nhưng đi mãi vẫn chưa nghe thấy tiếng chim sẻ đất. Đây không phải dấu hiệu tốt. Chúng đáng lý ra phải chiêm chiếp báo động cho nhau mới phải. Mối nghi ngờ của Jo đã được xác nhận khi cô nhìn thấy tổ chim nát bấy.

“Tổ chim bị sao vậy cô?” Ursa hỏi.

“Con phải tự tìm ra nguyên nhân, giống như thám tử nhìn vào manh mối để giải quyết vụ án vậy. Nguyên nhân đôi khi là do chim mẹ không có kinh nghiệm, xây tổ yếu quá nên bị rơi. Nếu tổ không chắc thì những hôm trời mưa như hôm nay cũng đủ làm nó rơi xuống đất.”

“Vậy tổ chim này rơi vào trường hợp như vậy hở cô?”

“Từ những manh mối cô nhìn thấy thì không phải.”

“Manh mối gì vậy ạ?”

“Thứ nhất, cô nhớ tổ chim này được xây rất chắc chắn. Thứ hai, trên mặt đất không hề có quả trứng nào. Thứ ba, hoàn toàn không thấy bóng dáng của chim bố và chim mẹ trong khu vực này, chứng tỏ cái tổ đã bị như vậy trước khi mưa xuống. Và manh mối lớn nhất chính là việc tổ chim bị phá nát như thế nào. Cô đoán một con gấu mèo đã kéo nó xuống. Nếu một con rắn hay quạ ăn cắp trứng, tổ cũng không đến nỗi bị nát bấy như vậy.

“Gấu mèo đã ăn trứng chim rồi ạ?”

“Nói chung, con thú đã phá hủy tổ chim và ăn trứng. Ở một số tổ, cô gắn cả camera nên cô biết chắc loài vật nào là thủ phạm.”

“Sao cô không lắp camera cho cái tổ này ạ?”

“Cô không thể bạ đâu cũng lắp camera được. Camera đắt lắm. Mình đi đến những tổ chim tiếp theo thôi.”

“Liệu chúng có bị con gấu mèo ngu ngốc nào đó đánh chén sạch sành sanh không ạ?” Ursa hỏi lúc họ đi bộ trở lại xe.

“Chắc không đến nỗi. Nhưng theo giả thuyết của cô thì ở những vùng rìa do con người xây dựng, như dọc theo con đường hay đồng ruộng, tỉ lệ chim sẻ đất xây tổ thành công thấp hơn những vùng rìa tự nhiên, như cạnh suối hay chỗ một cái cây lớn bị đổ. Con đã nghe từ giả thuyết bao giờ chưa?”

“Dạ rồi ạ, nhưng người Hetrayeh dùng một từ khác.” Con bé trèo lên băng ghế sau. “Hôm nay con có một giả thuyết về cô.”

“Thế à? Giả thuyết gì vậy?”

“Nếu hôm nay cô không đem cảnh sát tới nữa, thì từ nay về sau, cô cũng sẽ không bao giờ gọi họ.”

Bằng sự tự tin đầy mình, con bé đã đưa ra một giả thuyết với độ chặt chẽ vượt trội. Jo quay người ra sau nhìn nó. “Điều đó có nghĩa là gì? Con nghĩ giả thuyết của con đã được chứng minh, và giờ con sẽ ở với cô à?”

“Cho đến khi con thấy đủ năm điều kỳ diệu thôi mà.”

“Hai ta đều biết chuyện này không thể xảy ra. Tối nay con phải về nhà. Vài tiếng nữa là thầy Shaw - giáo sư hướng dẫn của cô - đến đây rồi, và cô chắc chắn sẽ gặp rắc rối nếu thầy ấy phát hiện con đã ở trên đất Nhà Kinney hai ngày hôm nay.”

“Thì cô đừng kể với thầy là được mà.”

“Thế cô biết giải thích thế nào với việc có một bé gái ngủ trong nhà của cô chứ?”

“Con sẽ ngủ chỗ khác.”

“Con sẽ ngủ ở nhà của con. Vậy nên chúng ta mới đi ra ngoài thế này. Con chỉ cần chỉ cho cô nơi con sống, cô sẽ đưa con về đến tận cửa. Cô sẽ nói với người đang chăm sóc con là cô sẽ đến đó kiểm tra hằng ngày. Và cô sẽ làm vậy. Cô hứa đấy!”

Đôi mắt nâu của đứa bé ầng ậng nước. “Cô nói dối con? Thật ra cô không muốn cho con xem tổ chim có phải không?”

“Cô sẽ cho con xem, nhưng sau đó con phải về nhà. Thầy hướng dẫn của cô sẽ…”

“Thì cô cứ làm đi, đưa con tới từng nhà mà xem, tất cả mọi người sẽ bảo họ không biết con!”

“Con phải về nhà mình chứ!”

“Con hứa sẽ về sau khi thấy đủ năm điều kỳ diệu. Con hứa thật mà!”

“Ursa…”

“Cô là người tốt duy nhất mà con biết! Con xin cô đấy!” Con bé khóc toáng lên, khuôn mặt tím ngắt.

Jo vội mở cửa bên hông xe, tháo dây an toàn cho đứa bé và ôm nó trong tay, lần đầu tiên cảm nhận được một cái đầu áp vào lồng ngực đầy xương xẩu của mình. Nhưng đứa bé không để ý đến khiếm khuyết trên cơ thể cô. Nó níu chặt lấy Jo và rống lên nức nở.

“Cô xin lỗi,” Jo thủ thỉ. “Cô thật sự xin lỗi, nhưng con phải thấy cô đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan như thế nào. Cô có thể sẽ gặp rắc rối nếu cô để con ở lại.”

Ursa buông khỏi vòng tay cô, đưa mu bàn tay lên quẹt mũi. “Mình đi xem thêm một tổ chim nữa được không ạ? Con xin cô đấy!”

“Vẫn còn bốn tổ nữa, cô sẽ đưa con đi xem hết. Nhưng sau đó, con phải về nhà.”

Con bé nhất quyết không chịu. Nó là đứa con nít cứng đầu cứng cổ nhất vũ trụ mà cô biết. Jo tiếp tục lái xe đi kiểm tra những tổ chim tiếp theo. Lúc cô dừng xe ở chiếc cờ màu cam thứ hai, cô nhóc đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại sau trận khóc tràn bờ đê ban nãy, chỉ còn đôi má hơi ửng đỏ. “Con mong là lần này gấu mèo không ăn trứng chim nữa,” Ursa cầu nguyện.

“Những quả trứng ở tổ này giờ có lẽ đã thành chim con cả rồi. Cô áng chừng chúng đã nở hết trong hôm qua.”

Ursa nhảy ra khỏi xe và đọc nội dung được ghi trên lá cờ được cột ở cây sung dâu còn non. “Tổ chim sẻ đất màu chàm cách bảy mét về hướng Đông Bắc và cách mặt đất một mét.”

“Giỏi quá. Vậy giờ cô cháu mình tìm hướng Đông Bắc bằng la bàn của cô nhé.” Jo chỉ cho con bé cách dùng la bàn và dẫn cô bé đi đúng hướng. Khi Ursa tiến đến gần tổ chim, chim bố và chim mẹ bắt đầu hót vang cảnh báo. “Con có nghe thấy những tiếng chiêm chiếp rất to và hốt hoảng kia không? Những chú chim sẻ đất màu chàm sẽ kêu như vậy mỗi khi con tiến quá gần đến tổ của chúng.” Con chim trống kích động đậu trên ngọn cây, lớp lông vũ màu ngọc bích ánh lên dưới vầng tà dương vừa ló dạng khi mây đen tản đi. “Con chim trống đậu ngay phía trước con kìa. Con nhìn thấy không?”

“Con thấy rồi, con chim đó màu xanh!” Ursa reo lên. “Nó mang mọi sắc xanh luôn kìa cô!”

Sự hào hứng của con bé dâng cao và vô cùng chân thật. Nếu nó sống trên con đường đằng kia hoặc bất cứ con đường nào gần đây, chắc chắn đã từng nhìn thấy loài chim này. Chim sẻ đất là giống chim rất phổ biến ở các vệ đường phía Nam Illinois.

“Con thấy tổ chim rồi!” Ursa nói. “Con nhìn vào trong có được không ạ?”

“Con nhìn đi.”

Ursa rẽ đám cây cỏ cao ngang bụng sang hai bên và nhìn vào tổ chim. “Ôi trời ơi!” Con bé kinh ngạc kêu lên. “Ôi trời đất ơi!”

“Trứng nở rồi đúng không?”

“Dạ phải! Con chim non màu hồng, bé tí xíu! Chúng há mỏ nhìn con kìa cô!”

“Chúng đói đấy. Hôm nay trời mưa nên chim bố chim mẹ không tìm được nhiều côn trùng cho chúng.” Jo quan sát bốn con chim sẻ đất vừa nở. “Cô cháu mình nên đi thôi. Con có nghe thấy tiếng chim bố chim mẹ đang kêu thất thanh thế nào không?”

Ursa không thể rời mắt khỏi lũ chim non. “Đây quả là một điều kỳ diệu! Đây rồi, điều kỳ diệu thứ nhất!”

“Con chưa bao giờ thấy chim non trong tổ à?”

“Làm sao con thấy được chứ? Con đến từ một hành tinh không có chim non và tổ chim mà.”

“Mình nên đi thôi,” Jo nói. “Chim bố và chim mẹ phải cho chúng ăn trong lúc trời còn sáng.”

Khi cả hai đã quay trở lại xe, Jo hỏi Ursa, “Đó thật sự là chú chim sẻ đất màu chàm đầu tiên con thấy à?”

“Vâng ạ. Tính đến lúc này, đó là con chim đẹp nhất con từng thấy trên Địa Cầu.”

Jo và Ursa tiếp tục kiểm tra tổ chim kế tiếp, có bốn quả trứng bên trong. Sau đó là tổ chim Vireo mắt trắng. Vireo không phải loài chim mục tiêu của cô, nhưng tìm được tổ nào cô cũng tranh thủ lấy dữ liệu. Trong tổ có ba con chim Vireo chưa đủ lông đủ cánh và một con chim chìa vôi chưa cứng cáp. Trên đường quay lại chỗ đậu xe, Jo chỉ cho Ursa loài chim chìa vôi đầu nâu và kể cho cô bé nghe cách chúng gửi trứng của mình vào tổ của những loài chim khác để nhờ chim “chủ nhà” này nuôi con của mình.

“Sao chim chìa vôi không muốn chăm sóc con của mình ạ?” Ursa hỏi.

“Bởi vì bằng cách này, chúng có thể cho ra đời nhiều chim non hơn, vì các loài chim ‘chủ nhà’ đã thay nó thực hiện công việc nuôi nấng chim non rồi. Trong tự nhiên, kẻ chiến thắng là kẻ tạo ra thế hệ sau nhiều nhất.”

“Vậy chim Vireo có bực mình khi phải nuôi con của chim chìa vôi không ạ?”

“Chúng không biết mình đang nuôi con của chim chìa vôi. Chúng bị lừa làm việc này. Và thường thì chim non của chim ‘chủ nhà’ sẽ không có đủ thức ăn do chìa vôi non to hơn, lớn nhanh hơn và hót vang hơn khi đòi đồ ăn. Thậm chí, nhiều lúc những con chim non của chim ‘chủ nhà’ còn chết nữa.”

“Thế những con chim Vireo này có chết không ạ?”

“Cô thấy vẫn ổn. Bố mẹ chúng đang làm rất tốt để mấy con chim non đều đủ ăn.”

Ursa chần chừ mãi không chịu lên xe mà nhìn thật chăm chú vào cái tổ chim cuối cùng. Con bé dừng lại ngắm hoa, hỏi Jo về một con bọ cánh cứng, lại còn giả vờ tỏ ra hứng thú với viên đá mà nó tìm thấy trong đám cỏ dại. Ursa cứ nghịch tới nghịch lui hòn đá trong tay suốt quãng đường dẫn đến tổ chim cuối cùng, có một đoạn chạy ngang qua đường nhà Anh Bán Trứng. Hai cô cháu rời khỏi xe, nhưng trước khi Ursa có thời gian đọc thông tin trên dải băng quan trắc thì một chiếc xe Suburban màu trắng mang biển hiệu trường đại học chạy qua khúc quanh. Giáo sư Shaw Daniels với mái tóc bạc trắng ngồi sau tay lái vẫy tay chào Jo. Ông dừng xe ngay phía sau xe của cô và nhoài thân hình lêu nghêu của mình ra khỏi cửa. “Trễ thế này mà em vẫn làm việc à?”

“Cũng chưa trễ lắm ạ,” Jo đáp. “Mới sáu giờ thôi mà thầy. Em cứ tưởng gần tám giờ thầy mới tới?”

“Mục cuối bị hủy bỏ vì ngộ độc thực phẩm.”

“Thầy không phải đang đùa đấy chứ?”

Ông lắc đầu. “Có người ăn gì đó ở quầy lễ tân đêm hôm trước và bị ngộ độc.”

Qua cánh cửa bên phía người lái đang để mở, Jo nhìn thấy Tanner đang ngồi ở phía sau cùng với Carly Aquino. Ánh nhìn của gã đầy tội lỗi, dù đã cố gắng nặn ra nụ cười gượng gạo để che giấu cảm xúc ấy. Lúc trước, cô đã thích gã vì cái gì ngoài khuôn mặt bảnh bao nhỉ? Cô quay mặt nhìn qua Leah Fisher đang ngồi ở ghế hành khách phía trên. “Có ai bị đau bụng không?”

“Cả đám bọn anh đều ổn,” Leah đáp.

“May mà thầy và mấy đứa không nán lại quầy tiếp tân lâu,” thầy Shaw trả lời, “vì chúng ta phải đi ăn tối với thầy John Townsend và hai nghiên cứu sinh của thầy ấy.” Ông cứ nhìn chằm chằm vào Ursa. “Và cô bé này là ai đây?”

“Đây là Ursa, sống ở gần đây. Em đang chỉ con bé cách em kiểm tra tổ chim.”

“Rất vui được gặp con, Ursa,” ông nói. “Thầy tên là Shaw. Con đang cầm gì trong tay thế?”

“Một viên đá có tinh thể màu hồng bên trong ạ,” Ursa đáp.

“Tuyệt đấy,” thầy Shaw nói, hướng ánh nhìn xuống đôi dép quá khổ so với bàn chân con bé.

“Con bé đi chân đất,” Jo giải thích. “Nên em cho nó mượn dép của mình để không bị đau chân. Mọi người đói chưa?”

“Đói lắm rồi,” thầy Shaw lên tiếng. “Thầy và mấy đứa chỉ được ăn chút khoai tây chiên cho bữa trưa ở trên xe.”

“Vậy mọi người cứ lên nhà uống chút bia, trong lúc em đi kiểm tra tổ chim cuối cùng nhé.”

“Anh nghe thấy từ bia thì phải?” Tanner hỏi với ra từ trong xe.

“Đúng rồi,” Jo đáp. “Rất nhiều là đằng khác. Cửa dẫn vào nhà không khóa đâu.”

Đợi đến khi thầy Shaw đánh xe đi, Jo mới đi bộ về phía tổ chim sẻ đất cuối cùng, những lo lắng về Ursa tạm thời biến mất trước thái độ tội lỗi khá rõ ràng của Tanner. Thể nào cả hai cũng sẽ phải nói với nhau những lời sống sượng hết sức, mà chưa kể, với một người có lá gan chuột nhắt như Tanner, anh ta chắc chắn sẽ tìm cách tránh né tình hình căng thẳng này càng lâu càng tốt.

Những tiếng sủa đinh tai nhức óc vang lên dưới con đường. Jo chưa bao giờ thấy con chó nhỏ sủa như thế, nhưng còn ai vào đây nữa. “Chết thật, khéo con chó tấn công họ mất,” cô lo ngại.

“Gấu Nhỏ sẽ không cắn họ đâu,” Ursa trấn an cô.

“Sao con biết được? Nó đang bảo vệ Nhà Kinney như thể nó sống ở đó. Biết vậy cô đã không cho con để nó lên hiên rồi.”

“Con sẽ dạy nó không sủa.”

“Con sẽ đem nó ra khỏi khu đất ấy… khi con rời đi.”

Tiếng sủa vẫn không dừng lại. Jo hối hả tiến về phía tổ chim cuối cùng.

“Thầy Shaw là một người tốt,” Ursa nhận xét khi đi theo phía sau cô.

“Thầy ấy rất tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là thầy ấy sẽ không bảo con về nhà.”

“Nhưng con không có nhà ở đây!”

Jo ngừng bước, mặt đối mặt với con bé. “Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện nói với thầy ấy rằng con đến từ hành tinh khác. Cũng không được nói với bất cứ ai điều đó. Con hiểu chưa?”