← Quay lại trang sách

PHẦN HAI

Trận lũ năm 2000, được xem là lớn nhứt trong hơn bảy mươi năm đổ lại, đã đi vào bộ nhớ của hết thảy bà con xóm cầu Ván.Tổn thất mà nó mang đến có thứ không thể nào hồi phục được.

Trong gia đình chú Chín, nó đã để lại một hậu quả vô cùng nghiêm trọng, một vết thương không bao giờ lành trong lòng họ, nhất là đối với Nhu: Nghệ đã qua đời khi nổ lực cứu giúp những người cùng anh đi chung qua sông trên một chuyến đò và bị chìm.

Năm ấy Nhân đang chuẩn bị cho luận án tốt nghiệp, chàng là sinh viên của trường Đại học Nông Lâm. Nghĩa, đứa con trai của Nghệ và Nhu cũng vừa vượt qua kỳ thi trung học phổ thông.

Cái chết của Nghệ khiến Nhu như cây đu đủ trong vườn, bị nước lũ xô bật gốc rồi cuốn theo vùn vụt.

Nhu bị cú sốc ấy làm suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác, phải nằm liệt trên giường cả tháng. Cái mất mát quá lớn lao, không có gì bù đắp được đó, khiến tinh thần Nhu mất thăng bằng, không còn đảm nhiệm được việc dạy học. Cũng may thời gian công tác vừa đủ để cô được hưởng chế độ hưu bổng.

Nhu già đi từng ngày, thân hình gầy rộc, không thích trò chuyện và nụ cười hiếm khi xuất hiện.

Chức năng tự bảo vệ của cơ thể đã cố ý đánh lừa Nhu: Đôi lúc cô rất tỉnh táo nhưng đôi lúc cô cứ khăng khăng là chồng mình còn sống.

Ông trời tánh tình keo kiệt lắm! Hể đôi nào mà xài cái lượng hạnh phúc nhiều quá là ổng thường bắt bớt một người lại, coi như đóng thuế. Người còn sống cũng phải trả góp mỗi ngày.

Một lần nữa thím Chín lại đem con gái về ở với mình để tự tay chăm sóc. Việc điều trị, thuốc men đã có thầy Bảy. Việc nhà có dì Sáu, Nhạn, Tím, Xíu và Phục tiếp tay. Thím Chín ít bận bịu nên cái buồn trong lòng có thời gian nhả sợi rồi đan thành kén mà bao quanh thím. Thím cũng đâm ra ít nói, không còn nhận đi nấu đám và thỉnh thoảng lại bị chứng bịnh phong thấp hành hạ phải nằm ì một chỗ.

Người kiên cường nhứt trong gia đình chính là chú Chín. Chú an ủi từng người, không để cho Nhân, Nghĩa, Nhỏ xao lãng việc học. Những ngày thím Chín bị căn bịnh hành hạ, mấy khớp xương sưng đỏ, đau nhức đi không nỗi, luôn miệng kêu rên. Chú Chín liền đi tìm hái lá lốt đem về sao lên cho nóng, bọc vô cái túi, đắp lên hai cái đầu gối phình to như trái bưởi của thím, cho nó hút cái độc ra để làm dịu cơn đau.

Người làm chú xót xa nhứt là Nhu. Nhìn con đi ra, đi vào, lúc thẩn thờ khi lại bồn chồn, quên quên, nhớ nhớ mà chú nghe đứt từng đoạn ruột.

Vị cứu tinh trong gia đình chú thím Chín lúc nầy lại chính là Phục, bởi chỉ có chàng mới lấp khít cái khoảng trống mà Nghệ bỏ lại. Ngược lại với ngày trước, bây giờ Nhu tỏ ra rất quý mến Phục, khi mê cũng như khi tỉnh. Một lần trong lúc mê loạn Nhu bỗng ôm cứng lấy Phục mà gọi bằng chồng. Điều nầy khiến chàng vừa được an ủi, vừa hết sức đau lòng.

Phục đóng góp cả công sức lẫn tiền của để duy trì nếp sinh hoạt trong gia đình chú Chín. Không có Phục thì Nghĩa và Nhỏ chắc đã không thể theo đuổi việc học theo ngành chúng thích: Nghĩa muốn theo ngành kiến trúc ; Nhỏ chỉ muốn làm bác sĩ lẹ lẹ để chăm sóc má và chị của mình.

Gia đình chú Chín sống bám vào ruộng đất, thu nhập do ông trời định đoạt. Họa vô đơn chí, năm Nghệ mất cũng là năm mà lũ lụt tàn phá gần như toàn bộ ruộng vườn của chú Chín.

Để đủ tiền nuôi hai đứa cháu và thằng con trai út của mình hoàn thành việc học, chú Chín bất đắc dĩ phải dựa vào sự giúp đỡ của gia đình dì Sáu.

Trước đây Tím thường nghe mọi người trong nhà, nhứt là má chồng, kể về sự đùm bọc của gia đình chú thím Chín giành cho họ, nên cô không lấy làm khó chịu mà còn đóng góp hết sức mình. Nhờ vậy mà người ngoài cuộc vẫn cho rằng gia đình chú Chín tuy bị khổ nhưng chưa bị nghèo!

Những luống nấm mầu mỡ của Phục và tiệm may nổi tiếng của Tím khiến vợ chồng họ là một trong hai người đầu tiên sắm được chiếc cúp cánh én trong xóm Cầu Ván. Họ có đủ khả năng để trả ơn cho chú, thím Chín.

Phục giúp đỡ một cách âm thầm. Chàng căn dặn Nhân, Nghĩa, Nhỏ, bất cứ nhu cầu gì cũng cho chàng hay chớ không được hỏi xin chú Chín. Ngoài số tiền đóng học phí, tiền ăn ở, chàng còn dúi tiền tiêu vặt vào tay từng đứa, giúp chúng tập trung vào việc học, không phải lo làm thêm rồi sinh ra xao lãng. Điều nầy khiến chúng quyết tâm không được phụ lòng ân nhân mà phải học cho thật tốt. Cho dù cố đối xử với cả ba một cách công bằng, thế nhưng Phục không thể dừng được sự ưu ái Nhân hơn Nghĩa và Nhỏ. Tia mắt âu yếm và những cử chỉ săn sóc, sự quan tâm hết sức chu đáo của Phục, đã khiến Nhân vô cùng cảm động.

Phục và dì Sáu vẫn nhắc nhau hoài cái ngày đầu tiên hai mẹ con đặt chân đến đây. Chỗ ở đầu tiên, chén cơm đầu tiên của họ là do gia đình chú thím Chín cung cấp. Họ dặn nhau phải hết lòng đền ơn, đáp nghĩa. Họ thấy vui khi san sẻ cho gia đình chú Chín! Đối với Phục còn có một lý do hết sức sâu xa, khiến chàng hầu như thật lòng cám ơn trời đã giúp mình có được điều hằng mong mỏi.

Một hôm Nhu xuống sông tắm rồi bị vọp bẻ xém chết, cũng may út Xíu thấy kịp nên lật đật kêu to. Phục đang ngồi ăn cơm, buông đũa chạy bay xuống kéo Nhu lên bờ xốc nước. Chàng vừa làm vừa thét gọi tên Nhu, đến khi nước trong miệng cô ọc ra hết thì mặt Phục cũng ràn rụa nước mắt.

Xóm cầu Ván giờ đã có mạng lưới điện và nước đến từng gia đình, nhà thím Chín dĩ nhiên cũng có. Thế nhưng không biết vì tiết kiệm hay tâm trạng không bình thường mà Nhu cứ bưng thau đồ xuống sông giặt rồi tắm. Ai khuyên cách mấy cũng không được. Cái bệnh đó của cô khiến mấy lúc sau nầy Phục mang cái tật, hở hở là dòm xuống sông!

Để thím Chín và Nhu không suy nghĩ vẩn vơ, dì Sáu tới nhà thăm họ mỗi ngày. Dì thường mang quần áo Nhạn may cho khách đến để nhờ Nhu làm khuy, đơm nút, vắt lai...Nhu vốn thích may vá thêu thùa, nên làm rất hăng hái. Điều nầy giúp cô ổn định tinh thần và vui hơn một chút.

Kể từ ngày Nhạn về làm dâu, Nguyên bỗng thay đổi cách nghĩ, cách làm...Gia đình thầy Bảy hết sức đề huề, êm ấm. Bà con lối xóm cứ nhìn vào mà trầm trồ, khen hai cặp vợ chồng một già, một trẻ đó hợp mạng, hợp tuổi nên tài lộc, hạnh phúc bò vào nhà không ngớt!

Từ ngày Nhạn sanh đôi hai cô con gái, Nguyên không còn tha thiết với văn chương như trước nữa. Do phong trào học tiếng Anh đang lan đến xóm Cầu Ván. Chàng mở lớp dạy tiếng Anh tại nhà. Lấy học phí thấp, có khi còn miễn nên học trò rất đông. Nguyên được mọi người trong xóm gọi bằng thầy một cách kính trọng.

Dì Sáu vẫn nhớ cái lần mà thầy Bảy xúi mình sanh đôi hai đứa con gái, nên mỗi khi ổng chộn rộn dì hay xô ổng ra mà ghẹo:

-Ông có hai đứa cháu nội gái rồi còn đòi gì nữa?

Thầy Bảy nheo mắt ghẹo lại:

-Tui nói thích hai đứa con gái sanh đôi, chớ nói cháu nội hồi nào?

Thấy hai vợ chồng dì Bảy già rồi mà còn ngủ chung, thím Chín ngứa mắt, thím nói:

-Vợ chồng già còn đeo xà nẹo, hổng sợ con cháu nó cười sao?

Dì Sáu chống chế:

-Nhà nầy có ba buồng ngủ thôi hà! Tui với ổng một, tụi thằng Nguyên một, con Xíu với hai chị em con Nhàn con Nhả một. Hỏi còn chỗ nào mà ngủ riêng. Hổng lẽ đập nhà ra xây lại. Huống hồ gì ông Bảy bây giờ bị tăng xông. Bịnh nầy nghe nói máu lên cao nhứt từ cái lúc nửa đêm tới sáng. Bởi vậy tui phải lo dòm chừng chớ rủi có bề gì thì đói cả đám.

Thím Chín cười:

-Chị thương chồng thì nói đại đi, tui đâu có cười mà sợ. Cả cái xóm nầy ai mà hổng biết chị cưng chồng hạng nhứt. Nội cái chuyện ổng ngày càng có da, có thịt, tươi soi sói như tép mới xúc thì ai cũng biết chị nuôi ổng đầy đủ, cho ăn đủ món mà món nào cũng chan ngập mặt.

Dì Sáu biết thím Chín có ý ghẹo mình nên mắc cỡ đến đỏ bừng hai cái gò má, cúi gằm cái đầu xuống. Thím Chín thấy bộ tịch như con gái mới lớn của dì Sáu coi ngộ quá nên bật cười ngặt ngoẽo.

Những tiếng cười sảng khoái đó không còn nở như bắp rang trên miệng thím Chín nữa. Bây giờ họ hoàn toàn đổi vai cho nhau: Ngày xưa thím Chín nói cười luôn miệng, dì Sáu chỉ việc ngồi nghe thỉnh thoảng góp vào chút đỉnh, giờ thì đảo ngược đúng bon một trăm tám chục độ.

Điều nầy khiến dì Sáu đau lòng lắm! Dì bỗng đâm ra xích mích với ông trời vì cầu xin hoài mà ổng không chịu chiếu cố, cho thím Chín khỏe mạnh, vui tươi còn Nhu thì ổn định tâm lý như xưa.

Thấy thời cúng của dì Sáu ngày một dài thêm, thầy Bảy nói nửa giỡn, nửa thiệt:

-Bà làm cái gì mà rù rì với ông Phật lâu lơ, lâu lắc vậy? Đừng có bỏ tui mà đi theo ổng à nghe!

Dì Sáu chẳng những không nhích môi cười, còn nhíu chưn mày lại mà rầy:

-Tui cầu nguyện cho gia đình chị Chín được bình yên, mạnh khỏe. Ông đừng có nói tầm bậy, tầm bạ, cái rồi hết linh nghiệm mà còn mang tội dữ ngươi!

Thầy Bảy chặt lưỡi:

-Bụng dạ ông Phật rộng rãi lắm, đâu có như chai dầu gió trong túi áo của bà. Ổng mà chấp nhứt đủ thứ thì đâu còn sống tới giờ nầy mà làm Phật.

Dì Sáu lắc đầu:

-Càng già càng không nên nết, cái tánh ông như vậy nên con Xíu nó bắt chước.

Dì thở thêm một hơi thật dài, than:

-Con gái gì đâu mà cái miệng như tép lặn, tép lội. Chưa nói là cười...

Thầy Bảy lại càng khoái chí:

-Để rồi bà coi! Con gái của tui sau nầy không thua một đứa nào trong xóm. Đừng nói chi con gái, con trai cũng vậy. Bà ngó từ đầu trên cho tới mút xóm dưới đi. Đâu có đứa nào bằng nó. Con gái tui vừa sáng dạ, năm nào cũng được lãnh thưởng, mặt mũi hổng tệ mà nấu ăn cũng... khéo...

Dì Sáu ngắt ngang:

-Thôi ông đừng có khen nó mà tui phát rầu. Con gái gì mà lớn chồng ngồng còn chưa biết mắc cỡ. Suốt ngày tắm sông với tụi con nít. Còn leo trèo như khỉ nữa. Tui nói rồi đó! Ông mà không bắt cúi rồi đét cho một trận thì có ngày nó té lọi cẳng, uống nước trương sình cái bụng.

Dì "ứ hự " một cái rồi tiếp:

-Ông khen nó nấu ăn ngon làm tui mọc óc cùng mình. Nó mà vô bếp là tui rầu hết biết! Toàn là làm theo ý không hà! Pha trộn tùm lum, muốn bỏ cái gì là bỏ! Thuở đời nay chưng mắm cá lóc mà vắt nước cốt dừa đổ vô làm không ai ăn nổi. Uổng cái con mắm của tui quá xá cỡ!

Đây là lần thứ năm, thứ sáu gì đó, dì Sáu đem chuyện con mắm cá lóc ra dẫn chứng. Cái tánh cần kiệm đeo dì cho tới chết, dễ dầu gì chịu buông. Dì xót của, hể có dịp là nhớ rồi vừa nhắc lại vừa cằn nhằn. Huống hồ chi con mắm đó là của mợ Ba Sáng, người nổi tiếng làm mắm ngon nhứt xóm đem cho nên dì cứ tiếc hùi hụi!

Thầy Bảy nghe hoài nên tức mình, cự lại:

-Sao bà hổng nhắc cái vụ nó làm món gỏi ốc bu trộn xã ngon quá trời, quá đất! Còn cái món canh khoai ngọt chan nước cốt dừa ăn với dưa mắm...

Dì Sáu ngắt ngang:

-Nước cốt dừa, nước cốt dừa. Cái gì cũng bỏ nước cốt dừa, ăn ngán muốn chết. Cái món đó có một mình ông khen ngon chớ đâu ai nuốt nổi.

Thầy Bảy hậm hực:

-Rõ ràng bữa đó nồi cơm vét tới đáy. Ai cũng ăn tới no cành hông mà bây giờ nói vậy cho được.

Thầy nói với giọng bất bình:

-Nếu không chính mắt thấy con Xíu từ trong bụng bà chui ra, chắc tui tưởng nó là con xin, con lượm. Bà không có thương, không có nựng nịu con như mấy người phụ nữ khác. Nói chuyện với nó sẳng lè chớ không ngọt như với con Nhạn, con Nhàn, con Nhã. Hổng nói thì thôi mà mở miệng là hết la rồi rầy con nhỏ.

Dì Sáu cắt nghĩa:

-Con rức ruột đẻ ra ai mà hổng thương? Tại ông cưng nó quá trời, chìu nó hết cỡ! Tui mà hổng ghìm lại đặng nó trèo lên đầu, lên cổ mà ngồi, rồi ai chịu cho nổi đây?

Thầy Bảy bắt bẻ thêm:

-Cái chuyện nó thích nấu ăn, đáng lẽ phải mừng, phải khuyến khích để nó có tiến bộ. Đằng nầy hể con nhỏ làm món gì đem ra cũng bị bà chê dậm dề...

Dì Bảy thở dài:

-Nói thiệt với ông nghe! Tui, thằng Nguyên, con Nhạn kể cả con Nhàn, con Nhã nữa. Hể nghe nó lên cơn đòi vô bếp là rầu thúi ruột. Một lần ngon chớ chín lần không. Tại ông cứ khen đùa, khen đại cho nên nó tưởng đâu mình có cái tài nấu ăn thiệt sự, báo hại tụi tui khổ muốn chết!

Điều nầy không hẳn dì hoàn toàn phóng đại. Có những món Xíu dọn ra, như món mắm mà dì hay nói đó! Mới nghe mùi thôi mà ai cũng no ngang, không muốn cầm đũa.

Không ít lần Xíu xụ mặt, rơm rớm nước mắt hỏi thầy:

-Ngon hông ba?

Thầy Bảy thương con gái lắm! Bấm bụng mà nói một câu hết sức trái lương tâm:

-Ngon lắm con!

Rồi gắp một miếng thiệt bự bỏ vô chén, ăn ngắc ngứ y như gà nuốt dây thun.

Út Xíu được ông già tía cưng nên tánh tình tuy dễ thương nhưng hay ương bướng. Trong nhà, cô chỉ lớn hơn có hai đứa cháu nhưng lại nắm quyền sanh sát trong tay. Điều nầy khiến Nguyên bực bội. Tình thương dành cho cô em út của chàng ít có dịp khởi phát.

Một lần thấy mấy bức tranh lập thể của mình bị Xíu thẳng tay dẹp bỏ, thay vào đó là mấy bức ảnh chẳng có tí gì nghệ thuật. Nguyên hậm hực mét:

-Ba coi đó! Mấy bức tranh con vẽ đẹp thấy mồ mà nó đem bỏ, treo ba cái đồ ôn dịch nầy lên. Coi mà bắt xốn, bắt ngứa hai con mắt muốn chết!

Thầy Bảy an ủi:

-Thôi kệ nó đi con, nó là con gái, mai kia, mốt nọ phải về làm dâu nhà người ta khổ lắm. Con nhường em một chút đi mà, không có mất mát gì đâu. Tới chừng nó đi lấy chồng rồi con muốn làm gì thì làm. Ba hứa cho con thả sức, không có ngăn cấm chút xíu nào hết!

Nói như vậy để an ủi con trai chớ trong bụng thầy đã quyết. Sau nầy ai đi cưới con gái út của mình, phải chịu ở rể thì thầy mới gả.

Chuyện thầy Bảy cưng chìu cô con gái út một cách vô bờ, vô bến đã lan truyền khắp xóm. Ai cũng rỉ tai nhau là chỉ cái nết như con trai của mình, út Xíu đã khó lấy chồng rồi. Bây giờ lại kèm thêm một ông già vợ như thầy Bảy nữa, cho dù ổng có phết vàng khắp người cô cũng không ai dám rớ. Út Xíu e là sẽ ở giá tới già, tới chết.

Thầy Bảy tuy có nghe phong phanh, nhưng vốn tự hào về đứa con thông minh, lại có gương mặt đúng tiêu chuẩn "Mặt chữ điền tiền rưởi cũng mua" của mình, nên vẫn không nao núng. Hơn nữa con của ông chưa sanh ra mà đã có một chỗ hết sức ngon lành đặt cọc rồi nên đâu phải sợ cái giống gì!

Dì Sáu và thím Chín trước đây có ngoéo tay hứa hẹn làm xui. Họ rắp tâm cột út Nhỏ với út Xíu lại thành một cặp, nên thường nói bóng gió cho hai đứa để ý tới nhau.

Sự đời thường giống như nước chảy ngược. Hể họ càng xô hai đứa té sấp, té ngửa vô mình nhau thì chúng lại càng văng xa lắc. Hậu quả là chẳng những không út nào ưa út nào mà còn hết sức, hết sức kị nếu không muốn nói là ghét nhau. Cả hai đều tìm mọi cách để tránh mặt nên hể có đứa nầy là không có đứa kia.

Thấy dì Sáu lo, có lần thím Chín an ủi:

-Lo cái gì chị Sáu ơi! Ba thằng con trai nhà tui hổng lẽ chẳng đứa nào chụp dính ba đứa con gái nhà chị hay sao? Con Xíu nó không ưa thằng Nhỏ thì gả cho thằng Nhân cũng được. Có khi sáu đứa ráp thành ba cặp. Tụi mình làm sui một cụm chắc là vui hết nói nổi luôn!

Thím Chín nói oang oang, lúc ấy Phục đang ăn cơm cùng vợ, bỗng dưng nghẹn ngang. Y buông chén, buông đũa mà trợn trắng cả hai con mắt.

Tím vội vàng một tay bưng tô nước cơm đưa sát miệng, một tay vuốt ngực chồng lia lịa.

Thế là cái mầm lo sợ đã được gieo vào giữa trái tim của Phục, đâm rễ trổ cành từ hôm đó!

Tím thấy chồng phờ phạt hẳn đi từ ngày Nghệ mất, nên cho rằng anh quá đau lòng vì thiếu người bạn tâm giao. Rồi lại thêm Nhu sống dở chết dở, thỉnh thoảng lại nhầm chồng cô thành chồng cổ khiến Tím càng rầu thúi ruột. Dù biết Nhu chỉ "xài" đỡ trong lúc lên cơn, nhưng Tím vẫn thấy không thoải mái.

Tuy rất tin tưởng Phục, nhưng đôi khi bắt gặp tia mắt của chồng chiếu vào Nhu, Tím không khỏi tủi thân. Chưa bao giờ Phục nhìn Tím như thế. Cái nhìn không dành cho Tím mà không hiểu sao lại khiến cô xúc động đến đầm đìa nước mắt. Sự thương hại pha lẫn bực bội, hờn tủi khiến tâm trạng Tím thường kết thúc bằng một nỗi ăn năn.

Nhớ đến lời Nhu kể về Phục ngày nào, Tím càng thêm chua xót. Tự hỏi tại sao đối với Nhu, chồng cô là một tên đại dâm tặc mà đối với mình thì ngược lại. Sự háo hức chỉ có ở thời gian đầu rồi sau đó thì đều đều, giống y như những cái hạt tròn lẳn, bằng chan nhau trên xâu chuỗi.

Sự quan tâm thái quá của Phục đối với Nhu, chỉ biểu lộ bằng hành động chớ không bằng lời nói. Tím cố biện hộ giùm chồng với mình rằng chúng chỉ phát xuất từ tình người và lòng thương hại. Nhưng có đôi lúc cô phải nhìn nhận rằng nó bắt nguồn từ một cái gì sâu xa hơn thế. Cho dù từ ngày cưới nhau Phục chưa một lần nào tỏ ra có quan tâm khi cô nói về Nhu. Ngay cả khi Nghệ mất chàng cũng rất tránh đề cập về cái tai nạn thảm khốc đó. Không bày tỏ sự cảm thông như những người xung quanh, thế nhưng anh luôn có mặt kịp thời khi Nhu cần đến.

Đối với gia đình chú thím Chín, Phục bỗng trở thành một nhân vật quan trọng nhứt. Chàng tự động giành lấy cái bổn phận của người con trai cả. Phục thay chú Chín làm hết các việc đồng áng, để chú an tâm ở nhà săn sóc vợ con. Cái tai ương của nhà họ đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của Tím và Phục. Tím đâm ghen vì Phục mất hứng thú trong chuyện gối chăn. Tím tự hỏi có phải tại chồng cáng đáng nhiều việc hay vì tất cả sinh lực của anh đều trút cho Nhu. Cho dù cô biết rằng bên cạnh họ luôn có chú thím Chín, hai người ấy sẽ không để cho những chuyện như vậy xảy ra ngay trước mắt.

Không có cảm giác nào dày vò chúng ta bằng cảm giác bất lực. Tím bất lực trong việc củng cố niềm tin đối với chồng. Phục bất lực trước việc rủ bỏ mối tình của mình dành cho Nhu.

Cảm giác bất lực ấy nếu ở những người khác chỉ một thì chú Chín gấp đôi. Chú tưởng tượng như có một dòng thác, hay một ngọn lửa đang cuốn trôi, thiêu đốt người thân của mình còn chú chỉ biết đứng nhìn. Nỗi uất nghẹn hết sức cụ thể, khiến hơi thở không ra, vào một cách dễ dàng. Như có cả một tảng đá xanh đè lên ngực chú vậy. Nó đè bẹp luôn cái tính lạc quan lẫn cái tật thích đặt điều nói giỡn để cười của chú Chín. Hậu quả là mái tóc bạc đi một cách nhanh chóng và mấy nếp nhăn như những luống cày rạch sâu trên trán chú. Trong suốt thời gian đó chú chỉ cười có mỗi một lần, hùn vô với thằng con trai út khi nó báo tin đậu vô trường Y. Cái trường đại học khó thi vô hạng nhứt đó.

Cười xong là chú buồn liền. Nghĩ đến chuyện phải lo đóng tiền học, tiền ăn, tiền ở cho con mà cái cục rầu, cục lo, cứ đâm chú hoài thiếu điều muốn thủng ruột.

Chú Chín bán hết mấy bụi tre, mấy hàng so đũa của mình cho người ta làm cột. Món tiền đó được chú gom hết, đưa cho Nhỏ rồi dặn dò:

-Con cầm mớ tiền nầy mà xây xài. Ráng hà tiện, hà tặn cho đủ nghe con!

Chú đang nơm nớp lo. Chú sợ phải trông thấy gương mặt bí xị và lời cằn nhằn là "bây nhiêu đây là không có đủ", thì nghe nó nói:

-Ba đưa chi mà nhiều dữ vậy? Con lấy phân nửa thôi!

Chú Chín ngạc nhiên hỏi:

-Sao nghe nói đóng tiền trường nhiều lắm mà?

Nhỏ trả lời:

-Con được học bổng nên khỏi đóng.

Chú Chín lại càng ngạc nhiên hơn. Hôm trước nghe Nhỏ khoe với bạn là mình hên lắm, vừa đủ điểm để đậu. Chú có đi học nên biết. Muốn nhận học bổng phải là mấy người đậu cao chót vót.

Chú hỏi:

-Con được học bổng kiểu gì?

Nhỏ đáp:

-Nhờ thầy Bảy lo giùm cái giấy xác nhận là con nhà nghèo, đang gặp khó khăn, nên khỏi phải đóng tiền học một đồng nào hết!

Chú Chín sững sờ, không ngờ gia đình mình rớt hạng nhanh còn hơn dừa khô rụng. Cảm giác nhẹ lòng và xấu hổ đến cùng một lúc. Chú thở ra một hơi dài, bỗng ân hận vì trước đây mình không ưa mấy ông cán bộ. Chú đâu có biết người ban học bổng cho thằng Nhỏ lại chính là Phục.

Những người bị số phận chơi khăm, thường mất đi sự phán đoán sáng suốt mà họ từng có. Họ đâm ra nghi ngờ những điều đáng tin và tin tưởng những điều rất đáng nghi ngờ.

Chiều hôm đó khi thầy Bảy đến thăm bịnh cho hai mẹ con thím Chín. Thầy hết sức ngạc nhiên khi thấy chú Chín bắt tay thầy rồi không buông ra liền, giữ chặt cứng và nói bằng giọng nghẹn ngào:

-Tui cám ơn anh nhiều lắm, anh Bảy ơi! Không có anh chạy giùm cái giấy con nhà nghèo, chắc tui không cho thằng Nhỏ đi học nổi.

Thầy Bảy hết sức ngạc nhiên, vốn nhanh trí nên thầy liền xóa ngay cái bộ mặt chưng hửng của mình, lật đật kiếm chuyện hỏi để khỏa lấp liền:

-Chị Chín ngủ được hông? Hồi đêm còn than đau nhức nửa hông?

Chú Chín gật đầu:

-Từ hôm thằng Nhỏ thi đậu tới nay, bả vui nên có sức mà đẩy lui cái bịnh. Ngủ cũng nhiều, mỗi bữa ăn cũng bới thêm được một chén cơm.

Chú nói thêm:

-Một phần cũng nhờ cái món cẳng gà hầm tỏi của chị Sáu. Coi bộ bả hạp với cái món đó. Từ hôm ăn nó tới nay mấy cái khớp bớt sưng...

Chợt nhớ thầy Bảy là tín đồ tây y, chú ngưng bặt liền.

Thầy Bảy cười khà khà cho chú Chín khỏi ngượng.

Thầy nói:

-Coi bộ có ngày tui phải nhường cái chức "thầy thuốc" nầy cho bà vợ của mình quá! Hể gặp ai tới nhà chích thuốc là bả hỏi coi họ bị bịnh gì rồi chỉ liền mấy thứ thuốc lá, thuốc củ. Bả xúi họ xài rồi còn dụ thêm là người mình hợp với thuốc Nam, chỉ có người Tây mới hợp với thuốc tây. Kể ra bả nói cũng không sai, mấy món thuốc gia truyền coi vậy mà công hiệu như thần.

Thầy định nói thêm là năm chục phần trăm bà con, cho rằng họ có bịnh, thật ra là chỉ do tưởng tượng mà thôi, nhứt là ở những người giàu. Cho nên chỉ cần họ hết lòng tin tưởng vào thầy, vào thuốc là khỏi! Thế nhưng kịp thời ghìm lại vì không muốn thẳng tay đập bể cái nồi cơm của mình.

Ra khỏi nhà chú Chín, thầy Bảy gặp ngay út Nhỏ.

Nhỏ đứng khuất sau gốc gòn, đợi thầy Bảy nãy giờ. Vừa gặp mặt là Nhỏ nói liền:

-Bác Bảy làm ơn dừng xe cho con nói chuyện nầy một chút!

Thầy Bảy dừng xe lại rồi nói:

-Bây không kiếm tao, thì tao cũng kiếm bây mà hỏi coi chuyện chạy cái giấy con nhà nghèo là ra làm sao? Tao không có làm cái khỉ khô gì hết mà được cám ơn túi bụi làm mắc cỡ quá mạng!

Nhỏ dùng cả hai bàn tay mà gãi tưng bừng cái đầu hớt cua của mình rồi nói:

-Tại anh Phục biểu con đừng có xin tiền ba, để ảnh lo hết cho. Con phải nói là được học bổng. Con đậu bét bảng nên ba không tin, phải nói dóc là nhờ bác chạy cho cái giấy con nhà nghèo, khỏi đóng tiền trường. Có vậy thôi hà!

Thầy Bảy thở ra một hơi nhẹ nhỏm:

-Vậy mà bây không chịu nói trước. Ổng hỏi bất tử làm tao chới với, cũng may là ừ đại coi sao.

Nhỏ vừa bỏ tay xuống lại đưa lên gãi thêm một chập nữa, lần nầy chỉ xài một tay.

Nhỏ ta ra sức chống chế:

-Tại anh Phục biểu không được nói với ai cái vụ ảnh cho tiền. Chắc ảnh sợ tới tai chị Tím rồi bị chỉ cằn nhằn. Cũng may mà con nghĩ ngay ra cái cách đó. Con xin lỗi là đã làm liên lụy tới thầy.

Thầy Bảy nghe mà cảm động hết sức. Thầy thầm khen là mẹ con Phục ăn ở có tình, có nghĩa.

Mấy lúc sau nầy thầy thấy Nhạn bớt mua sắm cho hai đứa con, chi tiêu có phần dè sẻn, chắc cô cũng dành giụm chút đỉnh để đóng góp vào việc nầy.

Thầy nói giỡn:

-Bây cầm tiền của thằng Phục thì coi như chịu làm em rể của nó rồi, phải hông?

Nhỏ không đáp, mặt mày đỏ lựng. Bất giác lại đưa cả hai bàn tay lên gãi đầu sồn sột.

Thầy Bảy hiếm khi đem chuyện gã cô con gái cưng ra đùa. Cho dù dì Sáu và thím Chín hứa hẹn làm sui với nhau, khắp xóm chẳng ai không biết, thầy vẫn chưa hề mở miệng tán đồng hoặc phản đối. Cái nét mặt giả bộ thờ ơ nhưng ngầm chứa sự bất bình khi nghe cả nhà trêu út Xíu ấy, khiến dì Sáu không khỏi lo âu.

Ổng vốn hết sức thận trọng (thầy thuốc mà!), lại suy tôn con gái quá mức nên chưa thấy thằng con trai nào trong xóm xứng với út Xíu của mình, nhứt là út Nhỏ.

Thế sao bây giờ lại gợi ý, lại dẫn đường cho con hươu nho nhỏ chạy? Đó chẳng phải vì con đường trước mặt của út Nhỏ đã được phát bờ, dọn cỏ, trãi nhựa láng o rồi đó sao? Mấy năm nữa cậu ta sẽ ra trường, mang chức danh bác sĩ hẳn hoi. Bây giờ đã trở thành trai có ngọc nên phải nhanh tay chụp liền kẽo trễ!

Các bậc phụ mẫu cho dù thời trẻ có tiêm nhiễm những tư tưởng rộng rãi. Có mơ mộng, sống phóng khoáng...tới cỡ nào đi nữa. Khi làm cha, làm mẹ họ cũng trở nên rất, rất, rất ư thực tế!

Cái chất lãng mạn đã bị chính bản thân họ phung phí hết ráo! Cho nên những đứa con, đứa cháu, đừng có bày đặt sống theo cái kiểu "một túp liều tranh hai quả tim vàng". Đối với họ, hai trái tim vàng ấy phải đặt vào một túp lều bằng vàng và càng to càng tốt!

Thầy Bảy bất ngờ nhận ra nét phi phàm trong nét mặt, dáng dấp của Nhỏ. Chút cảm tình bằng đầu mũi kim mà thầy dành cho cậu ta bỗng phình to bằng cả một đại dương.

Rồi thầy bỗng lo, nhớ ra hình như hai đứa nầy hết sức ghét nhau. Phải gấp gấp tìm cách cải thiện, biến đổi cái ghét nầy thành thương mới được!

Xíu ghét Nhỏ thì tại sao không biết, chớ chuyện Nhỏ ghét Xíu cũng giống như lớp màng màng mỏng dính, ngụy trang trên mặt nước mà thôi!

Dòng sông thỉnh thoảng cũng bày đặt che đậy bản chất trong suốt của mình bằng cái lớp váng dầu đủ màu như cầu vồng. Những khi ấy chắc chắn trong lòng nó phải có chứa một thứ vô cùng quý giá.

Con nít ở nông thôn -hổng chừng con nít thị thành cũng vậy- hể bị cặp đôi là mắc cỡ dữ lắm. Chúng tự vệ bằng cách chối đây đẩy, có khi còn thề bán mạng:

-Tao mà có thương cái thằng (con) nhỏ đó cho bà bắn nát óc!

-Nó xấu hoắc hà, ai mà ham?

.....

Chúng còn nói xấu, chê, có khi chửi cái đứa bị ghép với mình một cách thậm tệ.

Có đứa phản ứng quá kịch liệt đến nổi lộng giả thành chơn. Mối ác cảm ấy càng ngày càng bành trướng, khiến cả hai chẳng thể dòm mặt nhau. Có khi còn ảnh hưởng đến tận đời con, đời cháu.

Cũng có những đôi ghét quá hóa thương. Họ dám vượt qua vòng lễ giáo để đến với nhau khiến gia đình, họ hàng, bà con lối xóm cùng chới với.

Bạn bè lấy làm lạ, hỏi họ là tại sao khi khổng, khi không, đang ghét nhau một đống bỗng trở ngược lại, thương sống thương chết... Họ chẳng giải thích nổi bèn đổ thừa cho ông trời.

Cũng may là trên đời nầy còn có một ông trời!

Ngẩm ra ở đời, tình cảm là cái thứ tráo trở, hai mặt nhứt từ xưa đến nay. Người ta thương nhau một thời rồi ghét nhau một đời, hoặc ngược lại.

Những người duy trì một mối tình bất biến trong lòng mình, có thể được xem như một vị anh hùng, hay bị coi như khùng, tùy theo từng trường hợp.

Có lẽ khôn ngoan nhứt, an toàn nhứt là cả hai nên cư xử theo kiểu tiền trao, cháo múc. Hể ai thương mình bao nhiêu thì thương lại bấy nhiêu, đừng có "cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu", đòi lại không được rồi cả đời cứ tức ấm ách! Có người còn hăm kiếp sau sẽ tìm gặp cho bằng được, rồi tính cả vốn lẫn lời!

Câu nói của thầy Bảy khiến Nhỏ đưa tay khỏa lớp màng màng bên trên, nhìn sâu tận đáy lòng mình rồi phát hiện có một viên ngọc rất trong nằm sát đáy.

Gương mặt của út Xíu, Nhỏ nhớ là hiếm khi họ đụng mặt nhau lại hiện lên hết sức rõ ràng. Như thể cô ta đang đứng ngay trước mặt, với mái tóc bom bê và cái đồng điếu nhỏ xíu chỉ hiện ra nơi khóe miệng khi cười. Nhỏ bỗng tự hỏi sao cái mặt dễ thương đến vậy mà trước đây mình không nhận ra vậy trời!

Nhỏ nghe hối hận tràn trề về những hành động, lời nói dại dột của mình, bỗng ước ao út Xíu gặp một cái tai nạn gì đó, như té sông chẳng hạn... Rồi được mình cứu như anh Phục cứu chị Nhu hôm nào. Chợt nhớ hồi xưa Xíu thi lội với đám con gái trong xóm lúc tắm sông, lần nào cô cũng thắng, mà Nhỏ ngán ngẩm quá chừng! Tự an ủi rằng hãy đợi đó, trên đời nầy còn thiếu gì tai nạn.

Xíu thì khác, ghét thiệt tình chớ không có giả bộ như Nhỏ, bởi có một lần con Lan, con ông thầy giáo Huế (ông thầy nầy người Huế) có mét với Xíu là: "Xíu ơi! Thằng Nhỏ nó nói cái mặt của mầy giống cái bãi cứt trâu có xâu bảy lỗ". Con gái, cho dù con gái mới chín, mười tuổi, bị chê ngay chóc cái mặt là đều căm hận thấu xương!

Trong ba anh em, cậu cháu: Nhỏ, Nhân, Nghĩa. Xíu chỉ tiếp xúc, trò chuyện nhiều với Nhân. Nhân vốn chững chạc, ra dáng đàn anh lại được công nhận là học giỏi nhứt trường. Anh là niềm tự hào của gia đình nói riêng và của đám con nít xóm cầu Ván nói chung.

Xíu rất hãnh diện khi có dịp khoe với mấy đứa bạn, nhà mình với nhà Nhân có quen với nhau. Bà ngoại Nhân thân với má của mình tới cỡ nào! Xíu không quên kể thêm rằng, khi mình vừa được sanh ra lúc còn đỏ hỏn, chính bà chớ không phải má, tắm cho cô mỗi ngày. Cô đã được bà "móc miếng". Muỗng bột đầu tiên của cô cũng do bà đút. Cái tên Xíu của mình là do bà đặt cho...

Tụi bạn liền nhìn Xíu bằng cặp mắt ngưỡng mộ (người thân của thần tượng mà!). Chúng bèn hỏi có phải nhờ được Nhân dạy mà Xíu học giỏi tới vậy. Cho dù điều nầy không hề đúng nhưng Xíu chẳng những không thèm đính chánh mà còn gật đầu một cách rất đỗi tự hào.

Xíu càng khâm phục hơn khi cái lần Nhân đến nhà báo tin với thầy Bảy là mình đã đậu vô đại học Nông Lâm. Xíu nghe ba cô hỏi Nhân là:

-"Sao bây học giỏi như vậy mà không thi vô trường y?"

Nhân khiêm tốn đáp:

-"Con muốn làm kỹ sư canh nông, để săn sóc lúa, săn sóc cây cối, ngừa mấy con sâu, con rầy... Giúp cho không cây nào bị chúng gậm trơ xương, chẳng còn trổ bông được nữa".

Ba của Xíu khi nghe Nhân trả lời như vậy thì ra vẻ ưng bụng lắm! Khi Nhân đi rồi, trong bữa cơm ngay sau đó, ông liền nói với má Xíu và cả nhà:

- "Ba thằng con trai bên nhà chị Chín, lẩm rẩm mà thằng Nhân là đứa có lòng nhứt ".

Cái thời buổi mà chữ "lý tưởng" đã bị cái lý của "tiếng" và "tiền" triệt tiêu, thì cái quyết định không thi vào trường Y của Nhân được coi là "dũng cảm" hoặc "khờ dại" tùy theo quan điểm của từng người.

Trường đại học Y, đang là cái đích mà hầu hết phụ huynh đều nhắm cho con em mình. Cái ưu điểm vừa có lợi lẫn có danh của dân áo choàng trắng khiến mọi người lóa mắt. Hầu hết học sinh ưu tú đều bị nó thu hút y như đám thiêu thân bay quanh bóng đèn.

Điều nầy cũng phải thôi! Bởi không hiểu tại làm sao mà người ta càng giàu lên thì bệnh tật càng nhiều. Những ngành nghề ăn theo chúng hầu như ai cũng ăn nên làm ra. Người thì giàu nhờ có tài, cũng có người (hổng chừng đa số) giàu nhờ có tội!

Những tên học trò rất lười, biết chắc rằng mình chẳng có chút hy vọng đậu vào bất cứ trường đại học nào, bèn ghi danh thi vào trường y. Chúng thấy có lỗi vì phung phí tiền bạc, công sức, mơ ước của ba má đầu tư vào mình, nên nghĩ: "Dù sao cũng rớt, thôi thì thi đại vô trường Y để an ủi "ổng, bả" một chút". Chúng là những đứa biết suy nghĩ nhứt, có hiếu nhứt. Do vậy mà tội của chúng cũng bị xử nhẹ hơn, có khi còn được tha bổng. Bởi khi ông bà, cha mẹ chúng trả lời với bàn dân thiên hạ rằng "con tui rớt trường Y", nghe cũng oách, cũng sang...Họ chắc chắn không bị xem thường như những người có con thi rớt mấy cái trường A, B, C...nào đó!

Xíu khâm phục sự lựa chọn, quyết sống theo lý tưởng của Nhân sát đất. Vầng hào quang của anh trong lòng cô ngày một chói chang, thế nhưng cô không nghĩ về anh nhiều lắm. Chỉ đến khi thầy Nghệ ba của Nhân, cũng là thầy của Xíu, vì cứu người mà chết thì lòng cảm thương, khâm phục dành cho ông, cùng gương mặt tràn đầy đau khổ của Nhân mới khiến Xíu rung động tận đáy lòng!

Vốn theo dõi xít xao những vấn đề có liên quan đến Nhân. Những tín hiện của Xíu phát ra dành cho Nhân đã bị Phục phát hiện ngay lập tức. Vì vậy mà gương mặt của Phục luôn mang nét đăm chiêu, lo lắng, buồn rầu...Điều nầy khiến Tím cho là do Nhu, thế là những nét ấy cũng xuất hiện trên gương mặt của cô.

Đây là thời kỳ mà gió liên tục xoáy trên căn nhà của Phục và Tím. Dù trông nó rất kiên cố với bốn bức tường đã được xây bằng gạch, thế nhưng chẳng biết cái mái tole sẽ bị tốc lúc nào!

Về phía Nhân, Phục yên tâm hơn, ngoài công việc hình như Nhân không quan tâm đến điều gì khác.

Rất nhiều lần Phục tìm hiểu, nói xa, nói gần mà chẳng nghe Nhân trả lời cho yên bụng.

Một hôm Phục hỏi thẳng:

-Con có thương ai chưa Nhân?

Nhân gật đầu:

-Có!

Phục nghe thót tim một cái, chàng hỏi:

-Ai vậy?

Nhân cười:

-Nhiều lắm!

Phục gặng:

-Con thương ai nhứt?

Nhân đáp:

-Ba và ông ngoại!

Rồi nói thêm bằng giọng bùi ngùi:

-Thấy ông ngoại rầu con lo lắm! Hình như con đã linh cảm về những chuyện không may sắp xảy ra cho gia đình mình. Con thấy ba con buồn vì phải sống nương nhờ vào ông bà ngoại, nên con học nhảy để mau ra trường. Lập thân lẹ lẹ cho ba vui sớm hơn một chút. Nào ngờ chưa được khoe đồng lương đầu tiên của mình thì ba đã chết.

Phục nghe xót như bị ai rắc muối vào mắt, chàng an ủi:

-Ba con lúc nào cũng hãnh diện về con. Từ khi con còn nhỏ cho tới bây giờ.

Nhân nức nở:

-Con biết mình không phải là con ruột của ba. Vậy mà ba thương con còn hơn thằng Nghĩa...

Phục hết hồn, ngắt ngang:

-Ai nói mà con biết?

Nhân đáp:

-Mấy đứa bạn của con cho biết lúc con còn nhỏ. Tụi nó nói ba ruột làm má con có bầu rồi bỏ trốn qua Mỹ...Con còn gặp bà hai Thọ nữa. Bả có cho tiền rồi xưng là bà nội của con.

Phục hỏi:

-Bả gặp con khi nào? Con có lấy tiền của bả hông?

Nhân lắc đầu:

-Lúc con mới lên Sài gòn học, bả có tìm tới ký túc xá. Bả nhét tiền vào tay rồi năn nỉ, con nhứt định không lấy. Bả khóc quá chừng rồi không tới gặp con nữa!

Phục khen:

-Đừng có lấy nghe con. Con mà làm vậy là ba con buồn lắm!

Chàng cố ý không gắn thêm tên của Nghệ vào kế chữ "ba".

Nhân gật đầu, nói tiếp:

-Bây giờ con chỉ muốn làm sao cho má và ông bà ngoại vui lòng thôi! Con ráng gánh bớt việc nhà cho ông ngoại đỡ cực chớ không để ý tới chuyện gì nữa hết.

Phục hỏi tiếp:

-Có đứa con gái nào viết thơ hay nói tận mặt là thương con chưa?

Nhân đáp:

-Con có nhận được vài lá thơ, rủ đi uống nước mà con không có đi. Còn chuyện mấy cổ gặp mặt tỏ tình thì chưa có cái hân hạnh đó?

Phục nghe loáng thoáng rằng hiện tượng con trai thương con trai, con gái thương con gái đang lan rộng ở Sài Gòn nên hỏi một cách lo lắng:

-Bộ con không thích con gái hả?

Nhân hiểu ý của Phục nên nói:

-Chú Hai đừng có lo, con không có cái máu "pê đê" đâu!

Rồi như để giúp Phục yên tâm hơn, Nhân nói:

-Con chưa có làm gì được để trả ơn cho ông, bà ngoại. Con tính để ông bà quyết định chuyện hôn nhân của mình. Hể ông bà chọn người nào là con ưng người đó, cho ông bà vui.

Câu trả lời đó càng làm Phục lo bấn lên, bởi có lần Phục nghe thím Chín nói, nếu Xíu và Nhỏ không ưa nhau, thì cưới Xíu cho Nhân cũng được.

Sau mấy ngày suy tính Phục liền nghĩ đến dì Sáu. Lúc hai mẹ con cùng ngồi hái nấm bên nhau, Phục nói:

-Thằng Nhỏ đậu vô trường Y, chắc nhiều nhà trong xóm muốn làm xui với chú thím Chín lắm đó má!

Dì Sáu cười:

-Ai mà hổng biết má với thím Chín bây hứa làm sui! Mở miệng coi sao đặng?

Phục cãi:

-Cái chuyện đó coi như nói cho vui, ai nói mà hổng được? Muốn chắc ăn phải có một, hai cái lễ. Bên mình với bên nhà chú Chín phải thông báo cho bà con biết là hai đứa nó có nơi, có chỗ rồi, để họ đừng có...

Dì Sáu hỏi lại:

-Sao tự dưng con để ý tới cái chuyện nầy dữ vậy?

Phục xuống giọng, hỏi nhỏ:

-Bộ má hổng thấy con Xíu nó đang để ý thằng Nhân hay sao?

Dì Sáu nhìn Phục đăm đăm, coi y nói thiệt hay nói chơi. Thấy gương mặt "trầm trọng" của con, dì liền tin ngay, suy nghĩ giây lâu rồi hỏi:

-Chắc hông? Sao con biết?

Phục đáp:

-Mấy lúc sau nầy con thấy nó hay ghé nhà chú Chín lắm! Gặp lúc có thằng Nhân ở nhà thì ngồi lại nói chuyện cả tiếng đồng hồ mới chịu về. Cái giọng cũng dẻo ngoẹo, không có đâm hơi như trước.

Rồi chàng hỏi lại:

-Bộ má không thấy lúc nầy nó chịu chưng diện rồi sao?

Dì Sáu giựt mình, nhớ ra hôm qua con Nhã hỏi Xíu:

-Sao cô Út hay chải đầu quá vậy?

Dì thở ra rồi nói:

-Sanh con ai dễ sanh lòng. Cái con nhỏ đó nó cứng đầu lắm, khó mà ép...

Phục cự:

-Má nói như vậy sao được? "Áo mặc sao qua khỏi đầu", cái chuyện hệ trọng như vầy phải do cha, mẹ quyết định chớ. Sao hồi đó má bắt con phải cưới con Tím cho bằng được, còn bây giờ...

Dì Sáu cự lại:

-Tại má thấy nó giỏi giang, có nết na với lại sắc vóc nên mới ép.

Dì bỗng thở dài, nói như xin lỗi:

-Ai mà biết nó không sanh đẻ được.

Rồi dì an ủi:

-Cái chuyện đó đâu có ai muốn? Coi như trời kêu ai nấy dạ. Con với nó tuy là không có hào con, nhưng ông trời bù cho cái hào của. Bởi vậy đừng có trách móc, cằn nhằn hoài mà mang tội. Để rồi má kêu con Nhạn cho bớt tụi bây một đứa. Hồi đó nó có hứa mà!

Phục lắc đầu:

-Dễ gì thằng Nguyên nó chịu. Tụi nó cưng hai đứa nhỏ như vàng. Phải chi nó còn sanh thêm được thì hổng nói gì, đằng nầy nó bị mổ bỏ dạ con, có hai đứa làm vốn thì làm sao mà cho?

Dì Sáu nói:

-Hay con nói với con Tím, cho con đi "đặt lộp" chỗ khác, kiếm một đưa đem về nuôi để sau nầy đỡ tay, đỡ chưn.

Phục lắc đầu:

-Làm vậy vợ con còn buồn thêm, tội nghiệp nó!

Dì Sáu buồn hiu:

-Má nôn có cháu nội hơn ai hết! Vậy mà ông trời cho bồng con chớ không được bồng cháu.

Phục quay về chủ đề cũ:

-Má bàn với thím Chín, làm đại cái đám nói cho thằng Nhỏ với con Xíu đi.

Thấy dì Sáu không trả lời, phục hăm:

-Để mai mốt nó làm bác sĩ rồi là không tới tay mình đâu. Mấy đứa con gái Sài gòn vớt hết. Tới chừng đó đừng có ngồi mà chắc lưỡi hít hà.

Phục không kềm được nên nói có hơi hỗn, khiến dì Sáu bất mãn.

Dì sẳng giọng:

-Bộ thằng Nhỏ hổng đi cưới thì con Xíu chết hay sao mà sợ? Nói thiệt chớ nó lựa thằng Nhân là cũng có con mắt nhìn người. Thằng Nhân coi bảnh tỏn hơn, nói năng, cư xử cũng đàng hoàng hơn...

Phục lật đật phản đối:

-Má nói vậy nghe sao được? Hổng lẽ hai nhà làm sui tréo ngoe. Tới lúc đó má kêu cô Nhu bằng chị sui, rồi kêu chú thím Chín bằng bác thì nghe sao cho được?

Dì Sáu nói:

-Ban đầu thấy kỳ chớ nghe riết rồi cũng êm. Hai bên chỉ là người dưng với nhau. Đâu có ruột rà, máu mủ gì đâu mà sợ thiên hạ kêu rêu.

Phục nhìn dì Sáu đăm đăm. Liếc thấy gương mặt dì lộ vẻ cứng cỏi, quả quyết anh bất giác rùng mình. Dì Sáu không biết Phục đang quan sát mình, vẫn đều tay gỡ từng cái nấm ra khỏi lớp rơm phủ trên mặt đất. Trông dì thật thản nhiên, giống như người vừa giẫm phải con kiến rồi bỏ đi luôn, không chút áy náy.

Phục nói bằng giọng đau đớn:

-Làm như vậy tội lắm má ơi!

Dì Sáu hình như quên tuốt câu chuyện cả hai vừa nói, dì ngạc nhiên hỏi:

-Chuyện gì mà tội?

Phục thều thào như sắp tắt thở:

-Chuyện gả con Xíu cho thằng Nhân đó!

Dì Sáu bỗng linh cảm có một chuyện tày trời đã xảy ra mà mình không biết.

Dì thảng thốt:

-Tại sao mà tội?

Phục lặng thinh, không khí bỗng dưng đặc quánh lại khiến cả hai cùng khó thở. Dì Sáu nhìn trừng trừng vào gương mặt con trai. Dì hoảng hốt khi thấy nét thống khổ khắc sâu lên đó. Phục mở đôi môi đang mím chặt ra, nhìn dì Sáu giây lâu rồi từ từ khép lại. Dì Sáu chợt rùng mình, dì cũng hé môi ra định nói, định hỏi một điều gì đó mà rồi im bặt.

Phục nhắm mắt lại, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra rồi bỗng thở một cái thật mạnh, chàng nói:

-Tụi nó là cô cháu ruột đó má ơi!

Hai bàn tay Phục buông thõng khi thốt ra mấy lời đó! Thế mà dì Sáu có cảm giác như thằng con trai đang tay đinh, tay búa, giáng một cái thật mạnh vào chính giữa trái tim của mình.

Dì Sáu dùng hết sức lực, cung tay lại mà đập thật mạnh lên lưng Phục. Hành động ấy đồng thời phá vỡ lớp không khí đang đóng băng quanh họ.

Vừa nghiến răng, dì vừa rủa:

-Đồ khốn nạn.

Tất cả sinh lực trong người dì Sáu như thể bị mặt đất dưới chân hút cạn. Dì ngồi bệt lên luống nấm mà khóc ròng.

Nước mắt vẫn còn chảy lênh láng trên mặt khi dì hỏi:

-Tại sao mầy bất nhơn dữ vậy hả cái thằng ác ôn kia?

Phục không dám ngước mắt nhìn dì, cúi mặt đáp:

-Tại con thương cổ.

Dì Sáu nghiến răng:

-Thương sao không nói để tao đi hỏi, đi cưới cho đàng hoàng, mà hại con người ta như vậy?

Phục không muốn dì Sáu thấy hai giọt nước mắt đang lăn trên má mình, cúi mặt sâu hơn mà nói:

-Con đâu có tính làm như vậy, mà rồi ma xui, quỷ khiến...

Rồi chàng kể cho dì Sáu nghe cái việc mà mình nghe trộm rồi biết Nhu hẹn Thụ ra chòm má tối hôm đó, rồi đi theo rình, Thụ không tới thế là...

Dì Sáu hỏi:

-Bộ nó không có chống cự gì hay sao?

Phục lắc đầu:

-Chắc cổ tưởng con là thằng Thụ.

Dì Sáu hỏi bằng giọng tức tối:

-Tại sao mầy không nói cho tao biết đặng sớm cưới nó cho mầy?

Giọng Phục đã trở nên nghẹn ngào:

-Con đâu có biết là cổ có thai rồi được anh Nghệ cứu liền tay như vậy!

Vẻ ủ rủ của con trai làm dì Sáu đau lòng.

Dì lại nức lên:

-Phục ơi là Phục! Bây giờ làm sao má dám dòm mặt anh Chín, chị Chín nữa hả con? Cái tội nầy nặng lắm con ơi! Mầy có chết cũng không được đầu thai nữa đâu!

Phục cũng nức lên theo dì:

-Má ơi! Má cứu con, đừng có để con Xíu với thằng Nhân tụi nó thương nhau. Tới chừng đó con còn mang thêm tội tới lút đầu, lút cổ.

Dì Sáu thở dài:

-Bộ một mình con có tội hay sao? Má không biết dạy con, chắc còn bị phạt gấp hai!

Dì nói một mình:

-Bây giờ làm sao cho con Xíu nó thương thằng Nhỏ mà ghét thằng Nhân đây trời?

Phục nói:

-Má coi chỗ nào được, xúi chú thím Chín đi cưới cho thằng Nhân đi má!

Dì Sáu hỏi lại:

-Chỗ nào bây giờ?

Dì đem bộ nhớ ra rà lại một lượt, moi tất cả các gương mặt của những cô con gái chưa chồng không chỉ trong xóm Cầu Ván ra rồi nói:

-Khắp xóm mình ngộ nhứt là con Xao, con chị Năm Xuyến chủ tiệm vàng Tân Phú. Ngặt nổi ba con nhỏ đó có bà con với nhà Hai Thọ.

Phục nói:

-Đâu có sao? Má xúi đại đi.

Dì Sáu lắc đầu:

-Bộ con hổng biết là khắp cái xứ nầy, ai cũng tưởng thằng Nhân là con thằng Thụ hả? Mình xúi bậy bị ảnh chỉ cười cho thúi đầu đó!

Phục ngần ngại:

-Hay là...con Lý con gái lớn của chú Ba Dìm... Con nhỏ đó giỏi nhứt xóm mình đó má!

Dì Sáu lắc đầu nguầy nguậy:

- Bộ hết người hay sao mà con nhắc con nhỏ đó. Nó ngộ thiệt, giỏi thiệt nhưng ảnh chỉ không làm sui với dân lái bò đâu, cho dù họ giàu tới cỡ nào!

Phục nhắc:

-Hay là con nhỏ gì cao cao, con ông chủ trại hòm Vĩnh Thọ!

Dì Sáu lắc đầu:

-Con nhỏ đó ốm quá! Nhà nó bán hòm, nghe nói họ hay nhảy vô hòm nằm để trù cho có người chết. Nhà đó coi mòi có nhiều âm binh lãng vãng, không được đâu!

Phục kể tiếp:

-Hay là con gái út của chú Tám lò rèn?

Dì Sáu ngạc nhiên nhìn Phục. Dì hỏi giọng răn đe:

-Sao mà mầy nhớ hết con gái trong xóm nầy vậy? Tao còn chưa biết mặt con nhỏ đó nữa!

Phục lật đật giải thích:

-Hôm bữa con đưa vợ đi Sài Gòn, có ngồi xe đò chung với nó. Nghe nó nói chuyện với vợ con, xưng tên gì đó mà con quên rồi, chỉ nhớ là con gái út của chú Tám. Nó ăn nói mềm mỏng lắm, nghe nói đang học cái trường dạy làm răng ở Sài Gòn đó má!

Dì Sáu hỏi lại:

-Nó học nghề trồng răng hả con? Cái nghề nầy coi bộ được đó! Nó coi có ngộ hông?

Phục đáp:

-Coi được chớ không ngộ lắm! Hơi có da có thịt.

Dì Sáu chợt nhớ ra rồi nói:

-Thôi má nhớ ra rồi! Con nhỏ đó ú nu hà! Bây giờ tự dưng ai cũng cầu ốm, không còn bà má chồng nào thích lựa dâu mập như hồi xưa nữa đâu...

Phục cố vớt vát:

-Biết đâu mai mốt có chồng, có con rồi nó ốm lại mấy hồi, nhà chú Tám cũng nề nếp, khá giả đâu thua ai. Con nhỏ đó coi bộ hiền nhứt trong cái đám con gái xóm mình.

Dì Sáu nói như than:

-Con hổng biết chớ bây giờ cái mặt, cái mình quan trọng lắm. Cái tánh, cái nết có nhầm nhò gì...

Phục lại hỏi:

-Má có biết cái cô ốm ốm hay ngồi ở cái chõng trước nhà cô Năm để chờ đò hông?

Dì Sáu hỏi lại:

-Phải con nhỏ làm cô giáo, có lần bị té xuống nước, chiếc dép lún xuống bùn rồi nhờ cả đám học trò nhảy xuống mò giùm đó hông!

Phục gật đầu, dì Sáu nói:

-Con nhỏ đó coi bộ mít ướt quá! Cô giáo gì mà bị mất dép thôi mà khóc hu hu, làm tụi học trò phải xúm lại dỗ. Coi bộ nhà cũng nghèo, mất có chiếc dép mà bắt học trò mò cho bằng được.

Rồi dì hỏi Phục:

-Bộ từ trước tới giờ con lo để ý lựa dâu dữ vậy sao?

Phục thở dài:

-Mới mấy ngày nay hà má ơi! Từ cái lúc thấy con Xíu...

Dì Sáu nhìn kỹ con, thấy gương mặt Phục phờ phạt, tóc râu tua tủa...Dì bỗng nghe xót ruột quá đỗi, cơn giận đem xài xã láng từ nãy, còn chút đỉnh bây giờ liền tiêu tan, mối lo không có cháu nối dõi cũng thế. Dì nhủ thầm:

-Đúng là một giọt máu đào hơn ao nước lã. Bởi vậy ông trời mới xui khiến, hồi nó mới sanh ra, vừa thấy mặt là mình nghe thương liền. Con nít trong xóm thiếu gì, chỉ nựng nịu sơ sơ thôi chớ đâu có gắn bó, khắng khít, hun hoài hổng biết chán như thằng Nhân.

Niềm tự hào bỗng dâng lên ngùn ngụt trong lòng. Dì Sáu chợt nhận ra Nhân có nhiều điểm giống Phục quá! Cái tội tày đình của Phục được dì sáu thay dần bằng cái công to như trời biển.

Dì vạch ra cho Phục thấy để an ủi:

-Nghĩ đi, nghĩ lại nhờ con làm ẩu như vậy mà bây giờ má mới có được một thằng cháu trai hết sức ngon lành. Cháu của má học giỏi nhứt xóm, hiền lành lễ phép, bà con trong xóm ai cũng khen.

Rồi dì chắc lưỡi:

-Tội nghiệp chị hai Thọ với thằng Thụ quá, khi không mà nhảy vô chịu tội thay cho má con mình. Thằng Thụ cũng tốt quá, không có cãi, chối gì hết...

Phục tiếp thêm:

-Ảnh còn nhờ anh Nghệ đi cưới Nhu giùm mình nữa đó má!

Dì Sáu trợn tròn cặp mắt mà hỏi:

-Thiệt vậy sao?

Phục gật đầu:

-Ảnh tính mai mốt về cưới cô Nhu cho nên cả năm trời anh Nghệ với cô Nhu đâu có ăn ở với nhau. Tới chừng ảnh bị thương, rồi được cô vợ bây giờ săn sóc, họ lấy nhau rồi báo cho anh Nghệ biết. Từ đó mới...

Dì Sáu chắt lưỡi thêm một lần nữa:

-Phải chi lúc đó mình biết thì còn kịp...

Câu nói của dì nghe như lời trách.

Phục thở dài, không đáp.

Chuyện tìm vợ cho Nhân bị gián đoạn liền vì ngay hôm sau một tai nạn đã xảy ra...

Ông bà ta đã từng báo trước "phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Hai con ma một xui, một rủi chơi với nhau rất thân nên đi đâu cũng cặp kè.

Buổi trưa ấy, khi Phục và dì Sáu cùng ở ngoài đồng. Họ vẫn hái nấm và bàn tiếp về việc đang khiến họ đau đầu nhứt. Đó là làm sao tách rời hai cái mối dây sắp bện vào nhau, ra xa lơ, xa lắc.

Vào thời điểm nầy nhà chú thím Chín cũng như những căn nhà khác trong xóm Cầu Ván, cùng ngưng hết mọi hoạt động. Chú Chín nằm trên cái võng trước hiên, thím Chín nằm cái võng sau bếp, cả hai cái võng và họ đều ngủ rất say, đều im ru như bị điểm huyệt.

Trời nắng gắt gao, Nhu nghe nóng trong mình chịu không nổi. Cô bèn lấy cái thau bỏ cục xà bông, cái khăn, bàn chải chà chưn vào rồi bưng xuống bến để tắm.

Từ ngày Nhu chết đuối hụt, cô Năm bán tạp hóa và chị Cà chèo đò luôn để mắt canh chừng cái bến. Hể thấy có Nhu là báo cho người nhà biết liền để xuống dắt lên.

Thế mà hôm ấy! Cái bến sông vắng teo đã đành mà cái chõng trước nhà cô Năm, thường ít khi nào vắng khách, người ngồi chờ đò hoặc mấy đứa con nít bán bánh tai yến, chuối chiên, hay ngồi thường trực ở đó... cũng không! Tai họa vốn có tính kiên nhẫn, chờ đúng dịp nầy lặng lẽ chui vào...

Nhu để cái thau lên cầu, mặc nguyên bộ đồ thun bông tím mà nhảy xuống nước. Cô lội lên, rồi lội xuống... Hết hụp thật sâu để xước cái đuôi gà cho thật đẹp, rồi nằm thả tàu ngắm mấy đám mây trên trời. Có lẽ cô đang quay về thời kỳ thơ ấu của mình. Tâm trí hết sức thảnh thơi, tràn ngập một niềm vui vì được thỏa sức giỡn nước.

Một bè lục bình trôi ngang qua, mấy chùm hoa tím lung lay trên sóng. Nhu bỗng nhớ đến một người con trai hay hái bông lục bình cho mình, liền bơi ra để hái và gọi to:

-Anh Thụ ơi! Hái bông lục bình cho em đi!

Tên của người con trai được lập lại thêm một lần nữa, thất thanh:

-Anh Thụ ơi! Anh Thụ ơi!

Rồi mất hẳn...

Bên kia sông, chiếc đò của chị Cà đã tách bến và đi đến giữa dòng. Chị nghe và thấy cái cảnh đó nên la làng chói lói:

-Bà con ơi, cô Nhu chết đuối, cô Nhu chết đuối nữa kìa!

Chị Cà gắng sức đẩy mái chèo vùn vụt rồi lật đật trao cây chèo cho cô giáo Lành, người khách duy nhứt đang ngồi trên đò mà phóng cái ào xuống nước.

Cô giáo Lành vừa chèo vừa kêu thất thanh liên tục:

-Có người chết đuối! Có người chết đuối! Bà con ơi!

Cả xóm Cầu Ván chợt bừng tỉnh dậy, người lớn thì nhảy xuống sông bơi theo đám lục bình, mấy đứa nhỏ chạy ra đồng báo tin cho Phục.

Mùa nước đổ đã bắt đầu, con sông nôn gặp ruộng, sợ lỗi hẹn nên chảy rất nhanh và mạnh, vì vậy việc cứu vớt hết sức khó khăn. Cũng may là có cái miệng đáy đặt cách đó chưa tới một cây số. Những người thợ đóng đáy đoán ra sự cố, họ liền buông tấm lưới chận ngang, Nhu được cứu kịp thời trước khi bị hút vào sâu vào đáy.

Điều Nhu sợ nhất đã không xảy ra. Cô không phải bị chết trương sình, cũng không cần tới đám lục bình che đậy. Một lần nữa Nhu lại được cứu sống, thế nhưng cô bị hôn mê, tánh mạng đang hết sức bấp bênh, ba chìm, bảy nổi...

Trong cái rủi tận cùng đó, cái may bỗng bất ngờ xuất hiện. Sau ba ngày nằm trong bệnh viện, Nhu đột ngột mở mắt. Cô lấy lại chẳng những tánh mạng mà luôn cả trí nhớ của mình!

Sự hồi phục một cách kỳ diệu ấy được mọi người trong xóm, trong vùng... vui mừng truyền tai nhau không ngớt. Nó không dừng lại trong cái thôn nhỏ bé ấy mà bay qua tới Mỹ, khiến một người con xa xứ đang ngần ngại, bỗng quyết định về thăm quê hương ngay lập tức.

Nỗi mừng Nhu sống và trở lại như xưa của bà con xóm Cầu Ván chưa nguội, thì cái tin Thụ về thăm quê khiến bầu không khí sôi sùng sục lại liền. Khắp xóm đều chộn rộn, hân hoan, cả cây cối cũng náo nức...Hai hàng gòn đứng đợi sẵn bên đường, cứ vẫy tay mãi miết chẳng dừng.

Khỏi phải nói là mợ Hai Thọ mừng rỡ như thế nào. Trước ngày ra sân bay đón con, mợ Hai có ghé nhà chú, thím Chín. Mợ năn nỉ họ cho Thụ tới thăm và cho Nhân đến nhà dự bữa tiệc đoàn viên với gia đình mợ. Mợ quì mọp trên ván mà van xin khiến chú thím Chín và Nhu cũng lật đật quì theo.

Việc Nhu khỏi bệnh khiến chú thím Chín mừng như chết đi sống lại. Họ trở nên hết sức khoan dung, chẳng những đồng ý mà còn hứa sẽ góp mặt làm mợ Hai mừng muốn xỉu, chỉ có Nhu là cương quyết từ chối!

Mấy cây dừa nhà mợ Hai bị đốn trụi lá để che cái rạp chạy dài suốt cái sân trước nhà. Mợ Hai mời giáp làng, giáp xóm, hể ai quen là mời. Chị Cà, cô giáo Lành tuy ở bên kia sông, nhờ lập đầu công trong việc cứu Nhu nên cũng được mợ đích thân mời. Cả những người thợ đóng đáy mợ cũng không quên. Bữa tiệc đón Thụ trở về bỗng pha thêm ý nghĩa của buổi tiệc mừng Nhu sống lại.

Hai cha con Thụ và Lộc vừa bước chân xuống xe, người còn choáng váng. Thế rồi được cái không khí thân tình bủa vây chặt cứng. Bà con lối xóm bao quanh, ngườ