- 3 -
Không chỉ riêng mình hai vợ chồng chú Chín đinh ninh thằng nhỏ là con Thụ, máu mủ của giòng họ nhà Hai Thọ. Hầu như tất cả bà con lối xóm đều âm thầm công nhận điều ấy. Chỉ riêng một người, mà không, phải hai mới đúng, tin chắc một trăm phần trăm là trật.
Mỗi lần nghe ba má nói xa, nói gần về chuyện đó Nhu đều cảm nhận một nỗi đắng cay bào bọt trong lòng. Nhu cảm thấy mình có lỗi với hết thảy bà con lối xóm, nhứt là gia đình Hai Thọ và đặc biệt là Thụ. Cái tội, cái lỗi ấy dần biến thành con dao nhọn mà Nhu tự hứa một ngày nào đó sẽ cắm ngập tim kẻ thủ ác.
Đã đến lúc phải làm khai sanh cho thằng nhỏ.
Một hôm thím Chín hỏi chồng:
-Tui tính đặt tên cho nó là Lộc, "Lê văn Lộc". Nghe cũng êm tai hén ông?
Chú Chín phản đối ngay lập tức.
Chú hỏi lại vợ:
-Bà nghĩ sao mà đặt cái tên đó cho thằng nhỏ?
Thím Chín làm bộ mờ ơ hỏi lại:
-Bộ có cái gì trục trặc sao ông?
Chú Chín chắc lưỡi nhìn vợ rồi nói:
-Bộ bà tưởng cả cái xóm nầy đều dốt hết hay sao? "Thụ" là cây, "Lộc" là đọt non. Bà đặt như vậy chẳng khác nào vạch áo cho thiên hạ xem lưng.
Thấy thím Chín xụ mặt, chú bèn nói tiếp:
-Bộ bà tính cho thằng cháu của mình mai mốt hưởng phần hương hỏa của nhà Hai Thọ hả? Hổng có dễ đâu bà ơi. Con cháu chánh thức mà còn xâu xé nhau hà rầm, thì sá gì cái đứa con rơi, con rụng.
Ngừng một chút chú nói tiếp:
-Huống chi con, cháu nhà giàu trong xóm mình, có mấy đứa nên thân, nên nết? Đâu bà đếm thử giùm tui coi được mấy đứa hơn người. Tụi nó vừa sanh ra, chưa biết leo, biết trèo là đã ngồi mút trên cao chót vót rồi. Thế nên đâu cần tập tành, cứ ở yên một chỗ mà hưởng. Vậy mà còn không thèm ôm cây cho chặt. Có đứa tuột từ từ, có đứa buông tay rơi cái ầm lún đất. Con nhà nghèo vậy mà còn chịu khó học hỏi, biết lo làm ăn, dốc lòng báo hiếu cho cha mẹ. Bộ bà chưa nghe câu "nhà nghèo, con thảo" hay sao?
Thím Chín bị chồng nói trúng tim đen, cứng họng không trả lời nổi một tiếng.
Hồi lâu thím mới hỏi:
-Vậy chớ ông tính đặt nó tên gì?
Chú Chín đáp:
-Tui tính đặt cái tên trong khai sanh cho nó là SĨ, "Lê văn Sĩ". Cha "Nghệ", con "Sĩ", dễ nghe, dễ nhớ lắm! Mà cái tánh nghệ sĩ cũng hay hay.
Thím Chín hỏi thêm:
-Còn ở nhà thì kêu là thằng gì?
Chú Chín dự trù sẵn trong đầu nên đáp gọn hơ:
-Gừng.
Thím Chín nhảy nhổm:
-Thiếu gì tên sao đi đặt...
Chú Chín cướp lời vợ:
-Cái tên đó nó vần với cái tên của thằng rể mình nhứt!
Thím Chín lắc đầu nguầy nguậy:
-Tui hổng ưa cái tên nào hết ráo. Cái tên Lê văn Sĩ nghe giống mấy cái ông làm nghề bán chữ. Như cái thằng con của ông thầy Bảy chích đó. Làm biếng thấy mà ớn, không lo làm ăn, mở miệng ra toàn nói ba cái chuyện trên trời dưới đất gì không. Bởi vậy hai lần lấy vợ mà hổng ai chịu ở cho lâu.
Chú Chín cự liền:
-Người ta viết văn cho ai muốn coi thì coi, hổng coi hổng ép, chớ có bắt ai mua rồi móc túi lấy tiền đâu mà bà kêu là bán chữ. Mấy cái đứa ham tiền, nhẹ dạ nên mới không biết quý, biết trọng cái tài...
Giờ thì đến lượt thím Chín cự lại:
-Cái tài mà không làm ra tiền thì cũng coi như đồ bỏ! Tui thà cho thằng cháu mình đi cày thuê, cuốc mướn chớ nhứt quyết không cho nó làm văn nầy, văn nọ gì hết!
Chú Chín bực bội quát:
-Bộ bà tưởng đặt tên gì là làm thứ đó sao? Nói như vậy thì trong nước mình có không biết bao nhiêu ông vua mà nói. Một mình cái xóm nầy thôi mà cả chục đứa tên "Hoàng". Chỉ một mình nhà cô Sáu Lữ mà có tới bảy, tám ông hoàng, bà hoàng. Nào là "Minh Hoàng, Thanh Hoàng, Chơn Hoàng, Trung hoàng..." nghe mà bắt kinh hoàng luôn!
Thím Chín bị phản bác dữ dội quá nên xụi lơ. Cuối cùng cũng ráng vớt vát:
-Thôi thì cái tên khai sanh ông đặt, còn cái tên ở nhà tui đặt, chớ tui không ưa cái tên "Gừng" chút nào. Nghe là cay xé họng, muốn múc một gáo nước uống vô liền.
Chú Chín nghe vợ nói thì cười khà khà rồi hỏi:
-Vậy bà tính kêu nó là thằng gì?
Thím nhẹ giọng, nói như năn nỉ:
-Hổng hiểu tại làm sao mà tui ưa cái tên Lộc quá ông. Tui thấy cái tên nầy nó có hậu lắm, cũng vần với tên ba tui, ổng tên Lợi. Mình đặt tên đó hết sức hay. Có ai nói gì thì mình cắt nghĩa cho họ biết. Với lại như vậy cho nó công bằng: Một cái tên hợp với ông cha có công sanh, một cái tên hợp với ông cha có công dưỡng. Sanh dưỡng đạo đồng mà ông.
Chú Chín hứ một cái rồi nói:
-Cái câu "sanh dưỡng đạo đồng" đó chỉ đúng trong trường hợp người cha, người mẹ có ý định sanh con, ráng hết hơi, hết sức mà nuôi không nổi nên phải nhờ người khác cán đáng. Đằng nầy, thằng Thụ nó đâu muốn có con. Nó y như con gà trống vậy đó! Đạp mái một cái rồi bỏ đi mất biệt, có khi sau nầy còn quay lại giành ăn với con, với cháu.
Thím Chín thấy chú cứ khăng khăng, bèn nói lẫy:
-Thôi, tui ngu, tui dốt, tui tham lam...Tui giao nó cho ông luôn đó! Thằng nhỏ là cháu của một mình ông. Ông muốn đặt tên gì thì đặt.
Nói rồi thím ngoe nguẩy bỏ đi, chẳng thèm nghe chú giải thích thêm là đặt cái tên xấu như vậy có nhiều cái lợi lớn lắm! Một là để ông bà khuất mặt khỏi nhớ, khỏi kêu, khỏi quở. Hai là không trùng tên ai, sau nầy có mắng chửi nó cũng không sợ mích lòng bà con lối xóm.
Thực ra chú muốn khẳng định với mọi người rằng thằng cháu ngoại "Lê văn Sĩ"của mình, chính xác là con trai của "Lê văn Nghệ".
Nhu nằm trong buồng, lắng tai nghe ba má cãi nhau mà vừa buồn, vừa mắc cười, vừa ngạc nhiên. Chuyện đặt tên đáng lẽ hai người phải nhường cho ba, má đứa nhỏ mới đúng, đằng này...
Nhu định bụng sẽ biện hộ rằng tại ông bà quá ít con, mê mấy cái tên đó từ lâu mà không đặt được, đến giờ mới có cơ hội, nếu Nghệ phàn nàn.
Còn cái điều khiến cô ngạc nhiên quá cỡ, đó là sự thay ngôi đổi bậc của ba, má mình. Ngày trước mỗi lời nói của bà là một mệnh lệnh, ông nghe răm rắp chẳng hề cãi lại tiếng nào. Năm khi mười họa mới dám làm theo ý của mình và nơm nớp phập phồng, cầu khấn sao cho kết quả tốt đẹp, nếu không sẽ bị bà cằn nhằn nhức xương.
Bây giờ thì khác hẳn lại, muốn làm điều gì bà phải hỏi ý kiến của ông trước. Thậm chí cái lãnh vực bếp núc, nơi ngày xưa bà mặc sức tung hoành, ông chớ dám léo hánh tới, nay cũng được bà trải thảm mời ông chiếu cố.
Sáng sáng, trước khi đi chợ bà hay hỏi:
-Bữa nay ông muốn ăn món gì?
Ông luôn luôn trả lời bằng một câu cà rỡn:
-Tùy lòng hảo tâm! Bà cho gì, tui ăn nấy.
Không còn là một người mẹ nghiêm khắc, hay la rầy, luôn nói với con bằng cái giọng dùi đục chấm nước mắm nữa. Thím Chín đã lột bỏ cái áo giáp sắt bên ngoài để lộ ra bản chất của một người từ mẫu. Cái tiếng "con" hiếm hoi, giờ đã được bà dùng thường xuyên.
Có lẽ đứng trước mối nguy cơ mất con, nỗi lo âu tột cùng ấy đã làm tâm hồn thím Chín lột xác như sâu hóa bướm, đồng thời lòng tự tôn cũng rơi vỡ, nát vụn...chẳng còn kiên cố như trước.
Ngày xưa thím ít khi khen ngợi bà con trong xóm, ít chịu thừa nhận ai hơn mình. Giờ thì hiếm khi nghe thấy bà chê ai, điều nầy khiến không khí quanh thím không còn nặng nề như trước.
Không biết thím Chín có "bỏ nhỏ" vô tai chàng rể hay không mà ngay chiều hôm đó, bà dọn một mâm cơm với món cá rô mề nướng giầm tương ta, vốn là món ruột của ông, cùng một rỗ lá cóc non xèo bóng ngời như lụa, lẫn mấy trái cóc nhỏ xíu bằng đầu ngón tay chưa có hột.
Vừa vào bữa là Nghệ gắp cái lưng mập ù của con cá rô với lớp da nức nẻ, giòn rụm, tươm mỡ... Điểm mấy miếng hành lá xanh xanh, cùng mấy hột tương ta, nâu nâu, trắng trắng vào chén ông rồi mời:
-Ba ăn cái miếng nầy nè, còn nóng nên giòn lắm!
Miếng cá ngon, được con rể gắp cho còn ngon hơn. Chú Chín ăn kèm với mấy trái cóc non xèo, nhai rôm rốp, ngọt lịm, nuốt tới đâu nghe mát tới đó.
Thấy ba vợ đang trên đỉnh cao khoái cảm, Nghệ thưa:
-Con tính đặt cho cháu trong khai sanh tên Sĩ còn ở nhà tên Nhân, có được không ba?
Chú Chín biết ngay bữa cơm với cái món tuyệt vời nầy của vợ không phải khi không mà có. Chú gật đầu liền. Trong bụng chú nghĩ "tên gì cũng được miễn không dính dáng đến gia đình Hai Thọ, khỏi nhắc nhở đến cái mối nhục của nhà mình là được".
Sáng hôm sau thím Chín nựng cháu, nói to lên cho chồng nghe để khẳng định chiến công của mình:
-Nhân ơi! Nhân à! Nhân ăn cứt gà, Nhân ị hổng ra...
Bà Năm Già bưng thúng bánh tét đi ngang cũng ghé vô nựng ké. Bà nói:
-Nhưn ơi! Nhưn à! Bánh tét bà Năm Già nhưn nào cũng ngon!
Bà Năm vốn nhẹ bóng vía, hể ai được bà mở hàng là bán đắc như tôm tươi. Vì vậy nên từ đó về sau bà con cứ ráp nhau gọi nó là thằng "Nhưn".
Thím Chín ban đầu còn chịu khó chỉnh sửa từng người, bắt họ kêu cho đúng, riết rồi cũng đuối hơi, nản chí không thèm bắt bẻ nữa.
Đó là đối với người ngoài chớ còn ở trong nhà, nhứt là với chú Chín, ổng mà chứng lên gọi trật tên của nó là thím nổi tam bành, lục tặc lên liền.
Chỉ có một người khiến thím Chín ưng ý nhứt, đó là dì Sáu Dọ, người ở sát một bên nhà thím, bởi lúc nào cũng gọi thằng nhỏ đúng cái tên "Nhân" một cách "trân trọng"!
Dì Sáu là một bụi lục bình bơ vơ, trôi giạt từ Cam pu Chia về đây từ cái năm Long Nol đảo chánh Si Hà Núc. Dì không có ai là bà con ruột thịt ở xóm nầy. Dì không dắt Phục, thằng con trai duy nhất còn sống trong cái gia đình sáu người gồm hai vợ chồng và bốn đứa con của mình về nơi chôn nhau cắt rún, mà lập nghiệp ở đây luôn.
Năm đó, cư dân ở đầu nguồn sông Cửu Long thường bắt gặp những thi thể, có khi thiếu mất đầu trôi trên sông. Bà con vớt lên rồi bó chiếu đem chôn. Đồng bào cả nước ai ai cũng xót xa khi nghe bà con mình ở nhờ trên đất bạn bị họ thảm sát hết sức dã man.
Khi cái tin chiếc tàu chở Việt kiều hồi hương từ Nam Vang sắp ghé vào xóm Cầu Ván, bà con trong các vùng lân cận đều xúm lại nhận họ hàng.
Đa số người về đều có thân nhân chờ sẵn, họ ôm lấy nhau rồi khóc ròng ròng. Thím Chín chỉ đến xem chớ chẳng đón ai. Thím thấy hai mẹ con dì Sáu đứng bơ vơ thì động lòng trắc ẩn, bèn mời về nhà nghỉ tạm rồi cho ở nhờ cái nhà chứa củi đang bỏ không của họ.
Sáng hôm ấy dì dắt con đi làm cỏ mướn. Chiều tối từ đồng về, dì hết sức ngạc nhiên khi thấy cái nhà kho trống lổng ấy đã được vá mấy chỗ thủng trên mái. Cả ba bức vách cũng được vừng kín. Bà con còn cột một tấm liếp bằng lá chầm để chống lên làm cửa. Họ làm thêm một bức vách, ngăn cái nhà ra làm đôi để hai mẹ con có chỗ nằm kín đáo.
Đâu chỉ có bấy nhiêu! Ở một góc nhà, ai đó đã kê cho dì ba cục gạch để làm cái hỏa lò. Trên lò có sẵn hai cái nồi đã cũ nhưng chưa bị sứt quai, một lớn, một nhỏ chồng lên nhau. Mấy dụng cụ làm bếp như dao, thớt mỗi thứ một món. Lại còn có thêm cái rỗ thưa đựng bốn cái chén, khác màu, khác cỡ: một bó đũa tre, trong đó có cả một đôi đũa bếp; Một cái tô; Hai cái dĩa: cái nhỏ còn nguyên, cái lớn bị mẻ chút xíu ở ngoài vành.
Thím Chín thấy dì về liền xách qua một túi gạo với một hủ mắm và một chai nước mắm.
Thoạt đầu dì Sáu chỉ định ở tạm, kiếm chút đỉnh tiền dằn túi rồi mới về gặp họ hàng để không ai lo là mẹ con dì sẽ làm gánh nặng cho họ.
Thế nhưng tấm lòng của bà con láng giềng làm dì Sáu quá ư cảm kích! Không thể dùng lời để diễn tả, dì bèn dùng hết sức bình sinh, cắm mạnh cây dùi xuống miếng đất đến lút cán, khỏi có rút lên nổi. Bụi lục bình lạc lõng ấy đã dừng lại ở cái xóm Cầu Ván nầy từ đó!
Dì Sáu quyết báo đáp lại công ơn của bà con bằng mọi cách. Ở phụ nữ, nhu cầu tâm sự rất lớn, dì đã trở thành người lắng nghe và chia sẻ nỗi niềm của hết thảy mọi người. Cái công việc được coi là hết sức nhẹ nhàng, nhỏ nhoi ấy, xem ra đem lại một nguồn lợi ích rất lớn. Đó là giúp bà con khuây khỏa, trút bỏ những nỗi phiền muộn để rộng lòng chào đón niềm vui.
Ở nông thôn các phương tiện giải trí rất nghèo nàn, nhứt là đối với những phụ nữ trung niên. Có lẽ cái thú duy nhứt được tha hồ hưởng mà không tốn tiền của họ là vào những buổi trưa thưa việc, ngồi xỏa tóc bắt chí cho nhau rồi con cà, con kê hết chuyện nầy sang chuyện khác.
Dì Sáu y như một chủ nhà băng hết sức uy tín, gìn giữ chắc lọi những bí mật mà bà con gửi gắm. Trong xóm hể ai có chuyện xích mít hoặc lo lắng, nghi ngờ, giận hờn ai, muốn tìm người để nói cho sướng miệng mà không sợ để lại hậu quả là tìm đến dì.
Nhờ lòng khoan dung, biết lắng cách lắng nghe và an ủi nên dì đã hàn gắn được những vết rạn nứt giữa mọi người và được hầu hết bà con quý mến!
Có một sự kiện mà đến nay vẫn được bà con nhắc nhở, cho thấy cái tính hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhịn, ít dám làm phiền ai của dì sáu Dọ:
Một lần dì đi viếng ngôi chùa lá bên sông. Lúc đến bến đò thì ông Tư (người chèo đò khi ấy, bây giờ đã nghỉ vì già quá chèo hết nổi) vừa thọt cây sào xuống nước để đẩy chiếc đò ra, thấy dì đến liền ghìm lại chờ. Bữa đó nước ròng dì phải giẫm qua lớp bùn nhão nhoẹt sát bờ sông để lên đò. Qua đến bờ bên kia, mấy người khách khác đã đi hết, dì vẫn còn ngồi lại.
Ông Tư ngạc nhiên hỏi:
-Sao cô Sáu không lên bờ?
Dì chỉ xuống chưn mà nói:
-Đôi dép bị mắc kẹt trong bùn nên phải theo đò quay về lấy lại.
Ông Tư bèn rầy:
-Sao hồi nãy hỗng chịu moi lên?
Dì đáp:
-Sợ bà con trên đò chờ lâu, để quay lại lấy sau cũng được.
Cái tính cam chịu thiệt thòi ấy bị bà con cho rằng khờ khạo. Chỉ một mình thím Chín là nhận ra, dì là báu vật mà trời ban tặng cho những người thích trò chuyện như mình.
Từ hai bàn tay trắng, nhờ hết sức siêng năng và cần kiệm nên chỉ mấy năm sau, với sự giúp đỡ của thím Chín, mẹ con dì đã mua được hai công đất.
Xứ nầy đa số bà con theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, gần như ai cũng ăn chay tối thiểu là bốn ngày: Mười bốn, mười lăm, hăm chín, ba mươi trong tháng âm lịch. Có người còn ăn chay trường nên dì quyết chí theo đuổi nghề trồng nấm rơm. Thu nhập khá lên rồi dần dần dì trả hết nợ cho thím Chín.
Từ đó dì trở thành người bạn thân nhứt của thím, tối lửa tắt đèn họ đều có nhau. Hể nhà thím Chín cần người tiếp tay là hai mẹ con dì cho dù có công việc có bề bộn đến cách mấy đi nữa, cũng gát qua một bên để luôn luôn có mặt, góp sức một cách tận tình.
Tuy tính nết họ hoàn toàn tương phản, thím Chín quá sôi nổi, dì Sáu rất thâm trầm. Năng lực của họ cũng khác biệt, kẻ mạnh miệng, người khỏe tai. Thế nhưng dì lại là người duy nhứt được thím tin tưởng mà trút sạch nỗi lòng.
Thím Chín may mắn có dì ở sát bên nách nên tận dụng một cách tối đa. Hể giận chồng, giận con là lập tức chạy qua kể cho dì Sáu nghe để hả hơi. Nhờ vậy mà tất cả những nỗi bực bội chẳng kịp thấm vào lòng, nó được trút hết ráo cho dì Sáu nên lúc nào thím cũng phây phây.
Thím Chín thích dì Sáu cho đến nổi, dù dì nghèo và biết Nhu ghét Phục, vẫn hứa và quyết định trong lòng là sẽ làm sui với dì cho bằng được.
Người ta thường cho rằng hai người phải giống tánh, giống nết mới có thể duy trì tình cảm lâu dài với nhau. Điều nầy chưa chắc đúng, bởi tính khí đối lập mới tạo ra sức hút. Thử hỏi nếu họ cùng có cái tật tía lia, tía lịa, ai cũng thao thao thì còn có ai chịu nghe, chịu hiểu? Còn ngược lại thì ôi thôi! Cái không khí giữa họ lúc nào cũng im ru, phẳng lặng, âm u, rời rạc...thiếu chất kết dính ghê lắm!
Cho dù say đắm bản thân cách mấy đi nữa, chẳng có ai đủ can đảm ngắm mình trong gương suốt cả ngày nói gì đến cả tháng, cả năm.
Từ lúc gả Nhu, thím Chín đâm ra mắc cỡ với dì Sáu và Phục, dẫu họ chẳng hề mở miệng nhắc lại lời hứa hẹn. Thím cũng thưa qua lại với dì Sáu hơn, một phần lo nuôi đẻ và chăm cháu. Thế là dì Sáu phải qua nhà thím, cư xử như chẳng có gì xảy ra giữa hai người.
Dì Sáu rất tế nhị, chỉ nói những điều thím Chín ưa thích. Mấy câu chuyện của dì đều vô hại, cách rất xa cái vết thương của thím Chín.
Dì hay lắng nghe rồi tìm lời ngợi khen một cách hợp lý, cốt để thím Chín sớm lấy lại tự tin. Nhờ vậy mà mối quan hệ của họ cũng dần dần bình thường trở lại.
Lạ một điều là dì Sáu, vốn không ưa bộc lộ tình cảm, lại tỏ ra quyến luyến quá mức vị thành viên mới mẻ, bé nhỏ nhứt của gia đình thím Chín. Mỗi ngày khi đi đồng về dì đều chạy qua thăm thằng bé. Thỉnh thoảng dì lại mang qua đưa thím Chín một nắm rau dại, mấy thứ rau nầy lợi sữa lắm để thím luộc cho Nhu, hoặc mấy con cá, con tép xúc được trong mương.
Thím Chín thấy dì Sáu, cái người ít khi chịu tới nhà ai, hay qua nhà mình đều đều mỗi ngày - điều mà xưa nay rất hiếm - thì ngạc nhiên lắm! Thoạt đầu thím nghi ngờ, bực bội...nhưng sau đó, thím thấy dì chẳng hề nói bóng, nói gió, chỉ hỏi thăm, nựng nịu thằng cháu ngoại của mình thì cho rằng dì mê có cháu. Thím bắt đầu thấy thương hại, rồi cảm thấy tự hào, luôn miệng khoe không ngớt về "cục vàng" của mình với dì.
Lúc sau nầy Phục đâm ra bê tha, nhậu nhẹt. Dì Sáu buồn vì khuyên hoài không được nên hay tâm sự với thím Chín. Thím biết rõ nguyên nhân nên vô cùng ái ngại.
Do mặc cảm có lỗi với mẹ con dì Sáu, thím Chín bắt đầu để ý mấy cô gái đến tuổi cập kê trong xóm. Thím tự cho là mình phải có bổn phận đền cho dì Sáu một nàng dâu, giỏi, ngoan, hiền và hiếu thuận nhứt vùng.
Thế là Tím, cô bạn thân nhất của Nhu rơi tỏm vào hai con mắt của thím Chín.
Tím là thợ may nổi tiếng khéo nhất xã, nhà ở xóm trên cách cây cầu ván tới ba cây số. Cô mở tiệm tại nhà, có học trò theo học nhiều lắm!
Cô là con gái thứ tư của một gia đình có sáu cô con gái mang những cái tên toàn màu với sắc: Vàng, đỏ, Tím, Cam, Lam và Lục.
Sáu cô con gái đều chưa có chồng, chắc tại họ mang những dãy màu của cầu vồng. Cầu vồng hiếm khi xuất hiện và thường chỉ đứng lẻ loi một mình trên bầu trời, cho nên dì hai Trắng, má của Tím hay cằn nhằn chồng:
-Tại ông đặt tên tụi nó giống như cái móng chuồng nên đứa nào cũng ở giá.
Tím hay đến thăm Nhu. Cô chịu khó ráp lại những miếng vải thừa để may những chiếc áo nhỏ xíu rất ngộ nghỉnh rồi mang tặng cho bé Nhân.
Tím lớn hơn Nhu một, nghĩa là hơn Phục hai tuổi nên thím Chín xuýt xoa nói với dì Sáu:
-Nhứt gái lớn hai! Hai cái tuổi nầy hợp với nhau dữ lắm luôn! Vừa được hào của lại đặng hào con, mai mốt cho chị bồng cháu, hun cháu đã đời, khỏi thèm ké ai hết!
Dì Sáu cười:
-Trăm sự nhờ chị, cưới được dâu là tui "kiếng" cho bà mai cái đầu heo liền.
Thím Chín nói:
- Miếng nọng là đủ rồi, lấy nguyên cái đầu ăn làm sao hết?
Thím Chín lật đật làm mứt dừa rồi sáng hôm sau mang cho mợ ba Sáng, vốn là chị em cô cậu với dì hai Trắng, để hỏi thăm và nhờ nói vô giùm.
Vốn tính nóng vội nên qua mấy câu mào đầu là thím hỏi liền:
-Con Tím cháu của chị có ai đi bỏ hàng rào thưa chưa chị Ba?
Mợ Ba hỏi lại:
-Bộ chị tính làm mai cho nó hả?
Thím Chín gật đầu.
Mợ Ba hỏi tiếp:
-Ai vậy?
Thím Chín đáp:
-Thì thằng Phục sát bên nhà tui chớ ai!
Mợ Ba gật đầu:
-Chỗ đó coi bộ được.
Rồi mợ nói tiếp:
-Hôm trước nghe nói có người ở bên bãi Chàm qua coi mắt nó. Thằng đó con nhà khá giả, vườn, ruộng gộp lại cả chục mẫu, có điều nói ngọng nên nó chê.
Thím Chín ngắt lời:
-Đừng có ham gả con cho nhà nhiều vườn, lắm ruộng chị ơi! Con mình cực lắm. Hồi đó má tui cũng ham như vậy, cho nên tui làm dâu thiếu điều muốn sứt móng tay luôn!
Thím nói tiếp, giọng buồn buồn:
-Nhà giàu con cái ít khi thương nhau. Cha mẹ nằm xuống rồi là xúm lại chia nhà, chia đất. Gây lộn, chửi lộn như bầm bầu, có khi còn ẩu đã.
Mợ Ba cãi lại:
-Cũng có nhà nầy, nhà khác. Mình cư xử công bằng, ăn đồng, chia đủ thì tụi nó đâu thể phân bì. Có đất, có ruộng cũng dễ dựng vợ gả chồng cho con cái.
Thấy thím Chín xịu mặt, mợ Ba vội nói:
-Đó là tui nói nghe chơi thôi, chớ không phải bác ra đâu, chị đừng có lo. Tui cũng mến chị Sáu, chỉ hiền lành, ít nói, thằng Phục cũng chịu khó làm ăn...
Thím Chín mừng húm, chớp liền cơ hội:
-Vậy chị làm ơn nói giùm một tiếng. Mai chiều nhín chút thời gian đi gặp chị Hai...
Mợ Ba cũng sốt sắng không kém:
-Mùng sáu tới là đám giỗ ông ngoại tui, làm ở nhà má con Tím, để tui nhân tiện nói giùm cho.
Nói là làm. Hôm đám giỗ mợ Ba bưng cái xịa đậu phọng rang, xề lại ngồi kế dì hai Trắng, nói nhỏ xíu để chỉ đủ hai người nghe với nhau thôi:
-Chị Hai! có cái chuyện nầy vui dữ lắm, chị có muốn nghe hông?
Dì Hai đang xắt lia, xắt lịa cái bụt măng, liền dừng tay hỏi lại:
-Chuyện vui ai mà hổng thích nghe? Đâu vui chỗ nào? Dì nói cho tui nghe thử cái coi!
Mợ Ba xuống giọng thêm một chút:
-Có cái chỗ nầy được lắm, tui tính làm mai cho con Tím. Người ta có một mẹ, một con thôi hà! Bà mẹ hiền như cục bột còn thằng con trai thì siêng năng, giỏi giắng...
Dì hai ngắt ngang:
-Vậy thì làm may cho con Vàng đi, nó...
Mợ Ba lắc đầu:
-Họ đòi đích danh con Tím mà.
Dì Hai hỏi:
-Thằng đó tuổi con gì?
-Tuổi mùi.
Dì hai chắt lưỡi:
-Vậy là nhỏ hơn con Tím hai tuổi. Phải chi nó lớn hơn một chút ráp cho con Vàng thì được quá!
Mợ Ba an ủi:
-Được đứa nào thì gả đứa nấy đi chị. Chị cứ chờ gả con Vàng trước, cầm cự hoài tội nghiệp cho mấy đứa sau nó, tụi nó đâu còn nhỏ nữa!
Dì Hai hỏi thêm:
-Họ có đất, có ruộng nhiều hông?
Mợ Ba giả lả:
-Đất thì hổng nhiều, có hai công thôi! Nhưng mà họ trồng "núm", bán có giá lắm!
Dì Hai đập tay lên đầu gối rồi nói:
-Phải cái bà mặt tròn tròn, hay đội cái chàng sọc xanh, sọc trắng. Cái miệng hơi móm móm, thường ngồi bán núm ở trong nhà lồng chợ hông?
Mợ Ba gật đầu, dì Hai cười:
-Tui mua núm của bả không hà. Coi bộ bả hiền, mua bán đàng hoàng lắm! Hổng có nói thách với cân thiếu. Còn thằng con trai thì ra làm sao?
Mợ Ba nói một hơi:
-Nói thiệt với chị nghen, nó được nhứt xóm. Tui mà có con gái là không có tới lượt con Tím đâu. Cái thằng nầy giỏi mà hiền khô y như hệt như má nó. Trồng núm rơm nặng cái công lắm chị biết hông? Phải che, phải ủ, gầy meo, tưới nước, theo dõi tỉ mỉ lắm! Chuyện nhẹ, chuyện nặng gì cũng một tay nó làm hết ráo. Mẹ góa con côi mà cũng cất được cái nhà "săn" như ai. Còn nữa, nó không có ăn nhậu, hút sách đàn đúm bạn bè gì hết...
Dì Hai gặng:
-Nó có bị tật gì hông vậy?
Mợ Ba nhảy dựng lên:
-Không hề! Khỏe mạnh, cao ráo, mặt mày sáng sủa lắm!
Thấy dì Hai có vẻ xiêu lòng, mợ bồi thêm một cú cho chắc ăn:
-Chị hổng tin bữa nào xuống nhà tui chơi, tui chỉ nó cho chị coi mặt. Bảo đảm chị ưng bụng liền. Chỗ bà con, thấy được lắm tui mới chỉ giùm, chớ ba cái chuyện mai mối nầy ai ngu dại lắm mới đút đầu vô. Không được lợi lộc mà còn bị mắng vốn lên, mắng vốn xuống.
Đi đám giỗ về tới nhà, không kịp mở cái xửng coi trong đó có món gì, mợ Ba đi thẳng lại nhà thím Chín luôn để báo cáo cái kết quả vừa đạt được.
Thím Chín đang cho thằng cháu ngoại đi tè. Thím ngồi chồm hổm trên bậc cửa nhà sau, đặt nó lọt thỏm giữa hai bắp vế của mình, kéo cho hai cái đùi của thằng nhỏ dang ra để "xi" cho nó đi tiểu.
Thấy mợ Ba tới thím liền ngừng ngang cái tiếng "xi... xi...xi..." đang kéo dài liên tục, khép cái môi đang chu nhọn lại mà hỏi, giọng nôn nao:
-Sao rồi, sao rồi?
Mợ Ba cười tươi rói, gật đầu một cái để khẳng định thêm cái tin vui mình sắp báo:
-Chỉ chịu rồi. Chỉ nói để mai mốt chỉ đi qua chùa, nhờ sư ông lựa cái ngày cho thiệt tốt rồi cho mình hay để chị Sáu tới coi mắt, giáp lời.
Thím Chín ngạc nhiên:
-Bộ cái vụ nầy cũng coi ngày nữa sao?
Mợ Ba thở dài:
-Bà chị Hai của tui, bả kiêng cữ dữ lắm! Muốn đi đâu, làm cái gì, bả cũng phải hỏi ý kiến của chư vị khuất mặt, khuất mày rồi mới dám động đậy!
Thấy thím Chín bán tín, bán nghi. Mợ Ba bồi thêm:
-Hồi đó con gái Út của chỉ bị ban khỉ, ốm nhom, ốm nhách, còn có da bọc xương. Tui tới thăm, thấy bả cho nó uống nước tàn nhang không hà. Bèn hối bồng đi nhà thương liền. Con nhỏ bịnh gần chết vậy mà bả cũng nói phải chờ coi ngày tốt rồi mới bồng đi.
Thím Chín hỏi:
-Vậy rồi nó có bị làm sao hông?
Mợ Ba đáp:
-Cũng may mà nó còn sống. Nhưng mà teo ngắt như trái hủ qua đèo, lớn hổng nổi.
Thím Chín nói:
-Chị đốc giùm cho lẹ lẹ, chớ nghe nói vậy sao tui phập phồng trong bụng quá!
Mợ Ba lắc đầu:
-Tui biết cái tánh bà chị của tui. Bả hay nghi hay ngờ dữ lắm! Tui mà hối là hư bột, hư đường hết ráo. Bả phủi tay một cái rột liền.
Thấy thím Chín đổi vẻ tươi vui ban nãy thành nét ủ ê, mợ Ba khuyên:
-Chị Chín đừng lo, hổng có sao đâu! Chị Hai chỉ mua "núm" hà rầm của chị Sáu hoài nên có biết qua. Chỉ khen chị Sáu thiệt thà, hiền rụi...Bán giá nào, nói giá đó chớ không nói thách như người ta. Buôn bán rất đàng hoàng, cân đúng bon chớ hổng có thiếu một gờ ram nào hết. Coi bộ chỉ chịu làm sui với chị Sáu lắm đó!
Thím Chín thở ra một hơi nhẹ nhỏm.
Mợ Ba còn dặn dò thêm:
-Chị phải cho chị Sáu biết liền để chỉ lo sắm trước một đôi bông vàng gói theo. Đặng hể họ ưng là mình đặt cọc, bỏ hàng rào thưa liền.
Rồi mợ hạ giọng:
-Chị cũng biểu chỉ may một bộ áo dài mà mặc đặng coi cho lịch sự. Tui thấy đi đám tiệc chỉ toàn mặc cái áo bà ba tím không hà!
Thím Chín gật đầu nói:
-Tầm vóc của chỉ y chang tui, để tui cho chỉ mượn cái áo dài tui mặc hôm đám cưới con Nhu. Cái khăn, đôi dép của tui cũng còn mới tinh, để tui đưa chỉ luôn cho đủ bộ.
Mợ Ba lại hỏi:
-Thằng Phục nó có áo dài, khăn đống chưa?
Thím Chín lại gật đầu:
-Để tui lấy bộ đồ của ông nhà tui cho nó mặc.
Mợ Ba ngần ngại:
-Nó cao lêu nghêu, mặc áo của ảnh có vừa hông đó?
Thím Chín trấn an:
-Chị đừng lo, để tui cho nó thử trước, hổng vừa thì tui biểu thằng Nghệ đem bộ đồ mặc hôm đám cưới qua cho nó mượn. Hai đứa nó cũng xấp xỉ.
Mợ Ba cười:
-Hổng biết chị làm sao, chớ từ hôm chị nhờ tới nay tui cứ lo lo trong bụng. Chuyện của người ta đâu phải của mình! Chị Sáu cũng chưa phải bà con ruột thịt, vậy mà hổng hiểu sao thấy tình cảnh mẹ con chỉ tui thương quá xá. Bà chị Hai của tui, má con Tím đó! Bả cứ kèo nài, đòi gả con Vàng trước rồi mới tới nó. Tui nói ráo nước miếng bả mới chịu.
Thím Chín nửa như hỏi, nửa như nói bông lông:
-Hai đứa con gái lớn của chỉ đó, tụi nó coi cũng ngộ "quá khứ" đó chớ! Đâu có thua sút mấy con nhỏ trong xóm, vậy mà tới giờ nầy sao hổng thấy ai rinh hết vậy?
Mợ Ba chắt lưỡi:
-Cũng có đó chớ! Con Vàng hồi năm ngoái, năm kia gì đó, có người bên Hồng Ngự qua coi. Tại nó có cái mục ruồi trong con mắt nên họ chê. Còn con Đỏ có quen một thằng bạn học, sắp bước tới thì thằng đó bị kêu nghĩa vụ. Nó đi đánh tụi Pôn Pốt trên Miên rồi mất tích luôn. Bây giờ con Đỏ ăn chay trường, đòi đi tu chớ không chịu lấy chồng.
Thím Chín chắt lưỡi theo rồi nói:
-Tội nghiệp chị Hai Trắng, chắc chỉ lo dữ lắm! Sáu đứa con gái chớ ít ỏi gì. Tui đây chỉ có một đứa thôi mà còn mệt cầm canh. Đẻ con gái coi vậy mà cực lòng gấp mấy lần mấy đứa con trai. Tụi nó y như hủ mắm treo đầu giàn, rủi có bề gì là chị em mình lảnh đủ.
Mợ Ba hùa theo:
-Chớ còn cái gì nữa. Cứ hở ra là mấy chả đổ thừa "con hư tại mẹ".
Thím Chín cười:
-Chị thì khỏe re! Đẻ bốn thằng con trai không hà, sướng gần chết!
Mợ Ba trợn mắt:
-Ở đó mà sướng! Chị đóng thử cái vai tuồng của tui coi có sướng hông nè! Lớp thì lo kềm kẹp thằng Út cho nó học hành đàng hoàng, không cho nó tập tành hút thuốc, đàn đúm với mấy thằng cà chớn. Lớp thì lo đóng tiền cho thằng Tư để nó khỏi đi nghĩa vụ. Lớp thì canh chừng thằng Ba, nghe nói nó đang "de" con nhỏ nào ở xóm trên, sợ nó chộn rộn rồi hại đời con gái người ta khiến lối xóm kêu rêu... Lớp thì lo làm lụng, bỏ ống để sắm vàng đi cưới dâu cho thằng Hai. Chưa thôi đâu nghen! Mai mốt cưới xong rồi còn phải lo cất nhà cho vợ chồng nó ở riêng.
Mợ dừng lại hít một hơi dài để lấy trớn rồi nói tiếp:
-Có con gái như chị mới đúng là có phước đó! Chín, mười tuổi là sai quét nhà, rửa chén được rồi. Lớn lên gả bán thì được người ta bưng mâm, bưng quả qua năn nỉ mình nhận. Bán cái qua nhà thiên hạ rồi là khỏe re, khỏi lo gì ráo. Chừng nó có chồng, lâu lâu về thăm nhà là mua món ngon vật lạ về biếu. Có khi còn giấm giúi nhét tiền cho ba, cho má, cho em...
Đang nói ngon trớn thì thằng Suốt, con trai út của mợ Ba chạy tới, nó vừa thở, vừa nói:
-Má ơi! Về lẹ lẹ đặng nấu nước chế trà cho ba, nhà có khách.
Mợ Ba lật đật đứng lên, chưa chịu về liền còn nói ráng thêm một câu:
-Chị coi đó! Phải có con gái thì...
Mợ Ba về rồi, thím Chín mới nhớ đến cái nhiệm vụ cấp bách trước mắt của mình. Lật đật chu môi làm tiếp. Thằng nhỏ lúc nãy đã sắp "xịt" ra, bỗng bị ngắt tín hiệu nên lật đật ém lại. Cái bàng quang của nó đã đầy óc ách nên thím Chín vừa "xi..." một tiếng là nó bắn một tia nước vọt thẳng lên trời y như giếng phun liền, rồi làm một bãi rất ư hoành tráng.
Thím Chín cười khoái trá, ghì chặt nó vào lòng rồi đứng lên từ từ. Thím vừa đi, vừa hun túi bụi lên khắp mặt, khắp mày của thằng cháu ngoại...