- 10 -
Có lẽ chỉ mình Nhạn là không có được niềm vui thật sự như mọi người phỏng đoán.
Suốt buổi lễ hỏi cô chỉ đôi lần cười. Gương mặt buồn buồn ấy được xem là nhu mì, nghiêm trang, kín đáo... Phẩm chất của những cô gái con nhà nề nếp.
Trái ngược với Nhạn, vai nữ chánh, lại là Công, vai nam chánh. Y nói oang oang, bộc lộ tính cách tự phụ của mình một cách hết sức thoải mái. Cái tánh mà hầu hết những đứa con trai trong các gia đình giàu có, được nuông chiều thái quá, thường hay mắc phải và Nhạn ghét nhứt.
Nhạn đã cảm nhận điều đó ngay lần đầu tiếp xúc với Công.
Cô than liền với dì Sáu:
-Dòm bộ mặt dấc hấc, cái kiểu làm tàng của y sao con thấy sợ sợ, ghét ghét quá má! Mai mốt về ở chung chắc là khó thở dữ lắm!
Dì Sáu rầy:
-Mấy người đàn ông ăn nói rôm rả như vậy mới gánh vác nổi gia đình. Người chồng là cái nền nhà, phải chắc lọi thì mới đỡ nổi mấy cây cột với cái mái ở trên.
Rồi dì dẫn ra một nhân vật đối lập:
-Hiền như thằng Nguyên, con chồng của má đó, có được cái tích sự gì đâu! Hai lần cưới vợ mà rốt cuộc hổng giữ nổi đứa nào. Bà con trong xóm chẳng ai thèm nể trọng.
Nhạn nhủ thầm, đó mới chính là người mà cô cần, một người tuy không đủ khả năng che chở nhưng chắc chắn chẳng nỡ làm hại ai, kể cả cỏ cây!
Nụ cười gượng gạo của Nhạn đã lọt vào đôi mắt của Nhu. Tuy không biết những hoàn cảnh mà Nhạn đã trải qua, chưa thấu hiểu tâm trạng của Nhạn... Thế nhưng cái tính cách quá trái ngược của Nhạn và Công, khiến Nhu không khỏi cảm thấy vô cùng áy náy cho cả hai.
Nhu nói với chồng:
-Ai cũng mừng cho con Nhạn lấy được chồng giàu mà sao em thấy lo cho nó quá!
Nghệ ngạc nhiên:
-Vô nhà đó thì "ngon" quá rồi, em còn lo cái gì nữa?
Nhu lắc đầu:
-Bộ anh tưởng cứ chui vô chỗ tiền nhiều là có hạnh phúc hay sao? Mấy cô dâu trong những gia đình "quyền quý" đó, nếu không thuộc loại "môn đăng, hộ đối ", họ sẽ chỉ nhận được có hai thứ: Người ngoài thì ganh tỵ còn họ hàng bên chồng thì xem thường.
Cô nhấn mạnh:
-Em thà làm dâu trong gia đình nghèo mà được thương yêu, trân trọng, còn hơn...
Nghệ bắt lỗi vợ:
-Hình như em nhầm lẫn giữa chữ giàu với chữ ác, chữ nghèo với chữ thiện rồi!
Nhu lắc đầu:
-Em không vơ đũa cả nắm, nhưng đa số mấy người nghèo đều hiền hơn mấy người giàu.
Nghệ cười:
-Phải chờ đến lúc họ giàu mới biết! Thường thường tính cách chung của những người ở tầng lớp chịu nhiều thiếu thốn thì nhẫn nại là chủ yếu. Cái nghèo buộc họ phải nín nhịn nên bản chất thật bị đè bẹp, không có đủ điều kiện để phát triển. Có người an phận nhưng cũng có người luôn ấm ức. Tiền là dưỡng chất mà có khi là độc chất, khiến người ta khi có nhiều rồi thì tốt hơn hoặc bị hủy hoại. Nghe đâu dòng họ ông Hai Thọ cũng bắt đầu bằng hai bàn tay trắng. Anh nghe thằng Thụ kể, họ chỉ giàu lên từ thời ông nội của nó.
Thấy Nhu còn giữ nét đăm chiêu, Nghệ an ủi:
- Cô Nhạn coi vậy mà có tính quật cường lắm đó em. Huống chi thầy Bảy cũng thuộc hạng có máu mặt trong xóm, đâu thua gì bên kia.
Nhu vẫn khăng khăng:
-Giàu vay, giàu mượn thì nhầm nhò gì!
Thở ra một hơi dài, cô nói:
-Em thấy má với dì Sáu vui lồ lộ mà vừa cảm thông vừa bất mãn vừa lo...Hình như hầu hết người lớn đều mắc phải cái sai lầm nầy: Bất cứ điều gì mà họ cho là tốt cho chính mình thì đều tốt cho con, cho cháu. Họ không hề nghĩ rằng đâu phải ai cũng thích một thứ y hệt như nhau, ngay cả đồ ăn, thức uống, cũng vậy, huống hồ!
Cô bồi thêm:
-Mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều có quan điểm khác nhau. Má với dì Sáu đang tự hào vì cho rằng mình thương nên mới làm điều tốt cho Nhạn, có khi lại hại con nhỏ mà hổng biết.
Nghệ cười:
-Bởi vậy hai cái chữ "thương" và "hại" mới được ghép chung thành "thương hại" đó!
Nhu chắc lưỡi:
-Điều trớ trêu nhứt là những người càng thương nhau thì càng làm khổ nhau một cách hết lòng.
Chẳng bao lâu cái lo của Nhu được chứng minh là hoàn toàn chính xác.
Hôm ấy chỉ cách ngày đám cưới chừng hai tháng. Công về thăm nhà và Nhạn được dì Sáu cho phép qua nhà bên đó theo lời mời của bà sui.
Để hai trẻ có cơ hội gặp nhau, cứ mỗi lần Công về, cô Hai Phước lại tổ chức một bữa cơm thân mật chỉ những người trong gia đình và Nhạn tham dự mà thôi. Đây cũng là dịp để cô đo lường trình độ nấu nướng, hiểu thêm về tính cách của cô con dâu tương lai của mình.
Nhạn đã được thím Chín cho đi theo phụ bất cứ khi nào thím được mời nấu đám, nên tay nghề khá vững. Tuy không nói ra nhưng cô hai Phước mừng thầm là mình đã khéo chọn.
Sáng đó khi Nhạn đang cầm vá nhúng vô nồi canh chua cá lóc, múc lên một tí để nếm, thì từ phía sau cô, Công đưa tay ra giựt lấy, y nói:
-Để anh nếm cho!
Rồi không kịp thổi mà đưa ngay lên miệng.
Y liền la bài hải:
-Sao mà nóng dữ vậy?
Nhạn nổi xung:
-Còn trên nồi, không nóng sao được?
Công còn ráng cự:
-Vậy sao không nói trước?
Nhạn đáp:
-Có kịp nói đâu!
Công đuối lý bèn hậm hực bỏ lên nhà trên.
Đáng lẽ phải ái ngại, Nhạn lại thấy hả lòng, hả dạ. Cô giựt mình, nhận ra mình chẳng những không thấy tội cho y mà còn có cảm giác hài lòng.
Nhạn rất ngạc nhiên! Cô tự hỏi tính cho tới bây giờ, mình và Công chưa tiếp xúc đến năm lần, đâu có đủ thời gian để ghét? Không lẽ họ là oan gia của nhau từ kiếp trước?
Mâm cơm chỉ có tô canh chua, cá chiên, thịt kho mặn...Mấy món hết sức bình thường và quen thuộc, thế mà xuất sắc cho đến nổi ai cũng cắm đầu ăn quên cả chuyện trò.
Mồ hôi rịn ra trên mặt cô hai Phước, cổ móc cái khăn mù xoa bằng vải ba tích phin có rô đê bốn cạnh ra chậm rồi nói bằng một giọng hài lòng:
-Ngon quá!
Lưng áo của Công ướt rượt, chàng than:
-Trưa nay ông trời không cho miếng gió nào hết, nóng quá ăn mất ngon!
Chàng liếc Nhạn một cái, chờ xem phản ứng của cô sau câu nói ấy. Để coi Nhạn có quạt cho mình như má thường làm cho ba của Công trong mỗi lần ổng than như vậy.
Nhạn thản nhiên cầm đũa gắp cọng bạc hà trong tô canh, chấm vô chén nước mắm rồi đưa lên miệng. Cô chẳng hề nhận ra Công đang quan sát mình, cho dù ngồi khít một bên.
Công hỏi bằng giọng hậm hực:
-Sao ba má hà tiện dữ vậy? Không cho chạy cái máy phát điện đặng mở mấy cây quạt lên quay cho mát. Nóng như vầy ai mà ăn cho nổi?
Dượng hai Phước gắt:
-Dầu bây giờ mắc lắm! Ráng chịu chút xíu đi, ăn gần trọn bữa rồi. Hở hở là đòi mở máy phát điện. Xài kiểu đó là mai mốt đi ăn mày đó con!
Cô Hai muốn không khí dịu lại nên lật đật đi lấy hai cây quạt lông gà, đưa cho Nhạn một, mình một. Cô vừa quạt cho chồng vừa bảo Nhạn:
-Quạt cho anh Công đi con!
Nhạn lật đật để chén cơm xuống, cầm cây quạt lên, gương mặt lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa bất mãn.
Công nhận ra điều đó nên gạt tay cô rồi nói:
-Thôi khỏi, lo ăn đi!
Rồi đứng lên cởi phắt cái áo sơ mi đang mặc trên người ra, quày quả đi tìm chỗ treo.
Nhạn nhìn theo. Cô bỗng giựt nảy người, rúng động toàn thân khi thấy hai cái thẹo màu đỏ bầm, lồi lên như hai con thằn lằn rất to bám dính khắn vách tường, nằm rất đối xứng trên hai bờ vai của Công.
Nhạn buột miệng hỏi:
-Sao ảnh có hai cái thẹo to như vậy cô?
Cô hai Phước đáp:
-Cái đó bị cũng lâu rồi! Đâu năm, sáu năm về trước. Lúc ấy nó đi chơi ban đêm, chạy xe không thấy đường, lủi vô hàng rào rồi bị thương nặng nên mới ra thân thời như vậy!
Nhạn mím chặt môi để không bật ra lời phản đối. Cái chén bỗng nặng trĩu trên tay.
Bữa cơm chưa kết thúc, tô canh và dĩa cá chiên, thịt kho mới vơi hơn phân nửa.
Nhớ lời má dạy "trời đánh tránh bữa ăn", Nhạn phải ráng dằn lòng, thế nhưng nỗi căm hận khiến cô chẳng thiết tha đến bất cứ chuyện gì. Cảnh tượng ngày xưa như khúc phim được quay lại thật chậm, cô phải nghiến chặt hai hàm răng và bóp mạnh thiếu điều muốn gãy cả hai chiếc đũa trong tay.
Cô Hai đưa mắt nhìn Nhạn một cách van xin, ngụ ý bảo Nhạn tiếp tục quạt cho Công. Nhạn làm bộ ngó lơ, cô chẳng thể cầm lên cây quạt. Ngay cái việc dòm mặt Công, cô còn làm không nỗi nữa là!
Tia mắt của cô Hai buồn buồn, đượm đầy nét không hài lòng. Cô chợt nhận ra Nhạn tuy bên ngoài có vẻ yếu ớt nhưng có tánh "ba gai" ngầm, không dễ sai, dễ bảo như cô nghĩ.
Cô tự hỏi:
-Con nhỏ nầy đâu có phải thuộc hàng "thiên kiều bá mị". Thằng Công quen biết bao nhiêu con gái, có đứa còn đẹp gấp đôi, không hiểu tại sao cứ nhứt quyết đòi cưới nó cho bằng được!
Ăn cơm xong, Nhạn xin phép về liền mà không thèm viện lý do khiến cô Hai càng thêm bất mãn.
Vừa về tới nhà Nhạn liền tức tốc đi tìm thím Chín.
Thím Chín đang nằm trên võng dỗ cho thằng Nhỏ ngủ. Nhìn gương mặt tái xanh của Nhạn, câu ầu ơ ngưng ngay giữa chừng, thím lật đật ngồi bật dậy, hớt hãi:
-Bộ con bị trúng gió hả Nhạn?
Nhạn lắc đầu rồi ngồi bệt xuống.
Thím hỏi tiếp:
-Có chuyện gì mà sắc mặt khó coi quá vậy?
Nhạn không dằn được nữa, cô bắt đầu kể cho thím nghe chuyện mình xém bị cưỡng hiếp, bị đè xuống đường bóp cổ rồi chống cự kịch liệt như thế nào.
Cô đột ngột dừng ngang rồi hỏi thím Chín:
-Thím có biết ai làm cái chuyện đó không?
Thím Chín hỏi:
-Ai vậy?
Nhạn nghiền cho tiếng nói dẹp lép giữa hai môi:
-Thằng Công?
Thím Chín trợn mắt:
-Sao con biết?
Nhạn cười gằn:
-Cái lúc nó đè con nằm sát mặt đường, con quơ tay chụp được hai cục đá rồi đập mạnh lên vai của nó. Hồi nãy nó ở trần con thấy có hai cái thẹo ở ngay cái chỗ đó.
Thím Chín bán tín, bán nghi:
-Cô hai Phước hiền lắm! Chồng cổ cũng hết sức đàng hoàng, hổng lẽ họ không biết dạy, để thằng con hoang đàng tới như vậy hay sao?
Nhạn lắc đầu:
-Tại họ cưng quá nên nó hư. Cái chuyện đi cưới con chắc là cái ý của nó. Nó muốn lấy cho được con, đem về đặng hành hạ cho bỏ ghét, chớ đâu có thương yêu gì!
Thím Chín tiếc cái chỗ giàu có cùng công sức mình bỏ ra, nên bào chửa cho Công:
-Biết đâu nó thương con thiệt bụng, muốn cưới để chuộc tội?
Nhạn quả quyết:
-Không phải đâu thím ơi! Con mắt nó ngó con coi ác lắm! Không có giống như chú ngó thím, thầy Bảy ngó má con, anh Nghệ ngó chị Nhu đâu.
Cô nói thêm:
-Con nhờ thím đem ba cái vàng vòng họ cho trả lại giùm. Con nhứt đinh không đặt chưn vô nhà đó nữa. Nhớ tới là con thù thấu xương thì làm sao mà ăn đời ở kiếp với nó cho được?
Ngừng lại một chút cô nói tiếp:
-Hổng chừng con còn đi thưa cho nó biết tay.
Thím Chín nhìn nét mặt đầy vẻ căm phẩn, uất hận đó. Thím chợt nhận ra Nhạn đã bị tổn thương vô cùng sâu sắc, thím nghe thương Nhạn hết sức rồi nổi giận bừng bừng.
Thím nói:
-Mắc gì mà trả, lấy luôn cho bỏ ghét!
Nhạn lắc đầu:
-Con hổng cần cái thứ phi nghĩa đó đâu. Thím mà không chịu là con đem đi trả. Hổng phải con sợ họ ăn hiếp mình nên không dám đi, mà chỉ sợ không dằn được rồi xảy ra chuyện lớn, liên lụy tới má với anh hai con mà thôi!
Nhìn gương mặt đằng đằng sát khí của Nhạn, thím Chín nghĩ thầm:
-Con nhỏ nầy dám miếng ăn, miếng trả chớ hổng thèm nói suông đâu.
Thím tự trách:
-Khi không mà ráng sức cột, gút chặt cứng rồi bây giờ phải lo tháo chớ trông vô ai được. Cái chuyện nầy mà đổ bể, chồng con cằn nhằn hổng nói gì. Chỉ không biết nói làm sao cho chị Sáu khỏi buồn!
Thím hỏi Nhạn:
-Má con biết chưa?
Nhạn lắc đầu:
-Má con chưa biết chuyện gì hết.
Thím Chín ngài ngại:
-Hổng biết chỉ có chịu nổi hông đây?
Nhạn trấn an:
-Thím đừng có lo, để con kể cho má nghe. Tánh con giống má lắm, chắc má cũng y như con.
Thím Chín gật đầu:
-Má con mà biết con bị thằng Công làm hổn như vậy thì không cần, không tiếc chút xíu nào đâu.
Thím Chín suy nghĩ tới, suy nghĩ lui rồi quyết định không thèm tới nhà cô Hai Phước.
Hôm sau, thím kêu Nhu qua đó mời hai mẹ con họ đến để ba, bốn mặt một lời. Thím kể cho Nhu nghe rồi dặn cô đừng nói gì hết.
Nhu mừng như bắt được vàng, khoái trá vì dự đoán của mình trúng phóc, nôn nóng tháo cũi, xổ lòng cho Nhạn gấp gấp cho Nhạn nên lập tức đi liền.
Lúc Nhạn bỏ về cô Hai đã linh cảm có chuyện không hay. Khi Nhu đến mời cô nhận lời rồi bảo Công:
-Không biết con Nhạn hôm qua ở nhà mình về, nó nói cái gì mà thím Chín Nho sai con gái qua mời hai má con mình qua bên đó?
Công từ chối ngay lập tức:
-Má đi một mình đi, con không đi theo đâu!
Cô Hai rầy:
-Người lớn biểu mà hổng làm theo là hổn đó con! Đi coi chuyện gì, ai ăn thịt, ăn cá được mình đâu mà sợ.
Công cười khẩy:
-Con không sợ ai hết, tại hổng muốn đi thôi!
Cô Hai năn nỉ:
-Chắc chuyện đám cưới chớ không gì khác. Con muốn lấy được vợ là phải chìu ý bà mai, không thôi bị bả chọt là hư bột hư đường hết ráo đó con!
Khuyên Công như vậy nhưng cô không khỏi bực mình. Cô nghĩ đáng lẽ họ phải qua gặp mình nên không thèm sửa soạn, ăn mặc xơ xài, tóc kẹp lên không bới. Công cũng mặc áo thun tay ngắn, quần tây vừa cũ vừa nhăn, mang đôi dép mòn gót, lẹt xẹt đi theo cô.
Thím Chín và dì Sáu tuy không vận áo dài nhưng hai bộ bà ba của họ trông tươm tất hơn nhiều.
Tối hôm qua Nhạn đã kể cho dì Sáu nghe mọi việc. Nhờ có sự xác nhận của Phục nên dì Sáu nhứt quyết hồi hôn một cái rụp.
Chú Chín không tham dự, chú và thầy Bảy qua nhà Phục để tránh mặt. Chú dặn Nhạn là nếu có đôi co, làm không lại thì qua gọi họ.
Vừa vào nhà, ngó nét mặt của thím Chín và dì Sáu, cô Hai liền nhận ra là có chuyện chẳng lành. Cô chờ được mời mới ngồi, rồi hỏi:
-Có chuyện gì mà thím Chín cho mời hai má con tui vậy?
Thấy cô Hai và Công ăn mặc tuyền toàn có vẻ xem thường mình, thím Chín không còn do dự. Thím không thèm nói xa, nói gần, đưa gói nữ trang ra rồi nói:
-Tụi tui mời cô qua đây để trả lại mấy món nầy.
Cô Hai trố mắt, điều nầy ngoài sức tưởng tượng của cô.
Cô gằn giọng:
-Chuyện nầy là sao?
Thím Chín không đáp mà hỏi lại:
-Phải cháu Công có hai cái thẹo trên vai hông cô Hai?
Cổ gật đầu rồi nói:
-Chuyện đó thì tại nó té xe, có mắc mớ gì tới...
Thím Chín lắc đầu:
-Không phải tại té xe đâu cô ơi! Tối hôm đó nó tính hãm hiếp con Nhạn ở khúc đường nhà ông cả Hội nên bị con Nhạn đập bằng đá đó!
Cô Hai há hốc nhìn thím Chín rồi quay qua nhìn Công. Gương mặt biến sắc ấy giúp cô biết con trai mình quả có làm việc đó. Cô cứng họng không nói được tiếng nào.
Thím Chín nói tiếp:
-Hôm qua con Nhạn nó thấy hai cái thẹo ấy. Nó biết thằng Công là người tấn công nó tối đó nên tức giận lắm! Làm sao mà dám ở với cái người đã bóp cổ mình thiếu điều chết ngộp được. Nó nhứt quyết trả hết số vàng nầy cho cô. Tui mà không cản là nó còn đi thưa nữa đó.
Cô Hai giựt mình, lật đật năn nỉ:
-Đừng, đừng có làm như vậy mà đổ bễ tùm lum không hay. Số vàng nầy tui không lấy lại đâu, để đền...
Công đột ngột lên tiếng:
-Con chưa có lấy nó, tại sao phải đền chớ?
Dì Sáu cười nhạt:
-Tụi tui không có thèm mấy thứ nầy đâu! Cô Hai cứ đem hết về. Vị tình chị Hai, má cô, tụi tui cũng không đi thưa, đi gởi gì đâu. Cô đừng có lo.
Rồi dì cầm cái hộp bọc giấy đỏ đặt trên bàn, nhét vô bàn tay cô Hai Phước.
Đám cưới của Nhạn và Công bị hủy khiến hết thảy dân cư trong xóm cùng chới với. Cái lý do "kỵ tuổi" được cả hai bên đưa ra chẳng thuyết phục được ai.
Bà con xóm Cầu Ván đa số tánh nết thật thà, suy nghĩ đơn giản nên cho rằng, với cái thành tích ăn chơi, người "vặn nài, bẻ ống" dứt khoát là Công.
Thế là người ta dồn hết tình thương cho Nhạn, cô làm cái gì cũng được mọi người tiếp tay. Mới hôm qua đây thôi, khi Nhạn vừa đặt cái gánh nước xuống định đổi vai. Phụng, con dâu của mợ ba Sáng, đang đi sau lưng lật đật xớt ngang liền. Nhạn đứng lặng, nhìn theo từng bước chân lúp xúp của cổ. Phụng vừa gánh, vừa chạy vì sợ Nhạn đuổi theo giành lại, vừa kẹp cái rỗ bông bí ngang hông. Nhạn nghe cảm động đến rơi nước mắt.
Người đau lòng hơn hết là mợ Hai Thọ. Vì những người trong cuộc không ai dám kể thật, nên khi biết được, mợ liền nắm chặt hai bàn tay, đấm thùm thụp lên lưng Công mà mắng:
-Trời ơi! Sao mầy ác dữ thần ôn vậy. Con gái người ta như cái bông đang tươi roi rói. Mầy ngắt ngang rồi đem liệng như vậy mà coi được hay sao?
Chưa hả lòng, mợ còn nghiến răng nguyền rủa:
-Hết thảy tụi bây chống con mắt lên mà coi! Ông trời ổng sẽ phạt cho cái thằng chúa ôn nầy lấy nhầm một con vợ dữ như chằng tinh gấu ngựa. Con nhỏ đó làm biếng nhớt thây, không thèm làm công chuyện cũng không biết đẻ con. Suốt ngày ăn hàng với bài bạc cho nó biết thân!
Mợ khóc nức nở rồi kể lể:
-Sao cái nhà nầy sản sinh toàn là mấy thằng tặc tử, hại đời con gái người ta không vậy hả ông trời? Tui còn mặt mũi nào mà gặp mặt bà con chòm xóm nữa đây?
Mấy hôm sau mợ mới chịu ra khỏi nhà với cái khăn lông trắng đội miết trên đầu. Một lần bị gió thốc, cái khăn rớt xuống đất để lộ cái đầu trọc lóc, tròn vo của mợ.
Dù mợ Hai quyết đem thân mình ra chuộc tội của con, của cháu. Nhưng cảm tình bà con dành cho gia đình mợ vẫn bị giảm sút trầm trọng. Uy tín, danh dự của họ đã bị mẻ một miếng lớn.
Ở Nhạn, hậu quả càng bi đát hơn. Ai cũng cho rằng cô vì dại dột, tin tưởng vào cái đám cưới sắp tới nên đã trao thân gởi phận cho Công, thế rồi bị đá văng xa lắc! Hể gặp Nhạn là mọi người xúm lại an ủi. Họ khuyên cô đừng lo là không lập được gia đình, không có chồng, có con như mấy cô gái khác. Thiếu gì nìn bà có một hai đời chồng rồi mà còn được cưới hỏi đàng hoàng, huống hồ chi cô chỉ mới...
Cái kiểu thương nầy khiến Nhạn càng bị "rớt giá" trong con mắt của các chàng trai. Cô giống như con tem đã bị đóng mộc, thị trường tiêu thụ coi như mất trắng.
Những lời an ủi, những ánh mắt cảm thông của bà con làm dì Sáu thêm buồn, thêm ray rức. Dì hối hận vì đã ham giàu, ép Nhạn lấy Công cho bằng được. Dì ăn không ngon, ngủ không yên rồi đùng một cái bị ra huyết ào ào. Khi chở đi nhà thương, họ được bác sĩ cho hay là dì Sáu bị hư thai
Cái tin ấy khiến mọi người đều bàng hoàng, nhứt là dì Sáu. Dì đã sắp bước vào hàng "năm", nên cho rằng cái hiện tượng tắt kinh của mình mấy tháng nay là do tuổi tác.
Thím Chín hết sức ân hận, thím lấy sợi chỉ đỏ cột chỉ vô cổ tay, thề rằng từ nay nhứt quyết lánh xa, từ giã cái nghiệp làm mai nầy mãi mãi.
Ở nhà thương về, thầy Bảy bắt dì Sáu phải nằm im ru trên giường. Thầy rút bớt thì giờ chăm sóc bệnh nhân để quanh quẩn bên vợ.
Kể từ hôm đó Nhạn túc trực bên nhà dì Sáu cả ngày lẫn đêm. Mấy cái việc cơm nước, giặt giũ, quét vườn, lau nhà, đi chợ, nấu ăn...Hằm bà lằng thứ trong nhà mà trước kia là của hai, ba người: Dì Sáu, thầy Bảy và Nguyên cùng làm, nay được một mình Nhạn "bao thầu" ráo trọi!
Khi không có mặt Nhạn, thầy Bảy rầy Nguyên:
-Lúc nầy ba thấy con hổng mó tay tới cây chổi, cái nùi giẻ lần nào. Con Nhạn dù sao đi nữa cũng là khách, đâu phải dâu con trong nhà. Việc gì cũng qua tay nó coi sao được?
Nguyên gãi đầu, cười cười:
-Con thấy để cho cổ làm không hở tay là giúp cho cổ khỏi phải suy nghĩ đó ba!
Thầy Bảy hiểu ngay là Nguyên cũng như hầu hết mọi người, cho là Nhạn đang đau khổ tột cùng vì bị Công từ hôn.
Thầy bèn nhỏ giọng tiết lộ:
-Bộ con tưởng cái đám cưới bị dẹp làm nó buồn hay sao? Nó mừng gần chết đó!
Thấy Nguyên nhìn mình bằng cặp mắt sửng sốt, thầy bèn kể hết cho y nghe. Thầy không thèm dặn là phải kín miệng vì biết tánh của thằng con mình.
Thầy kết luận:
-Con nhỏ nầy bị ám ảnh về cái chết của chị nó quá nhiều, nên coi hết thảy đám con trai là kẻ thù. Chắc nó dám ở vậy suốt đời, hổng thèm ưng ai lắm đó!
Gương mặt Nguyên lộ vẻ cảm động:
-Hèn gì con thấy cổ ít cười, ít nói quá!
Thầy Bảy giải thích thêm:
-Cái chuyện nầy cũng khuấy động tùm lum các thứ trong lòng nó, làm lộn tùng phèo hết trọi! Mấy chuyện đau lòng đã bị chôn tận dưới đáy trước giờ nằm im ru, bây giờ đều chộn rộn đòi trồi lên mặt cho bằng được. Chúng ở lại đó hoài hỏi nó vui làm sao được?
Thầy chép miệng:
-Cái làm nó buồn nhứt là cho rằng đã làm má Sáu con thất vọng. Ba đoán là nó nghĩ là tại nó mà má Sáu bị hư thai nên cảm thấy có lỗi, ráng làm hết công việc để chuộc tội.
Nguyên hỏi:
-Ba có buồn vì mất đứa con trong bụng má Sáu hông ba?
Thầy Bảy gật đầu:
-Ba cũng buồn lắm! Con thì thề là không thèm lấy vợ nữa nên cái nhà nầy chắc chỉ chừng đó người. Phải chi có thêm một đứa con nít cho vui nhà vui cửa.
Thấy Nguyên xịu mặt, thầy vỗ vai y an ủi:
-Con đừng lo! Coi như ba khỏi nuôi thêm chồng của con nào hay vợ của thằng nào nữa hết. Bây nhiêu đây là chạy ăn cũng đủ mệt rồi.
Những lời được nghe từ miệng ba mình, khiến Nguyên động lòng trắc ẩn. Kể từ hôm ấy, anh bắt đầu chú ý đến Nhạn nhiều hơn trước.
Cái dáng gầy guộc của Nhạn xui anh so sánh cô với bụi lau bên bờ sông, tuy chưa ngã rạp nhưng chằng thể đứng thằng lên vì bị gió cứ đè đầu, cưỡi cổ. Nguyên bỗng muốn đền bù cho Nhạn được chút nào hay chút nấy, để cô xóa bớt ác cảm về cái giới Nam của chàng. Cũng như những người khác Nguyên không muốn những người thân của mình sống cảnh cô đơn.
Nguyên bắt đầu chú ý tới việc nhà. Chàng chịu khó đem mấy cành cây bị gió giựt gãy, đang nằm ắp lẩm ở góc vườn ra chặt thành cũi, phơi thiệt khô rồi xếp vào bếp cho Nhạn. Chàng cũng phụ trách luôn việc gom lá trong vườn lại đốt. Bơm nước lên hồ thường xuyên để Nhạn dùng thoải mái.
Hôm Nhạn bị ông táo trác, nồi cơm khét, Nguyên tự động bới trước phần cơm cháy vô tô mình rồi ráng ăn cho bằng hết, để Nhạn khỏi bị rầy.
Bữa khác Nhạn nấu canh bầu, cô quên nên nêm muối tới hai lần thế là nồi canh mặn chát. Trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người, Nguyên húp hết tô canh không chừa đến một giọt.
Những hành động hết sức "dũng cảm" ấy khiến Nhạn vô cùng xúc động. Cô biết điều nầy phát xuất từ thiện tâm của chàng, không cốt để lấy lòng cô.
Sợ Nhạn hiểu lầm nên Nguyên thường tránh mặt. Chàng vốn mặc cảm về cái tánh "không giống ai", cái công việc bị mọi người chế nhạo của mình, nên ít tiếp xúc, chuyện trò với cô.
Ấy thế mà lại khiến Nhạn cảm động mới ngộ.
Một lần cơm dọn đã lâu mà chẳng thấy Nguyên. Nhạn đi ra vườn tìm. Thấy cái võng treo dưới cây khế, cây mận đu đưa, biết Nguyên đang nằm đó, cô đi xăm xăm đến.
Nhạn bước rất nhẹ nên Nguyên đâu hay, chàng cứ đọc to những câu thơ trong đầu mình:
"Một lần em ghé vườn tôi
Những hoa cỏ dại bồi hồi nhớ nhung
Thương ai, thương lạ, thương lùng
Thương khi sầu muộn, thương cùng lúc vui
Thương em thân phận ngậm ngủi
Sóng đời xô giạt, nổi trôi lục bình..."
Nhạn đứng sửng lại. Cô ngây ngất bởi những câu thơ, bởi những bông khế tím, những tua mận trắng đang bay lưa thưa trong gió.
Nhạn cứ đứng trong tư thế xuất thần ấy cho đến khi Nguyên rời khỏi chiếc võng, quay lại và bắt gặp. Tia mắt của Nhạn dội vào lòng chàng cả một dòng thác hạnh phúc.
Tội nghiệp cho những nhà thơ bị hất hủi như Nguyên! Họ chẳng những thiếu thốn về vật chất mà tinh thần cũng luôn đói khát. Họ đi qua cuộc đời như khách lữ hành băng qua sa mạc. Sự đồng cảm là những giọt nước quý báu, hết sức cần thiết cho sự sinh tồn của họ! Thế nhưng chúng hết sức hiếm hoi! Cho nên khi bắt gặp, họ chỉ biết đứng chết lặng trong xúc cảm hoặc quỳ mọp xuống hôn đất mà cám ơn trời!
Bắt đầu từ hôm ấy, mảnh đất hoang giữa Nhạn và Nguyên bỗng nở đầy hoa dại. Những dây tơ hồng vàng tươi bắt đầu xuất hiện, len lỏi từ nơi nầy sang nơi khác.
Hầu như các cô gái luôn yêu cái người mà họ ngưỡng mộ.
Con trai, vốn thích tự chiêm ngưỡng và được người khác chiêm ngưỡng, cho dù không thể đáp lại, cũng dành cho họ một mối thiện cảm nồng nàn. Nếu người con gái ấy xinh đẹp, hiền dịu và có một thân phận hẩm hiu như Nhạn chẳng hạn, thì việc chàng nhận giữ giùm trái tim của nàng và đặt trái tim của mình vào thế chỗ, sẽ xảy ra với tỷ lệ lên đến chín mươi chín phẩy chín trăm chín mươi chín phần trăm!
Nét sầu muộn, sự ngờ vực do đã bao lần bị tổn thương, vốn bôi đen gương mặt Nhạn và Nguyên đã được nụ cười rất nhẹ, rất hiền, rất ngu ngơ thay thế. Chúng chợt sáng và trong y như cái ống khói đèn đã được chùi rửa bằng miếng xơ mướp có xát xà bông.
Những người đang yêu và được yêu chính là ân nhân của nhân loại. Họ tươi rói và tràn trề sức sống. Chỉ cần nhìn họ thôi, ta cũng đã thấy vui, thấy khỏe như được tiếp thêm năng lượng. Các lỗ chân lông trên người họ, liên tục phóng thích một lượng ion âm hết sức dồi dào, khiến không khí trở nên trong lành. Thiên nhiên càng thêm xinh tươi, đánh thức cái đẹp, điều thiện đang lơ mơ ngủ.
Nhờ có họ mà cỏ thêm xanh và hoa thêm rực rở. Nhờ có họ mà lũ bướm, ong, chuồn chuồn... bay lượn không biết mỏi. Nhờ có họ mà gió kiêu căng cũng trở nên hiền dịu. Ánh trăng đỏng đảnh không lỗi hẹn và thôi giấu mặt trong mây, cả triệu ngôi sao cùng chớp mắt...
Chiếc võng trong vườn được chiếu cố đều đặn mỗi ngày. Ban đầu Nguyên nhường cho Nhạn thế rồi một lần cả hai cùng ngồi. Bốn bàn chân của họ lúc đầu luôn luôn đẩy đưa cùng một nhịp, chúng bỗng tự dưng bất động, thế nhưng chiếc võng cứ rung nhè nhẹ.
Tình cảm của họ tuy bắt nguồn từ chất "người", thế nhưng sự xúc chạm đầu tiên của hai bờ vai vẫn khiến cả hai xao xuyến, đánh thức cái phần "con" trong họ.
Tim Nguyên đập như đang chạy nước rút, chàng cầm tay Nhạn đặt lên đó, những tiếng vang âm âm trong lồng ngực, đã thay chàng nói hết mọi điều.
Nhạn vô cùng cảm động, cũng thổ lộ với cùng cung cách ấy. Cô cầm tay Nguyên đặt lên tim mình, bờ ngực trinh nữ ấy êm ái quá, sao Nguyên nghe như mình đang đi qua cả một "bãi mìn cảm xúc"?
Một hôm Thầy Bảy bỗng nỗi máu "văn nghệ". Ổng đi lang thang trong vườn, định ghé thăm bụi bông quỳnh đang ôm chân gốc ổi, xem những cái nụ trắng xanh của nó có thể nở trong đêm ấy? Ổng bỗng bắt gặp họ cùng ngồi trên võng. Nhạn đang ghé đầu trên vai Nguyên và môi của Nguyên đang đặt lên mái tóc nhuộm đầy trăng ướt rượt của cô, khiến chúng luôn rung rẩy, lóng la, lóng lánh.
Đó là một khoảnh khắc tuyệt đẹp trong đời của thầy Bảy. Ông chỉ muốn xông đến ôm gọn cả hai vào lòng nhưng rồi cố ghìm lại, không dám quay người sợ không khí xao động mà lùi dần từng bước một.
Đêm đó dì Sáu rất ngạc nhiên trước sự âu yếm hết sức nồng nhiệt của chồng.
Dì hỏi, giọng trêu chọc:
-Bộ muốn có con nữa hả?
Thầy Bảy lắc đầu.
Dì hỏi tiếp:
-Vậy tại sao mà...
Thầy đáp:
-Tại vui.
Bỗng dưng một giọt nước âm ấm từ đâu rớt trên má dì.
Dì lại hỏi:
-Vui sao lại khóc?
Bây giờ thì cả một dòng suối chảy khắp mặt dì Sáu.
Giọng thầy Bảy nghẹn ngào:
-Tại quá đỗi mừng.
Dì ngạc nhiên:
-Mừng chuyện gì?
Thầy đáp:
-Thằng Nguyên được một người con gái tốt thương. Con Nhạn không còn "kỵ" đàn ông.
Dì sáu giật mình:
-Sao ông biết?
Thầy Bảy kể cho dì nghe rồi nói:
-Ông trời bắt đầu nhỏ phước cho gia đình mình rồi đó. Tụi mình phải thiệt tế nhị. Phải làm bộ như không biết chút gì hết. Hai đứa nầy còn "nhát đèn" lắm!
Dì Sáu phân vân:
-Mình dung dưỡng như vậy rủi con Nhạn nó dính bầu thì sao?
Đây chính là ý đồ của thầy Bảy. Ổng muốn tạo điều kiện để họ đốt giai đoạn. Bấy lâu nay việc bị vợ bỏ đến hai lần khiến Nguyên mang nặng mặc cảm. Cảnh thui thủi một mình của chàng luôn khiến thầy Bảy ray rức, nên ổng muốn gấp gấp thấy thằng con của mình được hạnh phúc.
Thầy Bảy không chút e dè:
-Thì cưới chớ sao?
Dì Sáu thở dài:
-Con ông, con bà...Chắc thiên hạ cười cho thúi đầu.
Ổng đáp bằng giọng quyết liệt:
-Cười thì cười, thây kệ họ. Tụi nó đâu có chút liên hệ máu mủ nào. Huống chi ai cũng biết con Nhạn không có phải là con ruột. Con nuôi thì nhầm nhò gì!
Thầy lại bảo:
-Ngày mai chắc tui kêu tụi nó đem cái máy may của con Nhạn về đây. Cho nó khỏi phải mắc công chạy đi, chạy về tốn thì giờ.
Dì Sáu gật đầu:
-Có đi thăm bịnh thì chở tui theo rồi bỏ tại tiệm may, để tui đơm nút làm khuy cho con Tím.
Thầy Bảy gợi ý:
-Sao không ghé chị Chín để nói chuyện cho phỉ, lại tiệm may làm chi cho cực.
Dì Sáu lắc đầu:
-Tánh chị Chín bồng bột lắm! Tui sợ mình không giữ miệng nổi, cái rồi kể hết ráo cho chỉ nghe. Chuyện nầy mà vỡ lỡ sớm quá e hổng tốt.
Khỏi phải nói là cả Nhạn lẫn Nguyên đều dốc lòng tận dụng những giây phút riêng tư quý báu đó. Ông bà ta đã cảnh cáo (chắc đã xảy ra biết bao lần nên đúc kết thành kinh nghiệm), rằng lửa mà để gần rơm thì có lúc sẽ cháy nhà. Con cháu biết lắm, tin lắm, ráng ở thật xa, hoặc để sẵn thùng nước để chửa cháy. Thế nhưng gió khoái chơi cắt cớ, cứ mang lửa đến sát bên rơm, khi bén rồi họ lại quên phức cái việc tưới nước, có khi còn tưới lộn dầu.
Một hôm Nhạn đang lui cui nhóm bếp, cô đang cúi sát mặt xuống mớ bùi nhùi trong bụng cái cà ràng, chu mỏ thổi cho lá dừa bùng cháy.
Cái dáng lom khom ấy khiến đường xẻ tà của chiếc áo bà ba chạy lên tận nách. Khoảng da trắng bóc, hết sức mịn màng, nơi khu vực nhạy cảm nhất của người phụ nữ phơi bày như mời mọc. Nguyên đứng bên cạnh bỗng vòng tay ôm chặt Nhạn vào lòng mình. Hơi ấm và tiếng tim đập rộn ràng của Nguyên truyền qua như một luồng điện khiến Nhạn giựt nảy người rồi chết cứng luôn.
Vẻ ngất ngây pha chút kinh sợ của Nhạn khiến Nguyên dừng ngay cái bàn tay sắp "bẻ khóa động đào" của mình lại. Nguyên tưởng tượng gương mặt hầm hầm của cụ Nguyễn đình Chiểu, với ngón tay trỏ chỉ thẳng vào mặt Nhạn cùng tiếng quát to giận dữ, "gái thời đức hạnh là câu trau mình" mà thắng cái rụp, thiếu điều lết bánh!
Cái phần "con" trong chàng đang luôn miệng thúc giục, liền bị đuổi thẳng tay, nhường chỗ cho cái phần "người" đang rụt rè quay lại.
Tội nghiệp dì Sáu và thầy Bảy! Họ cứ chờ cái triệu chứng "hôi cơm tanh cá " của Nhạn để có lý do gạn hỏi, để giải quyết bằng một lễ cưới, thế nhưng Nhạn vẫn im ru bà rù!
Cái kiểu sống như lục bình, nước lớn trôi lên, nước ròng trôi xuống của Nguyên, từ lâu đã làm thầy Bảy rầu lòng ghê lắm! Thầy không dám khuyên con trai tìm một nghề nghiệp, một công việc cụ thể để làm vì sợ Nguyên mặc cảm. Thầy vốn mong mỏi Nguyên thôi lơ lửng trên mây, đáp xuống đất mà làm lụng kiếm miếng ăn như bàn dân thiên hạ.
Việc sống tách biệt, ít quan tâm đến những người xung quanh, không để ý đến lời thị phi, chỉ chăm chăm vào sở thích của Nguyên khiến bà con chướng mắt. Cho dù thầy Bảy đã tạo dựng một cơ ngơi khá vững vàng, dư sức bao bọc cả con lẫn cháu. Thế nhưng cái cảnh trâu già kéo cày, trâu tơ nằm nhai cỏ đó, khiến mọi người bất mãn. Điều đó giải thích vì sao ít ai muốn làm sui với thầy Bảy dù ổng rất hiền, thích giúp đỡ bà con và nhận thù lao với giá phải chăng.
Ở nông thôn, đa số các căn nhà suốt ngày không thấy bóng người. Sáng sớm, cả nhà, có khi đến hai, ba thế hệ đều kéo rốc ra đồng.
Mấy người phụ nữ thức dậy từ lúc con gà trống đầu tiên trong xóm cất tiếng gáy. Họ bắt đầu ngày mới bằng công việc thường lệ, nhóm bếp rồi đặt lên đó một cái ấm nước thật lớn, cho đậu nành rang vàng vào đặng uống cho dễ tiêu, để mang ra đồng dùng suốt ngày. Kế đó họ bắc nồi cơm lên bếp, cho tô mắm vào chưng. Hôm nào còn lại thức ăn dư, nhờ chiều hôm trước may mắn bắt được, cua, ốc, chuột, ếch trong ruộng, trong rẩy, hay tát vũng bắt được cá khá nhiều. Bà má đem kho tiêu, kho xả ngay lập tức, ăn không hết để dành cho hôm sau. Thì nồi cơm khỏi cần món mắm làm nhưn!
Rau dại mọc khắp đồng. Món canh tập tàng gồm đủ thứ rau như rau má, rau rệu, rau muống, rau trai, cải trời...nấu suông hoặc nêm với mắm sặc, mắm linh... là món canh thông dụng nhứt. Các món ăn ấy suốt mùa lúa hầu như ngày nào cũng có mặt trong mâm cơm.
Cái tô nước cơm được chắt ra nếu cho vào chút đường sẽ là món trong mơ của mấy đứa nhỏ. Một đứa bưng tô vục mặt vào uống. Mấy đứa khác đứng kế bên không buông cái bàn tay trì kéo ra khỏi vạt áo của nó, luôn miệng hối uống nhanh nhanh, đòi tới lượt mình.
Ngày nào cũng như ngày nấy, cứ sáng họ cùng nhau ra đồng, chiều về nhà cùng tắm sông, đứng thành hàng dọc kỳ lưng cho nhau, ngồi quây quần quanh mâm cơm rồi đi ngủ.
Con người với chừng ấy công việc. Thiên nhiên với chừng ấy hình dáng, sắc màu. Cả hai luôn gần gụi, hòa nhập vào nhau đến nổi sợi dây liên kết họ đã trở thành thiêng liêng.
Lối sống đơn giản, đều đặn, làm nhiều hơn mơ, giúp nhà nông có một cuộc sống ổn định, điều độ...Tạo cho họ bản chất mộc mạc, chơn thật, hiền lành...
Sự đùm bọc, chia sẻ, chung tay gánh vác việc công trong xóm đều được làm một cách tự nguyện, chẳng hề bị áp buộc, khiến cả người cho lẫn người nhận đều vô cùng hạnh phúc.
Họ làm lụng nhiều và ăn uống những thứ sinh sản tự nhiên, mọc tự nhiên trên đồng ruộng. Thịt là món khan hiếm nhất nên ít người dư thừa chất béo. Mấy con vi trùng vốn khoái mỡ nên chán họ lắm, chẳng thèm bám vô. Cho nên có những gia đình mà cả đời chưa ai biết đến nhà thương.
Chỉ khi mùa lũ kéo về, cuộc sống của bà con mới đối mặt với những điều thái quá. Những năm lũ to, tuy gặp khó khăn mặt nầy nhưng lại sung túc vào mặt khác, thiên tai cũng có tính tích cực của nó. Hầu như những sự hủy diệt nào cũng khởi đầu cho một sáng tạo. Chính trong lúc khổn khổ, thiếu thốn vật chất đó, tình cảm của họ càng dồi dào, tinh thần thêm vững chải để bù vào.
Suy ra, ít có điều gì mà người ta không thể vượt qua nếu có cái tình, cái nghĩa chống đỡ sau lưng và thẳng tay đẩy ta về phía trước.
Trong gia đình nhà nông, nhân lực được tận dụng tối đa, ít ai phải lâm vào cảnh ăn không ngồi rồi. Sáng sáng khi mấy người đàn bà lo bếp núc. Các cô con gái, con dâu... lo quét vườn, quét nhà, lau bàn ghế... Thì người đàn ông lớn tuổi nhứt trong nhà chuẩn bị thời cúng sáng. Những người còn lại lo mài lưỡi xẻng, thay cái cán cuốc... Đứa con trai nhỏ sẽ dắt đôi bò xuống sông cho chúng uống no nước, chứa đầy bụng để xài cho một ngày vất vả trên đồng.
Cái tính căn bản, được bà con coi trọng nhứt là cần và kiệm. Hai đức tính ấy đã ăn sâu vào máu thịt. Vật chất và thời gian đều được chắt chiu, nên vào mùa khoai, mùa bắp... Bữa điểm tâm được dùng ngay trong lúc đi ra đồng với trái bắp, củ khoai nóng hổi, vừa đi, vừa thổi vừa ăn...
Thực phẩm, thì giờ được quý trọng, dè sẻn đến thế đó! Vì vậy mà những người "xài sang" như Nguyên bị bà con hết sức ngứa mắt.
Nguyên vốn không ràng buộc với cái ăn, cái mặc nên nhu cầu của anh được đẩy lên cao chót vót. Cái mà chàng vươn đến là cảm xúc, điều nầy đòi hỏi đầu tư rất nhiều công sức, nhưng hiếm khi đạt được. Những sản phẩm mang nét đẹp vô hình ấy vốn ít được bà con công nhận. Chàng đâm ra lạc lỏng giữa những người mà mình hết lòng yêu quý, thật bất hạnh quá chừng!
Ông trời bấy lâu nay lơ là với Nguyên, bây giờ mới giựt mình, ngó lại rồi bắt đầu bù đắp. Ổng liền ban cho Nguyên một người hiểu, thương chàng không bằng bộ óc mà bời trái tim đầy lòng nhân ái. Nào phải Nguyên chẳng hàm ơn. Thế nhưng bởi ảnh hưởng của hai lần gãy đổ trước đây, càng trân trọng Nhạn, Nguyên càng không muốn cùng nàng đi vào cuộc sống vợ chồng.
Đối với Nguyên hôn nhân là cái tột đỉnh, cái đích đến của tình yêu rồi từ đó là tà tà đi xuống. Cho nên dù bị thôi thúc trước nét mơn mởn xuân thì của Nhạn, Nguyên vẫn cố nín nhịn để kéo dài cái cảm giác khát khao, cái khoảnh khắc thơ mộng nầy càng lâu càng tốt.
Cho dù biết rằng người con trai khi đã ngõ lời thương, thì việc trì hoãn cưới cô gái mình đang hẹn hò là một hành vi có thể bị coi là thiếu đạo đức, nhưng chàng vẫn cắn răng ghìm chặt đôi chân, quyết không chui vào cái bẩy của hôn nhân.
Dì Sáu không còn kiên nhẫn nữa. Một hôm, khi nhờ Nhạn xối nước cho mình gội đầu, dì đã không thèm hỏi đon, hỏi ren mà nói thẳng thừng:
-Bộ con với thằng Nguyên cứ để yên như vầy hoài mà không cưới sao?
Nhạn giật mình. Cô cứ tưởng là chưa ai biết, nào dè...
Dì Sáu nói:
-Rượu ngon cách mấy mà để lâu thì cũng thành giấm. Con lúc nầy đương thời con gái, không lấy được chồng, mai mốt e là càng ngày càng khó!
Nhạn hỏi:
-Bộ má hổng biết là cái chuyện cưới hỏi nầy phải do người đàn ông lên tiếng trước hay sao?
Dì Sáu hỏi lại:
-Vậy là nó không có đá động gì tới chuyện đó hả?
Nhạn lắc đầu, nói:
-Con nghĩ chắc ảnh quá ngán cái chuyện vợ chồng rồi.
Dì Sáu lắc đầu làm lớp bọt trắng trắng, xám xám, bám trên tóc văng tung tóe:
-Con không nghe người ta nói, người đàn ông nào mà lấy dao khứa vô đầu gối, thấy không còn có máu chảy ra mới không cần tới chuyện đó hay sao?
Nhạn múc đầy một ca nước, xối cho lớp bọt trên đầu dì trôi xuống rồi hỏi:
-Chẳng lẽ con biểu ảnh là "cưới tui đi"?
Dì Sáu dừng hai bàn tay trên đầu, thôi quào tưng bừng mà xuống giọng, truyền bí quyết của những người đồng giới, cả của mình nữa cho cô con gái:
-Muốn đàn ông cắn câu thì phải nhấp, phải nhử họ y như nhấp cá vậy đó! Con có thấy mấy người câu rê hông? Họ đâu có đứng im ru chờ cá tới. Họ phải kéo cái mồi đi qua, đi lại sát cái miệng nó. Họ làm cho nó thèm chịu hết nổi, phải mở cái miệng ra cho bự hết cỡ rồi táp một cái phập.
Dì Sáu thở dài:
-Coi bộ cái chuyện nầy con làm không nổi đâu!
Nhạn nghe với nụ cười tủm tỉm trên môi. Nghĩ thầm:
-Tại con chưa muốn đó thôi!
Ngày đi đám cưới của người cháu gọi mình bằng cô ở Cai Lậy, dì Sáu và thầy Bảy chở luôn bé Xíu đi theo.
Trước ngày đó thầy Bảy kêu Nguyên lại nói:
-Ba với má Sáu con sẽ vắng nhà mấy ngày. Má Sáu sợ con tánh tình hời hợt nên có nhờ con Nhạn tối ở lại coi cửa nẻo giùm (từ ngày dì Sáu hoàn toàn bình phục, Nhạn không còn ở lại vào ban đêm). Ban ngày thì không sao chớ khuya tối mà hai đứa ở chung là bất tiện lắm. Con có muốn đi chơi đâu đó thì đi!
Thầy làm bộ nói thế thôi, chớ trong bụng chắc mẫm rằng, dù cho thiên lôi có xách búa đuổi Nguyên ra khỏi nhà, cũng chưa chắc trục xuất được chàng.
Chẳng biết trong thời ấy, việc "câu rê" có xảy ra hay không mà sau đó, khi họ vừa về tới nhà, thầy Bảy không được Nguyên cho nghĩ xả hơi. Thằng con nhẫn tâm ấy, luôn miệng hối thúc ông già tía lo việc cưới vợ cho mình. Nguyên nôn nóng như sắp chạy giặc, khiến thầy Bảy và dì Sáu cười thầm trong bụng!
Người đầu tiên được dì Bảy thông báo dĩ nhiên là chú, thím Chín.
Thím Chín vừa nghe xong là trợn thiếu điều lòi hai con mắt, nhìn dì Sáu mấy giây rồi hỏi:
-Bộ con Nhạn nó dính bầu rồi hả?
Dì Sáu lắc đầu lia lịa.
Dì làm ra vẻ phật ý mà nói:
-Nó cũng như tui vậy đó. Nghe chuyện thằng Nguyên đòi cưới mà giựt mình, chới với.
Thím Chín nói:
-Chắc nó phải hạp nhãn thằng Nguyên trước rồi nên mới ưng liền một cái rụp.
Dì Sáu giải thích:
-Đâu mà có! Tui nói hết nước, hết cái nó mới chịu nghe đó chớ!
Thím Chín chắt lưỡi:
-Ông bà mình nói câu nào là trúng câu đó. "Nam nữ thọ thọ bất thân" mà. Con Nhạn nó đâu phải em ruột, lại ngộ gái quá cho nên thằng Nguyên động lòng cũng phải.
Rồi thím nói:
-Nếu như không có chuyện thằng Công, nó dư sức lấy người giỏi gấp mấy lần thằng Nguyên. Dù chưa cưới nhưng ai cũng coi như nó đã có một đời chồng, cho nên ráp lại cũng xứng đôi, vừa lứa.
Im lặng giây lâu, thím hỏi tiếp:
-Mà sao gấp vậy. Cái chuyện kia mới xong, hay là nó bị thằng Nguyên ăn tươi nuốt sống rồi?
Dì Sáu lại lắc đầu, lần nầy còn mạnh hơn, dì nói:
-Thằng Nguyên nó hiền lắm, có giáo dục lắm, không có làm chuyện bậy bạ đó đâu! Huống hồ con Nhạn nó kỵ mấy cái chuyện đó thấu trời, đâu chịu để yên.
Thím Chín tán thành:
-Ừ! Bậm trợn như thằng Công mà còn bị nó đập tơi bời thì nói gì...
Rồi thím hỏi tiếp:
-Có khi nào nó bị thằng Nguyên cho uống thuốc ngủ rồi hành sự hông chị? Nhà ông thầy Bảy thuốc thiếu gì...
Dì Sáu ngắt ngang:
-Ổng để thuốc trong tủ, khóa lại rồi cất chìa khóa kỹ lắm, không có ai mó được đâu!
Thím Chín chưa hết ngờ vực:
-Hay là con Nhạn bị giọng kèn, tiếng quyển của thằng kia rù quyến. Người ta nói mấy người làm văn, làm thơ họ ăn nói hay lắm chị ơi! Cho tới nổi con kiến chui vô lỗ rồi mà cũng phải chui ra!
Lần nầy thì dì Sáu phật ý, dì sẵn giọng:
-Tui cam đoan với chị là hổng hề có chuyện đó đâu! Thằng Nguyên nó "tư cách" lắm, còn con Nhạn thì con trai tới gần nó không được, nói gì tới cái chuyện bỏ nhỏ bên lỗ tai!
Thím Chín biết mình đã lỡ lời nên làm dì Sáu chạm tự ái.
Thím liền giả lả:
-Nói nghe chơi thôi, chị bỏ qua cho tui. Ai mà hổng biết thằng Nguyên nó có ăn học đàng hoàng còn con Nhạn thì được chị dạy dỗ, đâu thể hư hèn đến vậy!
Suy nghĩ của thím Chín và dì Sáu cũng như hầu hết bà con ở xóm Cầu Ván. Cái đôi nào mà thương nhau trước rồi mới cưới, hay bị xem thường, nhứt là các cô gái. Họ bị coi như không thuộc về các gia đình nề nếp. Người ta thường quý trọng những nàng dâu mà cả thể xác lẫn tâm hồn đều trắng tinh, ngây thơ hoặc ngây ngô thì càng tốt.
Những cô gái cho dù có lấy được người mình thầm thương trộm nhớ, cũng phải làm ra vẻ bị ép uổng. Tới lúc lạy xuất giá phải khóc đến sưng vù cặp mắt mới được bà con trọng vọng.
Tình yêu giữa trai gái được xem như mầm mống của tai họa, phải bị diệt từ trong trứng. Ngay từ lúc còn nhỏ xíu, các bé gái đã bị nhồi nhét những mẫu chuyện rất hoang đường, tạo cho chúng một cái nhìn hết sức lệch lạc. Hậu quả là đa số đều ghét và đề phòng bọn con trai.
Chính vì tiêm nhiễm những tư tưởng như vậy, nên chuyện "vợ chồng" bị xem là hành động xấu xa nhứt. Người vợ buộc phải nhắm mắt, cắn răng chịu đựng. Họ thực hiện cái chức năng truyền giống đó bằng tâm trạng của một người đang làm điều vô đạo đức. Những xúc cảm, nếu có, thường được đón nhận với mặc cảm tội lỗi.
Cái chết do chứng "thượng mã phong" của người đàn ông, bị xem như là nỗi ô nhục của dòng họ cả hai bên. Người vợ bất hạnh đó chẳng những không được an ủi, cảm thông còn bị coi như phạm cái tội tày đình. Cái tội ấy được liệt vào hạng xấu hổ nhứt của người phụ nữ, khiến từ đó họ bị nhìn bằng cặp mắt dè bĩu, bị đối xử thiếu tôn trọng.
Những cô gái có cặp chưn mày đậm đen và gầy gò thường bị cho là có nhiều "dâm tính". Do vậy dù đẹp người, siêng năng, ăn nói khéo léo vẫn bị loại bỏ trong việc lựa dâu.
Người vợ phải tỏ ra chuyện chung đụng là điều mà mình phải cam chịu do nghĩa vụ chớ chẳng có tí gì vui thú hết. Ai suy nghĩ khác đi, đáp ứng hơi nồng nhiệt một chút có khi còn bị chồng hiểu lầm.
Dì Sáu muốn giữ thể diện cho Nhạn nên vờ như cô ưng Nguyên là do mình ép buộc.
Dì nói bằng giọng tâm sự:
-Chẳng giấu gì chị! Nó đâu có chịu, tui phải năn nỉ thiếu điều muốn gảy cái lưỡi. Tui nói với nó là tuy thằng Nguyên không giỏi chuyện làm ăn, nhưng được cái hiền lành, không biết uống rượu.
Dì liếc coi phản ứng của thím Chín ra sao rồi nói tiếp:
-Tui chỉ cho nó coi mấy thằng say rượu rồi rượt vợ rượt con chạy lòng vòng khắp xóm. Cho dù tụi nó giỏi cách mấy đi nữa mà hung dữ thì làm vợ chúng cũng đâu có được yên thân!
Thím Chín đã chịu nghe, thím gật gù ra vẻ đồng ý với dì Sáu. Thím nói:
-Nói nào ngay, nó vô nhà thầy Bảy cũng có phước, không cần làm cũng có ăn.
Việc tán đồng của thím Chín giúp dì Sáu yên bụng. Dì mạnh miệng thông báo cái đám cưới đó với chòm xóm, láng giềng, bà con hai họ.
Một sự việc xảy ra đã giúp chuyện Nhạn lấy Nguyên được bà con xóm cầu Ván thay đổi thái độ. Từ nghi ngờ, bất mãn sang nhiệt liệt tán thành.
Số là ngay ngày dì Sáu đi mời bà con, lối xóm. Chiều hôm đó, một cô gái ăn mặc theo kiểu thành thị, một tay cầm bóp, một tay xách cái va li có vẻ khá nặng, bước từ chiếc xe đò ngừng lại ở cột cây số đối điện bến đò, xuống xe một cách ì ạch, nặng nề.
Cổ ngoắc chiếc xe lôi anh hai Thám đang chạy tới, đưa tấm giấy có ghi địa chỉ ra cho ảnh coi để hỏi thăm. Cái bụng chửa to đùng của cổ khiến anh Hai động lòng trắc ẩn. Ảnh biểu cổ lên xe rồi chở giùm đến nhà cô hai Phước. Hóa ra cô gái là "mèo" của Công từ Sài Gòn xuống tìm y.
Xóm cầu Ván tưng bừng một mùa bội thu tin tức. Nếu cái tin đám cưới của Nhạn, như tiếng sét giữa trời quang, hãy còn làm bà con bàng hoàng... Thì cái tin Công làm con gái người ta có bầu rồi "quất ngựa truy phong" tiếp liền sau đó, lại như một quả mìn nổ ngay trước mặt, khiến bà con bay mất tiêu ba hồn, bảy vía. Họ như những người dân trong xứ sở hòa bình, bỗng hứng chịu một loạt bom mà cái trái sau cùng có sức tàn phá như một quả bom nguyên tử!
Không phải tử khí mà là một luồng sinh khí thổi qua xóm cầu Ván. Bà con lại có nhu cầu đi thăm viếng nhau. Tai họa của kẻ khác, nhứt là ở những người giàu hoặc mình không ưa, thường được đón nhận như một món quà xinh xắn. Họ vui khi nghĩ rằng mình may mắn không nằm trong hoàn cảnh đó.
Không khí ấy khiến người ta đâm ra cởi mở, cùng tỏ ra rộng lượng với nhau. Những va chạm nhỏ bé, những chuyện bực mình tủn mủn được xóa tan, như mấy nét phấn trên bảng bị miếng giẻ lau ướt nhẹp chùi sạch.
Mọi mũi dùi đều chĩa về nhà cô Hai Phước nên Nguyên và Nhạn được yên thân mà lo chuyện của mình. Nguyên bỏ cả một ngày đi qua tỉnh để mua vải cho Nhạn may áo cưới.
Khi được Nguyên trao cho xấp xoa màu tím nhạt, Nhạn hỏi:
-Sao anh biết em thích màu nầy.
Nguyên đáp:
-Em hợp với nó lắm!
Đám cưới được tổ chức rất giản dị. Chỉ những người gần gũi, thân thiết mới được mời. Thầy Bảy viện lý do, đây là cái lễ cưới thứ ba của Nguyên nên không dám làm phiền bà con.
Mợ hai Thọ mặc dù không nằm trong danh sách khách, nhưng cũng gởi thím Chín đưa tặng cho Nhạn một chai dầu thơm có dáng cô gái mặc áo dài, có cái nấp đậy hình chiếc nón lá. Chai dầu sau đó được Nhạn cho lại Tím. Nó được đặt ở chỗ trang trong nhứt trong cái tủ chưng áo dài giữa tiệm may.
Ông trời, tạm thời mượn bớt hạnh phúc của gia đình mợ hai Thọ, đem rót thêm dì Sáu và thầy Bảy.
Bên nhà thầy Bảy Chích vui bao nhiêu thì nhà cô Hai Phước buồn bấy nhiêu. Trong khi Nguyên chở Nhạn đi khắp xóm để ra mắt bà con thì Công trốn biệt tăm, biệt dạng.
Một lần, khi sắp ân ái với nhau, Nguyên kề tai vợ hỏi nhỏ:
-Em muốn anh làm cái gì cho em sung sướng nè?
Nhạn đáp một câu khiến chàng hụt hẩng:
-Em thích anh cắt tóc lên cho thiệt là ngắn!