- 2 -
Cây cầu ván cách nhà Nhu không xa lắm! Mỗi ngày đi dạy cô đều phải dắt xe đạp qua cầu vì sợ những chỗ khuyết sẽ giữ chặt hai cái bánh xe.
Nó đã gần trăm tuổi đời, già hơn bất cứ ông già, bà cả nào trong xóm. Mấy miếng ván lót cầu cứ thưa dần đi, chúng được thay bằng những thân cây, khúc gỗ có mặt trong các khu vườn gần đó.
Tuy vô tri, vô giác nhưng hôm nay hình như cái hồn cỏ cây của những tấm ván đã long đinh, của những cây cột được chấp đi, nối lại ấy đã thăng hoa lên mấy bậc, chui vào lòng Nhu để ghi nhớ và sụt sùi với những lời trăn trối âm thầm, não nuột của cô.
Những giọt nước mắt âm ấm của Nhu liên tục rơi đều lên nó. Mấy tiếng lộp độp nhỏ xíu xen lẫn tiếng nức nở đều đều và nấc lên từng chập ấy, khiến bầu trời cũng tái tê và đen thẫm lại.
Còn có lời từ biệt nào buồn hơn?
Nhu khóc vì biết ba má mình sẽ đau đến xé lòng khi mất đứa con duy nhất. Càng đau đớn hơn khi biết cô hư đốn, nông nổi, dại khờ đến mức nầy.
Má cô, người vốn yêu thích lời khen, sẽ không còn muốn gặp gỡ mọi người. Bà sẽ ở miết trong nhà, trong đồng để tránh những lời an ủi, cho dù xuất phát từ những tấm lòng chân thật, chúng vẫn làm lòng tự ái của bà thương tổn. Cái niềm vui được làm người quan trọng nhất trong các buổi tiệc linh đình trong xóm sẽ không còn nữa. Cuộc sống của bà sẽ mất đi sinh khí, chết dần trong nỗi đau buồn, tủi nhục.
Ba của Nhu còn thê thảm gấp đôi. Không còn người để tiếp nhận tia nhìn âu yếm của ông, để nghe tiếng gọi "con gái" đầy thương yêu của ông mà rưng rưng xúc động.
Không còn người để ngồi nghe ông kể một cách say sưa về các nỗi khó khăn, nhọc nhằn của ông cố, ông sơ mình. Những người đầu tiên theo chúa Nguyễn vào Nam mở mang bờ cõi.
Không còn người nhổ cho ông mấy sợi tóc ngứa trên đỉnh đầu để bày tỏ lòng hiếu thuận, cho dù ông không mượn, mà có khi còn tiếc đứt ruột mấy sợi tóc hiếm hoi đó.
Không còn người rủ đi câu cá để rồi nhờ ông tóm giùm cái lưỡi câu, gỡ giùm con cá trê, cá rô có cái ngạnh, cái kỳ bén ngót...Hay lặn xuống nước để gỡ giùm cái lưỡi câu bị mắc gốc.
Không còn người để nhờ ông thay giùm cái ruột xe đã vá hơn chục chỗ, thâu lại sợi dây sên dài thòng cứ sút lên, sút xuống. Xiết lại cái bàn đạp cho khỏi bị trật con chó, khiến cho dù đạp như điên mà chiếc xe vẫn cứ bất di, bất dịch, đứng im ru hoài một chỗ.
Cái tình cảm ngọt ngào như nước mía tràn ngập trong ông sẽ không được sử dụng, không có chỗ thoát, lập tức lên men, biến thành chất chua gậm mòn lục phủ, ngủ tạng. Tóc ông sẽ bạc trắng rồi rụng từng nắm mỗi ngày. Mâm cơm không còn món gà xé phai trộn gỏi bởi ông không còn cầm cái cù lẳng lên mà cắn một cái "rốp", để khoe hai hàm răng chắc khỏe của mình được nữa.
Còn Thụ, chàng sẽ cho là Nhu hư hỏng, ngu si... chẳng hề cảm thấy có trách nhiệm với cái chết của cô, chẳng nhỏ một giọt nước mắt cảm thương mà chỉ lắc đầu ngao ngán.
Những người bạn thân nhất của Nhu: Tím, Lựu, Mận...sẽ vừa khóc vừa nhắc những kỷ niệm họ có với nhau rồi kết luận bằng những lời trách móc, chê bai: "Cái con nhỏ đó "lãng mạn" cho dữ vô, khuyên hoài không được nên mới ra nông nổi nầy".
Mấy đứa học trò nhỏ bé của Nhu, chúng sẽ hoang mang, tức tối biết bao khi nghe những lời bàn tán không tốt về cái chết của cô giáo, người được chúng xem như thần tượng.
Càng nghĩ nước mắt Nhu càng tuôn xối xả. Nó làm mờ nhạt thêm hình dạng của mấy cái bè đen đen đang trôi vùn vụt qua cầu. Nhu xót xa cầu xin hà bá, bà thủy phò hộ cho thân xác cô được những đám lục bình to lớn, xanh tốt và mang đầy hoa tím như thế nầy che lấp cho đến khi tan rả hoàn toàn trong nước.
Nhu bỗng rùng mình khi nhớ lại cái lần chạy theo mấy đứa bạn trong xóm đi coi chồng chổng chết trôi lúc nhỏ. Cái thi thể lõa lồ, trương phồng, thúi ình ấy khiến Nhu kinh sợ khiếp vía nên chỉ ngó một cái là bỏ chạy mất mạng. Tưởng tượng mai mốt mình cũng y hệt như vậy khiến Nhu hết sức tủi hổ.
Nhu nấc lên khi nghĩ ba má của của cô sẽ đau đớn, nhục nhả biết bao, khi phải nhìn, phải chôn cất, phải nhớ đến cái hình ảnh sau cùng của đứa con mà mình bồng bế, tưng tiu trong tình trạng đó!
Không phải niềm ham sống, mà tánh mắc cỡ đã khiến Nhu chùn bước. Nhu nghĩ đến cả trăm, cả ngàn cách chết rồi nhận ra cách nào cũng xấu xí, tràn đầy khuyết điểm.
Vậy thì phải sống, mà sống kiểu nào đây?
"Giá như có một ông tiên xuất hiện, nhổ một sợi râu rồi hô biến thành một người đàn ông để đi cưới mình thì hay biết mấy!" Nhu nghĩ thầm.
Ý tưởng phi thực tế ấy khiến cô ao ước một tình cảnh khả thi hơn. Ngay lúc nầy nếu có một người con trai, trong số cả chục người tán tỉnh Nhu từ trước đến giờ tới cầu hôn, cô sẽ ưng ngay lập tức, cho dù y xấu như quỷ. Kể cả cái tên Phục sát bên nhà, vốn bị cô khinh ghét bởi cái tánh ba mươi lăm của hắn.
Thím Chín có bịnh tiểu đêm nên ít khi ngủ một lèo đến sáng bét. Tối nay cũng thế, quá nửa đêm thím thức giấc để giải quyết cái nhu cầu cấp bách đó.
Xách theo cây đèn pin, thím ra nhà sau để mở cái cửa hông hướng ra sân. Chới với nhận ra nó đang mở tan hoang, cánh cửa lá sách bằng cây thao lao đánh đu theo gió, làm thím hết hồn!
Thím nghiến răng nhiếc thầm con gái:
-Đồ cái thứ tâm hơ, tâm hất. Tối nào cũng căn dặn mà cứ quên đóng cửa.
Tánh vốn nóng nên thím không thèm bước tiếp ra sân mà vén tấm màn vải bông che cái căn buồng thoáng mát nhất nhà, nơi ngủ nghỉ của cô con gái.
Thím rọi đèn pin vào mùng cho tia sáng chui vào mắt Nhu, mục đích khiến cô chói mắt phải tỉnh giấc, dỏng hai lỗ tai lên mà nghe thím chửi.
Cái mùng trống không, chiếc mền con rồng màu đỏ chưa bị bung ra đắp, còn nằm yên trên đầu chiếu. Cái gối gòn được bọc sa ten dún bèo nằm thẳng thớm bên cạnh.
Thím Chín giựt mình một cái đụi, linh tính có chuyện tày trời sắp xảy ra. Như có thần linh mách bảo, thím chạy u về hướng cây cầu sắt.
Tay chân thím rung bây bẩy đến độ cây đèn pin đang cầm trên tay rớt ra, tắt ngấm. Thím không dám dừng lại để tìm và nhặt lên mà cấm đầu chạy miết...
Một cái bóng đen thui ngồi thu lu, tiếng khóc rất nhỏ bị tiếng nước chảy xiết che lấp đến chín chục phần trăm nên khi đến thật gần thím mới nghe ra.
Ngồi giữa cầu, Nhu cứ nức nở khan. Con nước mùa lũ réo ầm ầm dưới dạ cầu khiến cô chẳng thể nghe được tiếng chân chạy sầm sập đang tiến về phía mình, cho đến khi bị một thân hình nặng nề té sấp, đè lên lưng.
Thím Chín ôm chầm lấy con rồi vừa rung, vừa nói một cách đứt quãng:
-Đừng làm chuyện dại dột con ơi... Không có con... ba má làm sao mà sống nổi?
Nhu hết hồn quay lại. Trong bóng tối cô vẫn cảm nhận được đôi mắt thống khổ của má đang nhìn mình một cách van nài, với gương mặt buồn lo tột độ. Tiếng "con" hiếm hoi từ miệng bà thoát ra khiến Nhu xúc động nên nước mắt lại dâng trào lai láng.
Thím Chín cầm tay con, kéo Nhu đứng lên rồi nói:
-Về nhà đi con, đừng để bà con chòm xóm thấy rồi họ dị nghị. Con đừng lo, còn có má đây nè!
Gửi thư cho Nhu xong, tối hôm ấy Thụ liền trải qua một cơn ác mộng. Chàng mơ thấy mình chạy và vấp ngã túi bụi trên những luống đất cày cứng như đá tảng. Không nghe tiếng chân đuổi theo nhưng cái bóng đen thui phía sau cứ lớn dần lên rồi trùm khắp người chàng. Sức mạnh tối tăm ấy càng lúc càng đè nặng trĩu trên lưng hơn khiến chàng không thở nổi.
Thụ cố cắm đầu chạy miết cho đến khi va vào một khối mềm mềm treo lửng lơ trước mặt. Ngay lập tức chàng phát hiện, đó là thi thể của một cô gái đã treo cổ tự vận trên cái nhánh to và thấp nhất của cây ô môi trước cái miễu quen thuộc gần gò mả. Mái tóc rất đen và dài lê thê ấy bao phủ kín mít gương mặt lẫn thân hình của cô gái. Chúng đang quét qua, quét lại trên cái nền đất đầy những đóa hoa héo queo, mỏng tang như xác mấy con bướm nhỏ xíu mới nở một, hai ngày.
Cho dù không thấy mặt nhưng linh tính cho Thụ biết, rằng đó chính là Nhu. Chàng thét lên một tiếng rất to rồi ngồi phắt dậy, mồ hôi rịn khắp người.
Thoạt đầu là nỗi hoảng kinh, tiếp theo đó là niềm thương cảm và lo sợ làm Thụ điếng hồn. Chàng chợt nhận ra rằng tình trạng bi đát mà Nhu đang gánh chịu, có thể thúc đẩy cô phải chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Dù không phải là người trực tiếp gây ra hậu quả, Thụ vẫn cảm thấy mình có tội vì cho rằng, nguyên nhân sâu xa chính là mối tình cuồng nhiệt mà Nhu dành cho chàng.
Thụ ước chi mình đừng đi vội, có mặt ở nhà rồi cưới Nhu để tránh nỗi nhục mà gia đình nàng sắp gánh chịu. Ở hoàn cảnh của chàng điều đó chẳng thể nào thực hiện. Những người chấp nhận bỏ xứ, đều biết rằng họ phải đánh cuộc với sự rủi may bằng cả sinh mạng của mình. Ra đi là phải chấp nhận nguy hiểm đến vậy mà quay về còn gay go gấp trăm ngàn lần.
"Biết nhờ ai thay mình để cứu Nhu bây giờ?" Thụ căng đầu suy nghĩ.
Thoạt đầu chàng nghĩ ngay đến Căn, anh ruột của mình, thế nhưng con tim chàng lập tức phản đối, bởi điều đó sẽ bẻ gảy lìa cây cầu giữa Thụ và Nhu vĩnh viễn.
Thụ bỗng buột miệng, thốt ra một cái tên:
-Nghệ!
Trong khi ý thức bế tắc thì tiềm thức của Thụ đang hoạt động ráo riết. Nó lập tức đưa ra một giải pháp, một người có thể thay chàng giải quyết êm xuôi mọi việc.
Thụ biết chắc rằng Nghệ, người bạn học cùng trường, khác xóm, tính tình hiền rụi... Người đã một lần liều mình cứu chàng ra khỏi tay hà bá, sẽ giúp chàng thêm một lần nữa.
Thụ lật đật lấy giấy bút, hăm hở viết liền một lá thơ cho Nghệ rồi gửi đi ngay sáng đó.
Cả xóm cầu Ván đều ngỡ ngàng khi được chú thím Chín mời dự đám cưới của cô con gái cưng.
Ai mà không biết thím Chín là người nệ cổ, coi trọng nghi thức, khó tánh số một. Thím hay bắt chặt bắt lỏng tất tần tật từ cử chỉ, tướng đứng, tướng đi cho tới lời ăn tiếng nói của những người lân cận.
Mấy người láng giềng, bà con bằng tuổi, cho đến cái lớp trẻ ăn chưa no, lo chưa tới, kể cả mấy đứa con nít, không hiểu sao đều e sợ thím.
Thím đã nhiều lần tuyên bố là sẽ làm một cái đám cưới hết sức tươm tất cho con gái. Sẽ nấu như thế nầy, đãi như thế kia... để bà con trông vào đó mà học hỏi.
Cho dù hai vợ chồng chú thím Chín có luôn miệng giải thích là "cái tuổi của hai đứa nó kỵ dữ lắm, bắt buộc phải làm đúng ngày đó, tháng đó mới tránh được", nhưng chẳng thuyết phục được mọi người. Ai ai cũng nghi ngờ mà không dám nói ra. Họ sợ làm mích lòng thím rồi sau nầy khó mở miệng nhờ cậy, bởi nhà nào cũng có đôi ba lễ giỗ một năm, cả chục cái lễ cưới, lễ hỏi một đời.
Cái mơ ước thực hiện một lễ cưới hoành tráng cho con gái của thím Chín đành phải bãi bỏ. Thím tự an ủi rằng để bù lại ông trời đã cho mình một thằng rễ hiền khô, tốt và đẹp trai nhứt làng.
Thím mừng là Nghệ mồ côi cả cha lẫn mẹ nên chẳng bị hạch họe lôi thôi. Nghệ ở với ông bà ngoại lúc mới lên bảy. Mấy tháng trước bà cả Mỹ, người thân duy nhất còn lại của Nghệ đã qua đời. Cho dù hết sức thương nhớ bà ngoại của mình, chàng cũng lật đật xã tang để làm đám cưới. Điều nầy ít ai dám vì sợ bị chê là bất hiếu.
Chẳng những bỏ qua cái lễ hỏi, thím Chín còn hạn chế số khách mời trong lễ cưới đến mức tối đa. Thím chỉ mời những người hiền như bột, cho dù trước đây ít lui tới chuyện trò. Mấy người miệng mồm có nanh có nọc, tuy ngày thường qua lại thân thiết, thím cũng thẳng tay gạt ra khỏi danh sách. Để bù vào cái chỗ kém đông vui, thím tăng gấp đôi chất lượng của các món ăn.
Thím đặt toàn tâm, toàn trí, toàn lực vô việc nấu nướng nên gặt hái thành công vượt bực, hơn cả sự mong đợi của chính mình. Đặc biệt thím thẳng tay gạt bỏ món thịt kho tàu, cái món mà từ trước đến giờ vẫn được xem như cái thước đo mức độ khéo tay của các vị đầu bếp, nên bất cứ cái đám hỏi, đám cưới nào cũng có.
Thím còn đưa vào những món chưa được phổ biến như gà nấu bia, cá rút xương, tôm nấu cà ri... Dù lạ miệng nhưng ngon một cách đặc biệt, đến độ mấy năm sau nầy, buổi tiệc ấy vẫn còn được những người có may mắn thưởng thức luôn miệng nhắc nhở, khiến những người không được dự phải bực mình.
Điều mà cả chú lẫn thím vui nhất, là con gái của họ chẳng phải làm dâu cho ai hết! Tha hồ tung hoành một mình một cõi, tuy rằng của cải nhà đó chỉ còn lại cái vỏ và chàng rễ thì tính tình có phần lù đù, kém tháo vát, làm thơ giỏi hơn làm ruộng.
Chưa đến tám tháng sau ngày cưới Nhu đã đập bầu sinh hạ một bé trai. Bà con lại xầm xì. Họ xòe cả hai bàn tay ra để đếm từng đốt, tính ngày tính tháng rồi nói nầy, nói nọ.
Thím Chín tỉnh bơ. Thím làm đầy tháng cho cháu ngoại hết sức lớn. Lần nầy thím mời khắp xóm không sót một người. Giữa buổi tiệc thím nói oang oang:
-Cái thằng nhỏ nầy sanh thiếu tháng. Lọt lòng có hai ký mấy, mà nhờ má nó tốt sữa nên mới lớn như thổi bong bóng, y như trái bầu, trái bí!
Mọi người biết ý nên thi nhau trầm trồ, khen nào là đứa bé giống cha như tạc, mặt mày sáng láng sau nầy chắc làm giáo sư, bác sĩ...
Thím Chín cười toe nói:
-Tui có nhờ ông sư chùa lá coi tử vi cho nó rồi. Ổng nói nó có cái sao gì đó chiếu mạng nên có tay phục dược.
Cô Bảy hỏi nhỏ mợ Hai Thọ:
-Phục dược là sao hả chị?
Mợ Hai trả lời bằng một giọng hết sức hãnh diện, y như thằng bé là cháu nội của mình:
-Là làm nghề thuốc, nghề bác sĩ chữa bịnh đó!
Cô Bảy chắc lưỡi:
-Thời buổi bây giờ hổng hiểu sao mà càng ngày càng có nhiều thứ bịnh lạ. Mấy người bán thuốc, chích thuốc đếm tiền thiếu điều bể tay luôn!
Mợ Hai Thọ cười:
-Bởi vậy mấy đứa nhỏ trong xóm mình, có đứa mới học tới lớp một thôi! Vậy mà có ai hỏi lớn lên thích làm nghề gì, tụi nó đều trả lời là làm bác sĩ.
Cái đám đầy tháng đó giúp thím Chín bội thu. Trong xóm nầy ai mà chẳng mang ơn của thím. Những món quà tặng đều là dây chuyền, lắc tay, cà rá làm bằng vàng mười tám. Chúng được dát mỏng te, cầm lên nghe nhẹ hễu, nhẹ hều. Chưa đeo đã muốn méo!
Mợ Hai Thọ chơi đẹp nhứt, tặng một chiếc lắc tay nặng đúng một chỉ. Thím Chín cầm chiếc lắc tay lên ngắm nghía, vừa vui lại vừa buồn.
Thím nói lầm bầm trong miệng:
-Con mẹ nầy tinh ý lắm! Chắc bả đã đoán ra...
Thím Chín lấy chiếc khăn tay đã cũ, có thêu mấy cái bông mai và rô đê bốn cạnh của con gái làm cho mình từ lâu, để bọc tất cả các món trang kim ấy lại.
Thím đem vô buồng Nhu, đưa cho cô rồi bảo:
-Mấy món bà con cho thằng nhỏ nè! Con giữ để có bồng em đi đám thì lấy ra đeo cho nó.
Nhu xòe rộng bàn tay định nhận thì bị Nghệ chặn lại:
-Những thứ nầy là của má. Má tặng cho con cháu họ nên bây giờ họ tặng lại. Má giữ thì đúng hơn, để mai mốt có ai mời thôi nôi, đầy tháng thì lấy ra cho, khỏi mắc công đi mua.
Nhu vội rụt tay lại, nói:
-Ảnh nói đúng đó má. Má giữ hết đi rồi đi trả lại từ từ giùm tụi con.
Thím Chín thầm khen thằng con rể biết điều, cư xử rất hợp tình hợp lý. Ba cái thứ nầy đâu có đáng giá gì so với công sức, tiền của, thím bỏ ra lo cho con gái và cháu ngoại, thế nhưng vẫn làm thím vui lòng, hả dạ.
Thím đem chuyện đó kể cho chồng. Chú Chín nói một cách cảm động:
-Trong cái rủi có cái may. Nhờ thằng Thụ vượt biên mà tui với bà mới có được một thằng rể tốt. Tui thấy nó săn sóc con Nhu với thương thằng nhỏ mà mừng tới rớt nước mắt. Vợ con người ta mà mình nhảy vô chịu cực, chịu khổ, còn lo lắng hết lòng như vậy thì dưới gầm trời nầy ít có ai được như nó.
Thím Chín trợn mắt nhìn chồng, định mở miệng phản đối thì bị chú chặn lại:
-Bộ bà thấy tui làm thinh rồi tưởng tui hổng biết cái gì hết hay sao? Bà coi cái tánh của nó có phải là đứa dám làm chuyện động trời với con gái người ta hông? Còn nữa! Thằng nhỏ cháu ngoại của mình đó! Nó có hai lỗ tai giảo y chang thằng cha Hai Thọ, còn con mắt một mí là của bà nội nó chớ ai?
Thím Chín làm thinh không dám phản đối.
Chú Chín nói tiếp:
-Hôm đầy tháng thấy bả nhìn thằng cháu của mình mà hai con mắt rưng rưng, tui thấy tội nghiệp quá! Cũng may là thằng Thụ nó đi trót lọt và an toàn tính mạng, chớ nếu không bả chưa chắc chịu để mình nuôi thằng nhỏ đâu. Dám quậy thúi rùm lên. Lúc đó tui, bà với con Nhu đi ra đường chắc phải lấy mo cau che mặt.
Thím Chín khoe để an ủi chồng:
-Bả cho thằng nhỏ tấm lắc vàng y đúng một chỉ đó ông!
Chú Chín nạt:
-Vậy rồi bà mừng lắm hả? Hổng có thằng Nghệ ra tay nghĩa hiệp, chưa chắc con gái bà còn sống tới giờ nầy. Ở đó mà hớn ha, hớn hở.
Thím Chín ngồi ngậm nghe mà phục chồng sát đất, thím nghĩ thầm:
-Cha nội nầy biết ráo mà cái mặt tỉnh bơ, im ru không nói tiếng nào, thiệt là "chì" hết chỗ nói. Chuyện thằng Nghệ đứng ra đổ vỏ ốc dám do ổng sắp đặt hổng chừng!
Thím tự mắc cỡ là bấy lâu nay đã xem thường ông. Để tưởng thưởng chồng, thím nói:
-Có cây chuối hột non bị con heo ủi gãy. Tui tính đi chợ mua một con lươn trọng trọng với miếng thịt ba rọi, moi gáo mắm sặc lên kho cho ông một nồi.
Chú Chín can:
-Thôi đừng có kho mắm bây giờ, coi chừng con Nhu nghe mùi, thèm không chịu nổi, ăn vụn rồi chột bụng đó bà. Để từ từ cho nó qua cái giai đoạn kiêng cữ nầy cái đã.
Thím Chín lại khâm phục chồng thêm một chút. Thím hãnh diện ngầm trong lòng bởi nhà thím có đến hai người đờn ông rất hiểu biết, thấy xa trông rộng.
Thím xách cái mác ra vườn, chặt cây chuối non bị gãy rồi xắt mỏng trộn ghém. Nồi xà bần hôm đầy tháng còn một ít, thím lấy một cây cải chua ngâm trong khạp ra, cho vào nấu chung để ăn cho đỡ ngán. Nhờ món chuối cây trộn rau thơm, rau răm, húng rủi chấm vào khiến nó trở nên hấp dẫn. Thím không cần nài nỉ cũng được chồng và con rể ủng hộ hết mình, vét sạch cả nước lẫn cái!
Mâm cơm nhà má vợ luôn tạo cho Nghệ một sự ngạc nhiên thích thú. Cho dù chỉ với một dĩa rau lang luộc chấm chén tương kho xả cũng khiến chàng ăn đến no cành hông! Nghệ thích nhứt là được ăn ké cơm bà đẻ của vợ. Mấy con cá rô kho tương, cá trê kho gừng, cá trạch kho nghệ, cá sặc kho xả, cá lóc kho tiêu...trong cái trách đất bóng lưỡng, bị ám khói đến đen thui từ ngoài lẫn trong ấy luôn kích thích, rù quến cái dạ dày nông nổi của chàng.
Nhu biết vậy nên dù ngon miệng cách mấy cũng nhín lại một ít cho chồng. Nhìn Nghệ cạo hết cơm cháy, vét sạch mấy hột cơm dính hông nồi, cho vào mẻ cá kho mà trộn cho đều để tận dụng chút nước sền sệt bám sát đáy, cầm muỗng xúc ăn một cách ngon lành, khiến Nhu thấy lòng ngập tràn hạnh phúc!
Thím Chín thì khỏi nói. Có người làm bếp nào không khoái mê tơi khi thấy mấy món mình nấu được vét sạch bách? Đối với thím, đó chính là những lời khen ngợi chân thành nhất.
Được ngưỡng mộ quá nhiệt tình nên thím "sáng tác" không biết mệt. Tối nào cũng vậy, vừa đặt lưng xuống giường, trước khi ngủ là thím nghĩ ngay đến việc ngày mai phải nấu thứ gì.
Suốt một tháng ăn cơm nhà vợ, Nghệ đâm ra ghiền mấy món mà trước kia chàng không thèm đụng đũa và phục lăn tài chế biến thức ăn của bà má vợ.
Ngày xưa khi chuông reng kết thúc buổi dạy, nghĩ đến việc phải vo gạo nấu cơm rồi thả luôn một hoặc hai cái trứng gà, trứng vịt vô luộc để làm cái món trứng giầm nước mắm - món ăn truyền thống của những anh chàng độc thân- là chàng ngao ngán.
Trên đường từ trường về nhà, Nghệ thường đi ngang qua mấy mâm cơm được đặt trên những cái chõng trước hiên nhà, gần sát bên đường. Nhìn cảnh gia đình thiên hạ quây quần quanh mâm cơm. Ngửi mấy mùi thức ăn: cá kho, canh chua, mắm chưng... thơm lừng, luôn khiến Nghệ chạnh lòng. Đôi khi cái mối xúc động đó phóng ra một làn sóng mạnh đến nổi gia chủ cảm nhận được. Họ bèn dừng đũa nhao nhao mời "Thầy giáo ghé ăn ba hột cơm với tụi tui lấy thảo". Nghệ phải kềm chế lắm để giữ cho cái đầu không gật xuống, nuốt nước miếng mà trả lời một cách điềm nhiên:
-Cám ơn, tui...
Bây giờ thì khác hẳn. Chuông chưa dứt, chàng đã thót lên xe, đạp phăng phăng, chẳng để ý tới mấy cái nón được lột nhanh, chẳng đáp lại những cái đầu gật vội của học trò như trước.
Thím Chín biết vậy nên chẳng khi nào để con rể phải chờ lâu. Cái mâm nhôm đã được thím lau thật sạch và bày đủ chén, đũa, muỗng lên đó. Dĩa rau, dưa được đặt cạnh chén nước mắm. Tô nước cơm được cái vung đất úp lên để giữ nóng. Tất cả đều trong trạng thái sẵn sàng ứng chiến.
Nghe tiếng xe thắng cái két là thím Chín liền mở nắp vung của cái nồi còn ngồi trên lò, múc một tô canh đặt vào giữa mâm. Lấy cái sạn xúc con cá chiên vàng rượm, đang nằm cong đầu, cong đuôi trong cái chảo sắt, để lên cái dĩa kiểu rồi rưới lên mấy muỗng nước mắm chanh, đường, tỏi, ớt để cạnh một bên.
Chú Chín và Nghệ không chờ thím gọi. Họ đã xếp bằng hẳn hoi, ngồi đối diện nhau trên tấm giạt tre dưới gốc cây xoài Thanh Ca rợp bóng.
Chú Chín cầm trên tay hai trái ớt một xanh, một đỏ, đã được rửa -nếu siêng- hoặc chùi vào vạt áo- điều nầy thường hơn- mới ngắt từ cây ớt hiểm gần đó!
Thím Chín vừa đặt mâm xuống là hai người bọn họ bưng liền một chén cơm, gát đôi đũa ngang miệng chén rồi đưa ngang trán khấn mời ông bà khuất mặt.
Chú Chín nghe mùi thức ăn từ bếp bay ra tự nãy giờ nên bụng đã cồn cào dữ dội. Có khi chú cầm lòng không đậu, lùa một đũa rồi mới nghe chàng rể mời ăn cơm nên mắc cỡ quá mạng!