← Quay lại trang sách

Chương 36 HIỆU ỨNG QUẢ BOM

Trung sỹ Ed Yankevich có lẽ là người đầu tiên để ý đến chuyện xảy ra bất thường. Anh dán mắt vào chiếc xe van, đi bộ hướng về phía nơi nó đang đậu cách chưa đầy 40 bước chân, nhưng hệ thần kinh con người hoạt động với tốc độ tính trên mily giây, quá muộn để phản ứng

Ngay khi tiếng rít vừa kết thúc, làn sóng phóng xạ đầu tiên đã ập đến viên sỹ quan cảnh. Đây là những tia gamma, thực chất là các photon được tạo ra từ cùng chất liệu tạo nên sóng ánh sáng, nhưng có năng lượng cao hơn. Nó cũng tấn công vào thân xe tải khiến các tấm thép quanh xe phát sáng như đèn. Theo sát sau tia gamma là tia X, cũng được tạo thành từ photon nhưng có năng lượng thấp hơn. Tuy nhiên, sự khác biệt này chẳng có ý nghĩa gì với Yankevich, nạn nhân sẽ chết đầu tiên. Bức xạ cường độ cao dễ dàng được xương của anh hấp thụ và nhanh chóng nóng lên đến mức phát sáng, đồng thời, các tế bào thần kinh trong não cũng bị kích thích, như thể mỗi tế bào thần kinh đã biến thành một bóng đèn flash. Trên thực tế, trung sỹ Yankevich chết trước khi kịp nhận ra điều. Vụ nổ đến từ một phần năng lượng rất nhỏ được hấp thụ trong cơ thể anh, trong khi phần năng lượng còn lại nhanh chóng truyền qua người. Nhưng tia gamma và tia X đang toả ra mọi hướng với tốc độ ánh sáng và hiệu ứng tiếp theo sẽ khiến không ai lường trước được

Thân chiếc xe, từng là chiếc xe tải phát sóng nhóm “A” của đài ABC, giờ đã biến thành bột kim loại có kích thướng phân tử, cạnh đó là nhiều người cũng chết mà chưa kịp nhận biết số phận mình, như trung sỹ. Cùng với đó là những thiết bị điện tử tinh vi và đắt tiền cũng biến mất tức thì. Nhưng ở phía sau chiếc xe này, hướng về phía nam trở lên là một ăng-ten dạng đĩa parabol lớn, không khác gì loại dùng cho radar. Ở trung tâm của nó, giống như nhị hoa, là ống dẫn sóng, về cơ bản là một ống kim loại có tiết diện hình vuông, đang truyền tín hiệu tới các vệ tinh cách xích đạo 22.600 dặm.

Đầu tiên, các ống dẫn sóng của xe tải phát sóng của Nhóm A, sau đó là tất cả 11 xe tải khác xếp hàng về phía tây của nhóm A đều bị trúng tia gamma và tia X. Các electron bay ra khỏi nguyên tử kim loại và ngay lập tức giải phóng năng lượng dưới dạng photon – một số ống dẫn sóng thậm chí còn được phủ một lớp lá vàng, tiếp thêm nhiên liệu vào lửa. Những photon này cũng tạo thành sóng có tần số gần bằng tần số của hệ thống tải lên của vệ tinh. Chỉ có một điểm khác biệt: hệ thống đường lên của vệ tinh không bao giờ có thể truyền tới một kilowatt năng lượng RF và trong hầu hết các trường hợp, nó truyền ít hơn thế nhiều. Tuy nhiên, năng lượng được truyền qua ống dẫn sóng của xe tải OB của Nhóm A đã giải phóng gần một triệu watt năng lượng trong một xung ngắn và dữ dội kéo dài chưa đến một phần triệu giây. Khi ăng-ten và chiếc xe tải gắn vào nó bị biến thành tro bụi bởi mặt trước năng lượng cực nóng, theo sau là xe tải nhóm “B” của ABC, và sau đó là xe tải của TWI, NHK – Xe tải Hiệp hội Phát thanh Truyền hình Nhật Bản, nơi phát sóng trực tiếp Siêu cúp tại Nhật Bản, đứng ở vị trí thứ tư. Có tám xe tải phát sóng khác, tất cả đều biến mất. Toàn bộ quá trình chỉ mất khoảng 15 “shake”. Các vệ tinh đang nhận tín hiệu mà chúng truyền đi ở rất xa và sẽ mất 1/8 giây để năng lượng này đến được các vệ tinh, đây là một khoảng thời gian cực kỳ dài, nói một cách tương đối là thế

Chiếc xe tải bị phá hủy chỉ là hiện trường vụ nổ, sau đó là sự phân tán năng lượng ánh sáng và nhiệt. Sóng xung kích ánh sáng đầu tiên được giải phóng trước khi quả cầu lửa giãn nở chặn nó lại. Đợt sóng xung kích ánh sáng thứ hai nhanh chóng thoát ra và tỏa ra mọi hướng. Điều này tạo ra xung ánh sáng hai giai đoạn, một dấu hiệu đặc trưng của vụ nổ hạt nhân. Hiệu ứng năng lượng tiếp theo là một làn sóng xung kích. Đây thực sự là một tác dụng phụ. Không khí, sau khi hấp thụ một lượng lớn tia X mềm, nó cháy thành khối không khí mờ đục ngăn chặn bức xạ điện từ tiếp theo, biến nó thành năng lượng cơ học có tốc độ gấp nhiều lần tốc độ âm thanh, nhưng trước khi năng lượng cơ học này có thể phá hủy bất cứ thứ gì thì nhiều điều đã xảy ra ở xa hơn

Trạm tiếp sóng truyền hình chính của ABC là cáp quang- một đường dây liên lạc mặt đất chất lượng cực cao- nhưng cáp được xe tải phát sóng Nhóm A sử dụng đã bị cắt trước khi chính sân vận động bị phá hủy. Đường link dự phòng được truyền qua vệ tinh Telesat 301, trong khi vệ tinh Telesat 302 phục vụ Bờ biển Thái Bình Dương. ABC duy trì liên lạc với 2 vệ tinh này thông qua các trạm thu mặt đất Net-1 và Net-2. Cũng đang sử dnjg Telstar 301 là Công ty Trans World International. Nó đã được Liên đoàn bóng đá quốc gia ủy quyền phát sóng các trận đấu trực tiếp tới hầu hết các nước châu Âu, cộng thêm Israel và Ai Cập. TWI không chỉ gửi cùng một tín hiệu TV tới tất cả khách hàng châu Âu mà còn cung cấp thiết bị để phân phối các ngôn ngữ châu Âu khác nhau giữa các đường truyền âm thanh, điều này thường có nghĩa là có nhiều hơn một đường âm thanh cho mỗi quốc gia. Ví dụ: Tây Ban Nha có năm phương ngữ, mỗi phương ngữ có kênh dải biên âm thanh riêng., chịu trách nhiệm phát sóng lại Nhật Bản, sử dụng cả vệ tinh JISO-F2R và vệ tinh Westar 4 do Hughes Aerospace sở hữu và vận hành mà họ thuê quanh. Các đài truyền hình Ý sử dụng vệ tinh Major Path 1 của Teleglobe (1 công ty con của tập đoàn Intelsat) để đáp ứng nhu cầu xem của khán giả trong nước, đồng thời phát cho 1 số khán giả ở Dubai và Israel, những người không muốn xem truyền hình trực tiếp của TWI và Telstar. Vệ tinh Major Path 2 của Teleglobe phục vụ việc phát sóng cho hầu hết quốc gia Nam Mỹ.Cùng phát sóng trong và ngoài sân vận động còn có CNN (kênh tin tức mới của ABC), CBS và. Các đài truyền hình địa phương ở Denver cũng đưa xe tải phát sóng vệ tinh của mình đến sân vận động, nhưng chúng chủ yếu được sử dụng để cho thuê.

Khi tia gamma và tia X ập đến như thủy triều, tổng cộng có 37 phương tiện phát sóng trực tiếp truyền lên vệ tinh đang tạo ra tổng cộng 48 bộ tín hiệu video và 168 bộ tín hiệu âm thanh tương ứng thông qua các máy phát vi sóng hoặc thư viện, phát sóng trực tiếp tới hơn một tỷ người hâm mộ ở 71 quốc gia. Trong hầu hết các trường hợp, luồng tia tạo ra tín hiệu trên ống dẫn sóng của xe tải, nhưng trong sáu xe, bản thân các ống sóng di chuyển được chiếu sáng trước tiên, phát ra các xung khổng lồ ở tần số thích hợp. Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng không đáng nhắc. Sự cộng hưởng và nhiễu loạn không liên tục trong ống dẫn sóng có nghĩa là các khu vực rộng lớn của tần số tín hiệu vệ tinh bị bao phủ bởi các gai nhiễu. Ngoại trừ hai vệ tinh liên lạc quay quanh Tây bán cầu, tất cả các vệ t đều đang được các đài truyền hình Denver sử dụng. Những gì đã xảy ra với họ rất đơn giản. Ăng-ten của chúng được thiết kế cực kỳ nhạy cảm, được thiết kế để nhận tín hiệu nhỏ tới vài phần tỷ watt. Nhưng giờ đây, nhiều kênh của họ bất ngờ bị tấn công bởi những tín hiệu mạnh hơn hàng chục triệu lần. Tác động này cũng làm quá tải nghiêm trọng bộ khuếch đại cuối tần số cao bên trong vệ tinh, vốn có cùng số kênh. Phần mềm máy tính điều khiển vệ tinh nhận thấy điều này và bắt đầu kích hoạt công tắc tắt nguồn để bảo vệ các bộ phận nhạy cảm khỏi tiếng ồn tăng vọt. Nếu lỗi chỉ ảnh hưởng đến một máy thu, quá trình phát sóng sẽ tiếp tục ngay lập tức và không có vấn đề gì xảy ra nữa. Tuy nhiên, vệ tinh liên lạc thương mại cực kỳ đắt đỏ, mỗi chiếc tốn hàng trăm triệu USD để chế tạo và hàng trăm triệu USD để phóng. Nếu có hơn năm bộ khuếch đại có mức nhiễu tăng đột biến, phần mềm sẽ tự động bắt đầu cắt mạch để ngăn ngừa hư hỏng nghiêm trọng cho toàn bộ hệ thống vệ tinh. Nếu có hơn 20 bộ khuếch đại bị ảnh hưởng, phần mềm sẽ tiếp tục tắt đường truyền trên tất cả các vệ tinh rồi gửi tín hiệu khẩn cấp đến trạm điều khiển mặt đất, cho biết đã xảy ra tai nạn nghiêm trọng. Tất cả phần mềm bảo mật vệ tinh đều được thiết kế để bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá và gần như không thể thay thế này. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, phần lớn thông tin liên lạc vệ tinh của thế giới đột nhiên bị gián đoạn, truyền hình cáp và hệ thống thông tin liên lạc đều bị tê liệt, đáng tiếc là các kỹ sư duy trì hoạt động của mình đã không nhận ra rằng một thảm họa đã xảy ra.

Pate Dawkins đang dừng lại 1 lúc để nghỉ ngơi Anh nghĩ nó cũng giống như đang canh giữ chiếc xe tải bọc thép này. Nhân viên bảo vệ của Wells Fargo đang đi giao vài bao tiền xu ở chỗ khác và viên sỹ quan cảnh sát ngồi xuống, tựa vào chiếc giá chứa đầy các túi đựng tiền xu và nghe đài radio. Đội Chargẻ đang phát bóng làn thứ 3 trong số 5 lần ở vạch xuất phát cách côn của đội Viking 74 feet. Đúng lúc, bầu trời đang tối dần bên ngoài đột nhiên chuyển sang màu vàng rực, rồi sang màu đỏ, nhưng không phải màu đỏ dịu dàng dễ chịu của mặt trời lặn mà là màu của hoa tím héo, chưa bao giờ rực rỡ đến thế. Đầu óc anh chưa kịp phản ứng thì vô số thứ kinh khủng đã ập đến cùng một lúc. Mặt đất bên dưới đột nhiên bị lật lên, chiếc xe bọc thép bị hất tung khỏi mặt đất, lăn sang một bên như một món đồ chơi bị trẻ con đá. Cửa sau xe vốn đang mở đã bị va đập mạnh như bị trúng đạn pháo. Thân xe—và kiến ​​trúc của sân vận động—đã chặn sóng xung kích cho anh, mặc dù Dawkins không có thời gian để nhận ra điều đó. Mặc dù vậy, anh gần như bị mù bởi tia sáng chiếu vào mình, như thể bị lòng bàn tay khổng lồ của một người khổng lồ tát, và tai anh bị điếc bởi một làn sóng siêu áp. Nếu Dawkins tỉnh táo hơn, anh hẳn sẽ nghĩ đến 1 trận động đất, nhưng anh thậm chí còn chưa kịp nghĩ đến điều đó. Giờ phản ứng của anh hoàn toàn do bản năng sốn còn dẫn. Tiếng ồn vẫn chưa lắng xuống, cơn chấn động vẫn chưa ngừng, nhưng anh nhận ra mình đang bị mắc kẹt bên trong một chiếc xe có bình xăng có lẽ chứa tới 50 gallon xăng. Anh chớp mắt, cố gắng nhìn rõ, rồi bò ra khỏi kính chắn gió vỡ vụn và hướng về điểm sáng nhất mà anh có thể nhìn thấy. Anh không để ý mu bàn tay mình đã đen sạm, trông tệ hơn bất kỳ vết cháy nắng nào anh từng bị. Anh cũng không nhận ra rằng mình không thể nghe thấy gì cả, tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là bò đến một nơi có ánh sáng.

* * * * * *

Ở ngoài Moscow, trong hầm trú ẩn dưới lớp bê tông dày 60m, là trụ sở của Bộ chỉ huy Lực lượng Phòng không Nội địa Liên Xô (Voyska PVO). 1công trình ngầm mới hoàn thành, giống như các đối tác phương Tây, được thiết kế theo hình thức giống như 1 nhà, cho phép số lượng người tối đa xem dữ liệu hiển thị trên bức tường lớn vốn luôn cần màn hình chiếu bản đồ phục vụ cho các nhiệm. Lúc đó là 03:00: 13 giờ địa ph, tương ứng 0:00:13 giờ Zulu (GMT) và 19:00:13 giờ Washington, DC. Đang làm nhiệm vụ là Trung tướng Ivan Grigoriyevich Kuropatkin, đã từng là – ông thích dùng từ “hiện là”- phi công chiến đấu, 51 tuổi. Ông là ngừoi có cấp bậc cao thứ 3 tại đây và giờ đang trong phiên trực. Là một sĩ quan cấp cao, tuy có thể lựa chọn đi trực vào những thời điểm thuận tiện hơn nhưng ông tin rằng các sĩ quan chuyên nghiệp trong quân đội Liên Xô mới phải gương mẫu. Xung quanh ông hiện là các nhân viên trực chiến như thường khi, bao gồm cả đại tá, thiếu tá, thêm 1 số lượng các đại uý, và trung uý làm các việc thông thường

Nhiệm vụ của Voyska PVO là bảo vệ Liên Xô chống lại các cuộc tấn. Trong thời đại tên lửa, trong bối cảnh thiếu các phương tiện phòng thủ hiệu quả chống lại tên lửa đạn đạo – cả Liên Xô và Mỹ vẫn đang phải vắt óc – vai trò của đơn vị là cảnh báo hơn là phòng thủ. Kuropatkin không thích chuyện đó, nhưng đâu thể làm được gì. Có một cặp vệ tinh nhân tạo trên quỹ đạo địa không đồng bộ trên bờ biển Peru, được gọi là Eagle-I và -II có nhiệm vụ theo dõi Hoa Kỳ và phát hiện các vụ phóng tên lửa, định vị tên lửa ngay khi chúng rời khỏi hầm chứa. Hai vệ tinh này cũng có khả năng phát hiện tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm ở Vịnh Alaska, mặc dù việc giám sát của chúng ở vùng cực bắc của Trái đất phụ thuộc phần nào vào điều kiện thời tiết. Nhưng lúc này, thời tiết vô cùng bất lợi, hình ảnh mà hai vệ tinh Eagle bay quanh quỹ đạo hiển thị chủ yếu là quang phổ hồng ngoại, dùng để đo nhiệt. Những gì được hiển thị chính xác như được nhìn thấy bởi camera vệ tinh, không có đường viền hoặc dữ liệu do máy tính tạo ra khác. Các nhà thiết kế người Nga cho rằng có thêm chúng sẽ lộn xộn màn hình một cách không cần thiết. Kuropatkin không nhìn lên màn hình mà chuyển sự chú ý sang một sỹ quan trẻ có vẻ đang tính toán gì, bất chợt ông chú ý đến 1 tình huống, đôi mắt ông tự động chuyển sang nhìn, vô ý thức và phải mất mấy giây mới hiểu tại sao

Một chấm trắng xuất hiện ở giữa màn hình.

“Nichevo/ Ôi Chúa ơi…” ông gạt bỏ ý nghĩ đó ngay tức thì “Tách hình ảnh này ra và phóng to nó lên!” ông lớn tiếng ra lệnh. Viên đại tá phụ trách điều khiển đang ngồi ngay cạnh ông, ngay lập tức làm

“Ở miền trung Hoa Kỳ, thưa tướng quân. Dấu hiệu nhiệt kép chớp nhoáng, có thể là một vụ nổ hạt nhân” viên đại tá máy móc nói, phán đoán chuyên môn của ông ta ngay lập tức lấn án các nghi ngờ

“Xác định toạ độ”

“Đang làm, thưa tướng quân” Khoảng cách giữa trung tâm chỉ huy và vệ tinh chắc chắn gây ra sự chậm chễ khi tiến hành. Tình huống được quan sát tụt hậu so với sự phát triển của các sự kiện. Khi ống kính viễn vọng trên vệ tinh bắt đầu chuyển động, dấu hiệu nhiệt từ quả cầu lửa đang lan rộng nhanh chóng. Kuropatkin ngay lập tức nhận ra đây không thể nào nhầm lẫn, và dù hình ảnh đó có nóng bỏng đến mấy thì thứ hiện hình trong bụng ông lại là một nắm đấm băng giá “Miền trung nước Mỹ, có vẻ là thành phố Densva”

“Denver, có cái quái gì ở Denver?” Kuropatkin hỏi “Tìm hiểu ngay”

“Rõ, thưa tướng quân” Kuropatkin đã đưa tay nhấc điện thoại. Đây là đường dây trực tiếp nối tới Bộ Quốc Phòng và cũng tới nơi ở của tổng thống Liên Xô. Ông nói nhanh nhưng rõ ràng “Chú ý: Đây là Trung tướng Kuropatkin ở PVO trung tâm Moscow. Chúng tôi vừa ghi nhận có một vụ nổ hạt nhân tại Hoa Kỳ. Tôi lặp lại: Chúng tôi vừa ghi nhận có 1 vụ nổ hạt nhân tại Hoa Kỳ” 1 tiếng rủa vang lên trên điện thoại. Đó là nhân viên trực đêm của tổng thống Narmonov

1 giọng khác, đó là của sỹ quan trực đêm thuộc Bộ Quốc Phòng, tỏ ra lý trí hơn “Ông chắc chắn đến mức độ nào?”

“Tín hiệu chớp đôi” Kuropatkin trả lời, thậm chí còn ngạc nhiên trước sự bình tĩnh của bản thân “Giờ tôi đang quan sát quả cầu lửa đó mở rộng. Đây là một sự kiện hạt nhân, Tôi sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn khi có…cái gì?” ông hỏi viên sỹ quan trẻ

“Tướng quân, vệ tinh Eagle. II vừa ghi nhận 1 làn sóng năng lượng, 4 link UHF tạm thời ngừng hoạt động, 1 đường link kahcs cũng mất hoàn toàn” viên thiếu tá nói, nghiên người về phía bàn của viên tướng

“Chuyện gì đã xảy ra, có chuyện gì?”

“Tôi không biết”

“Tìm hiểu ngay”.

Màn hình đột ngột trở nên tối đen khi San Diego đang chuẩn bị thực hiện cú tấn công 3-5 từ vạch 74 yard. Fowler vừa uốn hết lon bia thứ 4 và buổi chiều và giận dữ ném xuống. Mẹ kiếp mấy gã truyền hình. Chắc chắn có ai đó đã ngắt phích cắm nguồn điện, điều này sẽ khiến ông ta bỏ lỡ một hoặc hai cú đánh quan trọng trong một trận đấu vốn đã bắt đầu nóng lên. Ông giờ đang hối hận vì đã nghe lời khuyên của cơ quan Mật Vụ không đến xem trực tiếp trận đấu này. Ông liếc nhìn qua xem Elizabeth đang xem gì nhưng màn hình đó cũng đột nhiên tối đen. Có khi nào là một trong trong những chiếc máy xúc tuýet của mấy tay thuỷ quân lục chiến đã cắt đứt cáp không? Tổng thống làm bầm chúa ơi, thật đúng là không thể chịu được. Nhưng không, không đúng như thế Chi nhánh ABC – Kênh 13 của Baltimor, WJZ – hiện lên dòng chữ “Lỗi mạng – Vui lòng đợi” trong khi kênh Elizabeth xem giờ chỉ có bông tuyết và tiêngs ồn. Thật kỳ lạ. Giống như bất kỳ khán giả nam xem TV nào, Fowler cầm chiếc điều khiển TV lên và chuyển qua các kênh. CNN cũng cũng bị gián đoạn, nhưng các đài truyền hình địa phương Baltimor và Washington vẫn phát sóng. Ông ta chỉ vừa đang tự hỏi chuyện gì xảy ra thì chuông điện thoại bắt đầu reo. Đó là một âm thanh rất cao, khác thường, phát ra từ một trong bốn chiếc điện thoại dưới bàn cà phê trên chiếc ghế dài đối diện. Ông ta vô thức đưa tay ra trước khi nhận ra đó là tiếng chuông phát ra từ cái nào và chợt rùng mình. Đó là chiếc màu đỏ, chiếc gọi từ Trung tâm chỉ huy North American Aerospace Defense Command (NORAD) trên núi Cheyenne, Colorado “Tổng thống đây” Fowler giọng cộc cằn, cố che dấu sự sợ hãi

“Ngài tổng thống, đây là thiếu tướng Joe Borstein, tôi là sỹ quan trực NORAD. Sir, chúng tôi vừa ghi nhận có 1 vụ nổ hạt nhân ở miền trung nước Mỹ”

“Cái gì?” Sau 2 hoặc 3 giây tổng thống mới cất được lời

“Sir, có một vụ nổ hạt nhân. Chúng tôi đang kiểm tra địa điểm chính xác, nhưng có vẻ như là ở khu vực Denver”

“Anh chắc chắn không?” Tổng thống hỏi,cố giữ bình tĩnh

“Chúng tôi đang kiểm tra bằng mọi phương tiện, sir, nhưng, đúng thế, khá là chắc. Sir, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra hoặc nó xảy ra như thế nào, nhưng đó thực sự là một vụ nổ hạt nhân. Tôi đề nghị ngài di chuyển đến nơi an toàn ngay lập tức trong khi chúng tôi cố gắng tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra”

Fowler nhìn lên. Không một màn hình TV nào thay đổi, nhưng còi báo động đột nhiên vang lên khắp khuôn viên dinh tổng thống

* * * * * *

Căn cứ không quân Offutt, ngay ngoài Omaha, từng được gọi là Fort. Trong trại kỵ binh cũ này có một ngôi nhà gạch đỏ rất đẹp nhưng hơi lạc lõng, được dành riêng cho một số sĩ quan cao cấp nhất. Phía sau nhà có mấy chuồng ngựa nhưng đã bỏ trống từ lâu. Trước nhà có bãi diễn binh bằng phẳng cho một trung đoàn kỵ binh tập luyện. Cách đó một dặm là Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command – SAC), một toà nhà hiện đại hơn nhiều so với đồ cổ đậu ở phía trước, chiếc pháo đài bay B-17 trong Thế Chiến II. Cũng nằm bên ngoài toà nhà này, nhưng ở dưới mặt đất là trung tâm chỉ huy mới, vừa được hoàn thành vào năm 1989. Đây là một căn phòng cực kỳ rộng rãi, một số người dân địa phương nói đùa rằng đây là do hình ảnh về trụ sở Bộ Tư lệnh Không quân (SAC) trong mấy bộ phim của Hollywood đẹp hơn nhiều so với trụ sở ban đầu nên Không Quân đã quyết định xây lại để hình ảnh thực tế giống với hình ảnh trong phim

Thiếu tướng Chuck, phó tham mưu trưởng trực ban (Deputy Chief of Staff (Operations), không ở lại văn phòng mà đi xuống tầng dưới để đi một vòng, thực tế là xem trận Super Bowl đang được truyền hình trực tiếp trên một trong tám chiếc TV màn hình lớn. hai màn hình còn lại là hình ảnh trực tiếp từ Vệ tinh Chương trình Hỗ trợ Quốc phòng, được gọi đơn giản là vệ tinh DSPS (Defense Support Program Satellites), và cũng giốn như mọi người khác, ông nhìn thấy 2 ánh chớp liên tục ở Denver. Timmons đánh rơi cả cái bút chì đang cầm trên tay. Phía sau chiếc ghế phụ trách chiến đấu ông đang ngồi là vài căn phòng được bao kính – tổng cộng 2 tầng – đang là nơi làm việc của khoảng 50 nhân viên đang trong ca làm việc, họ là những người vận hành SAC suốt cả ngày đêm. Timmons nhấc điện thoại và bấm của của viên sỹ quan tình báo cấp

“Tôi đã thấy nó, sir”

“Có sai sót gì không?”

“Không phải, sir, kiểm tra thường khi cho thấy vệ tinh đang trong tình trạng tốt”

“Tiếp tục theo dõi và báo cáo” Timmons quay sang phó tướng “Gọi Sếp đến đây ngay. Báo động tất cả mọi người. Tôi muốn có 1 đội ứng phó khẩn cấp và 1 đội chiến đấu hoàn chỉnh – Làm ngay đi!” Rồi nói với viên sỹ quan phụ trách chiến đấu “Cho Looking Glass cất cánh ngay! Ra lệnh cho tất cả các cánh cảnh báo chuẩn bị cất cánh và đưa ra cảnh báo khẩn cấp cho tất cả mọi người”

Trong ngôi nhà lắp kính phía sau vị tướng, phía sau bên trái của ông, một trung sĩ đang nhấn một loạt nút. Dù SAC từ lâu đã ngừng cho máy bay tuần tra trên bầu trời suốt ngày đêm, nhưng 30% số máy bay của SAC luôn trong tình trạng báo động. Lệnh tới lực lượng cảnh báo được truyền qua đường dây liên lạc mặt đất, sử dụng giọng nói do máy tính tạo ra vì mọi người có thể không nói rõ ràng trong các tình huống xúc động. Phải mất khoảng hai mươi giây mệnh lệnh mới được truyền đi và các sĩ quan chiến đấu ở đội cảnh báo ngay lập tức hành động.

Lúc này có hai phi đội đang làm nhiệm vụ canh gác. Một là Đội ném bom số 416 đóng tại Căn cứ Không quân Griffiss, Rome, New York trên máy bay B-52, và Hai là Đội ném bom số 384 trên chiếc B-1B xuất phát từ Căn Cứ Không Quân McConnell ở Kansas. Hầu hết các phi hành đoàn đều đang ở phòng chờ, tranh thủ xem trận Sup, sau khi nghe thấy tiếng báo động, họ lập tức lao ra khỏi phòng, bắt một chiếc ô tô chờ sẵn ở bên ngoài và đến máy bay trong tình trạng an ninh nghiêm ngặt. Người đầu tiên trong số 4 thành viên phi hành đoàn chạy tới đã nhấn nút khởi động khẩn cấp ở bánh trước, sau đó chạy ra phía đuôi và leo lên thang cuốn để nhảy lên máy bay. Động cơ máy bay khởi động trước khi tất cả thành viên phi hành đoàn thắt dây an toàn. Đội mặt đất tháo chiếc cờ nhỏ màu đỏ đóng vai trò như là chốt an. Đội bảo vệ được trang bị súng trường trên đường ra đến máy, súng hướng ra ngoài để sẵn sàng đối phó với mọi mối đe doạ có thể xảy. Cho đến lúc này, khong ai biết rằng đây không phải là buổi huấn luyện bất

Tại McConnnell, chiếc máy bay đầu tiên cất cánh là chiếc B-1B do chính chỉ huy phi đội lái. Có thể chất rất cường tráng so với tuổi 45, vị đại tá có thuận lợi là máy bay của anh gần phòng chờ của tổ bay nhất để làm nhiệm vụ. Khi cả 4 động cơ của máy bay đã khởi động và đường băng đã được thông thoáng, anh lập tức nhả phanh và cho máy bay lao về cuối đường băng, chỉ mất hai phút, tuy nhiên khi đến điểm cất cánh, anh bất ngờ nhận lệnh đợi

* * * * * *

Tại Offutt, chiếc KC-135 được lệnh báo động, hoạt động không hạn chế. Được gọi là “Looking Glass”, đây là chiếc máy bay được cải tiến từ chiếc Boeing 707 – 25 tuổi- trên máy bay có 1 sỹ quan cấp tướng và 1 đội chiến đấu đầy đủ năng. Máy bay vừa cất cánh, màn đêm dần dần buông xuống. Kênh radio trên máy bay và các link chỉ huy vừa được kết nối, viên sỹ quan cấp tướng trên máy bay vẫn không biết được tất cả những ồn ào này là gì. Phía sau ông, dưới mặt đất, 3 chiếc máy bay giống hệt nhau khác đang hồi hộp chuẩn bị cất cánh.

“Chuyện gì vậy Chuck?” vị Tổng tư lệnh SAC hỏi ngay khi bước vào. Ông vẫn đang mặc thường phục và dây giày thậm chí còn chưa buộc

“Có vụ nổ hạt nhân ở Denver và vừa phát hiện ra rằng có một số trục trặc trong đường dây liên lạc vệ tinh. Tôi đã ra lệnh cho máy bay cảnh báo luôn trong tình trạng báo động. Looking Glass vừa cấp cánh. Vẫn không biết chuyện quái gì đang xảy ra, nhưng Dever bay rồi”

“Ra lệnh cất cánh” vị tổng tư lệnh SAC ra lệnh. Timmons ra hiệu cho một sỹ quan liên lạc thực hiện làm theo. 20 giây sau, chiếc B-1B đầu tiên gầm lên bầu trời McConnell

* * * * * *

Đây không phải là lúc lịch sự. Một đại tá thuỷ quân lục chiến đẩy cánh cửa ra vào cabin của Tổng Thống và ném 2 chiếc áo parka màu trắng cho Fowler và Elliot ngay cả trước khi viên đặc vụ thuộc Sở Mật Vụ xuất hiện “Sir, mặc vào ngay!” ông yêu cầu “trực thăng vẫn hỏng, sir”

“Đi đâu?” Pete Connor xuất hiện với chiếc áo khoác còn chưa cài cúc, vừa lúc nghe người lính thuỷ quân lục chiến nói

“Trung tâm chỉ huy, trừ khi anh ra lệnh khác, Trực thăng vẫn hỏng” viên đại tá lặp lại “Nhanh lên, sir” Ông ta gàn như hét vào mặt tổng

“Bob!” Elliot hoảng sợ. Cô ta không biết tổng thống đã nghe thấy gì qua điện thoại, nhưng ông ta trông trắng nhợt và ốm yếu. Cả 2 cùng mặc chiếc parka và bước ra ngoài. Họ thấy toàn bộ đội lính thuỷ đánh bộ đã đứng sẵn ở đó, trên tuyết, súng trường đã nạp đanj chỉ ra khắp xung quanh. 6 người lính đứng quanh chiếc Hummer nổ sẵn máy

Tại căn cứ không quân hải quân Anacostia tại Washington, phi hành đoàn chiếc Marine 2 – nó sẽ không biến thành chiếc Marine 1 cho đến khi tổng thống bước chân lên máy bay- vừa cất cánh trong một trận bão tuyết khó chịu, nhưng chỉ trong vài giây họ đã rời khỏi hiệu ứng mặt đất, tầm nhìn trở nên rõ ràng hơn. Viên phi công, 1 thiếu tá, quay chiếc máy bay về hướng tây bắc, tự hỏi chuyện quái gì đang xảy ra. Người duy nhất biết mọi thứ lại gần như biết rằng họ vẫn chưa biết quá nhiều đều. Nhưng vài phút sau, chuyện này cũng không còn quan trọng. Giống như tất cả quân đội, họ đều có kế hoạch về cách đối phó với các trường hợp khẩn cấp bất ngờ xảy đến và được diễn tập nhiều lần, thứ nhất là để kiểm tra xem kế hoạch có khả thi hay không, thứ hai là để giảm bớt nỗi sợ hãi có thể đến từ sự thiếu quyết đoán xen lẫn nguy hiểm.

* * * * * *

“Có chuyện quái gì đang xảy ra ở Denver mà tôi cần phải biết không?” Tướng Kuropatkin hỏi từ boongke nằm ở ngoại ô Moscow

“Theo tôi biết thì không có gì” viên sỹ quan tình báo thành thực trả lời. Viên tướng nghĩ, đúng là giúp đỡ hữu ích thật. Ông nhấc điện thoại gọi đến trụ sở tình báo quân đội Liên Xô, GRU

“Trung tâm chiến đấu/ theo dõi nghe đây” một giọng nói cất lên

“Đây là tướng Kuropatkin ở PVO Moscow”

“Tôi biết lý do ông gọi tới” viên đại tá GRU khẳng định

“Chuyện gì đang xảy ra ở Denver thế? Có phải là một kho vũ khí hạt nhân hay gì đó không?”

“Không, thưa tướng quân. Xưởng vũ khí Rocky Mountain Arsenal ở ngay gần đó. Đó là một kho vũ khí hoá học, đang trong quá trình dỡ bỏ. Nó sẽ được chuyển đổi thành một kho chứa dự bị cho Quân đội mỹ – họ gọi là Lực lượng vệ binh quốc gia – xe tăng và các thiết bị cơ khí. Bên ngoài Denver là Rocky Flats. Họ từng chế tạo các thiết bị vũ khí ở đó, nhưng…”

“Chính xác là ở đâu?” Kuropatkin hỏi

“Tây Bắc thành phố. Tôi tin vụ nổ xảy ra ở phía nam Denver, thưa tướng quân”

“Chính xác. Tiếp tục đi”

“Rocky Flats cũng đang trong quá trình dỡ bỏ. Theo thông tin tốt nhất của chúng tôi thì không có loại vũ khí nào có ở đó nữa”

“Họ đang vận chuyển vũ khí qua đó sao? Tôi phải tìm hiểu rõ chuyện đang xảy ra” viên tướng cuối cùng không nhịn được nữa

“Tôi không còn biết gì hơn. Chúng tôi cũng đang trong bóng tối như bên ngài. Có lẽ KGB có nhiều thông tin hơn, nhưng chúng tôi hiện chỉ biết có thế” Kuropatkin biết ông không thể bắn 1 người chỉ vì người ta trả lời trung thực. Ông lại bấm 1 số điện thoại khác. Giống như hầu hết quân nhân chuyên nghiệp, ông chả thích gì mấy tay gián điệp, nhưng gọi thì vẫn phải gọi

“An Ninh Quốc Gia, Trung Tâm Chỉ Huy” 1 giọng nam cất

“Phòng theo dõi Hoa Kỳ, sỹ quan trực”

“Xin chờ” Sau tiếng kêu bíp bíp như thường lệ, một giọng nữ trả lời “Phòng theo dõi Hoa Kỳ”

“Đây là trung tướng Kuropatkin thuộc PVO trung tâm Moscow” ông lặp lại “Tôi cần phải biết có chuyện gì đang xảy ra ở miền trung Hoa Kỳ, nếu có, thành phố Denver”

“Rất ít, tôi nghĩ thế. Denver là một thành phố lớn và một trng tâm hành chính lớn của chính phủ Mỹ, thực tế là lớn thứ 2 sau Washington. Hiện đang là tối chủ nhật bên đó và khó có thể xảy ra chuyện gì vào lúc này” Kuropatkin nghe tiếng lật giấy “Ồ, vâng”

“Phải, chuyện gì?”

“Có trận chung kết của Liên đoàn Bóng đá Mỹ, đang diễn ra ở sân vận động nằm ở khu vực mới thuộc Denver, tôi tin đây là một kiến trúc đóng

Kuropatkin cố gắng hết sức để kiềm chế bản thân không hét vào mặt người phụ nữ này những điều vô nghĩa “Tôi không cần mấy thông tin. Có sự bất mãn, bất ổn nào của công chúng hay bất kỳ vấn đề nào tồi tệ hơn ở đó không? Có kho chứa vũ khí hay căn cứ bí mật nào đó mà tôi không biết không?”

“Thưa tướng quân, mọi thứ chúng tôi biết liên quan đến câu hỏi đã đượ trả lời. Tại sao ngài lại hỏi câu hỏi này?”

“Cô này, đang có một vụ nổ hạt nhân ở đó”

“Tại Denver sao?”

“Phải!”

“Chính xác là ở đâu?” cô hỏi, bình tĩnh hơn viên tướng

“Chờ một chút” Kuropatkin quay sang “Tôi cần vị trí chính xác của vụ nổ, cần ngay!”

“39°40′ vĩ độ bắc, 105°06′ kinh độ tây. Các số liệu chỉ mang tính chất gần đúng” viên trung uý phụ trách theo dõi vệ tinh nói thêm “Chúng tôi không có độ phân giải tốt về phổ hồng ngoại, thưa Tướng quân” Kuropatkin chuyển thông tin đó cho người phụ nữ đang nghe điện thoại “Chờ một chút. Tôi cần phải lấy bản đồ”

* * * * * *

Andrey Il’ych Narmonov vẫn đang ngủ. Moscow hiện đang là 3.10 sáng. Tiếng chuông điện thoại vang lên đánh thức, và ngay sau đó cửa phòng ngủ mở ra. Narmonov gần như giật mình. Không ai từng được phép vào phòng ông mà không xin phép trước. Đó là thiếu tá Pavel Khrulev của KGB, đội phó đội cận vệ của tổng thống

“Ngài tổng thống, có 1 trường hợp khẩn cấp. Ngài cần phải đi với tôi ngay lập tức”

“Chuyện thì thế Pasha?”

“Vừa có 1 vụ nổ hạt nhân tại Mỹ”

“Gì? Ai?”

“Tôi chỉ biết có thế. Chúng ta phải đến boongke chỉ huy ngay lập tức. Xe đang đợi. Không đủ thời gian mặc quần áo” Khrulev khoác cho ông cái áo ngủ.

Ryan dập tàn thuốc, vẫn tức giận về cái gọi là “Có vấn đề về kỹ thuật – vui lòng đợi 1 lát” khiến anh không thể theo dõi trận đấu. Goodley bước đến, cầm theo 2 lon coke. Bữa tối vừa được đặt nhà hàng mang tới

“Có chuyện gì thế?” Goodley hỏi

“Truyền hình bị cắt” Ryan cầm lấy lon coke và mở nắp

* * * * * *

Tại trụ sở SAC, 1 vị trung tá ngồi ở phía bên trái của hàng thứ ba đang đang kiểm tra các kênh truyền hình. Căn phòng này có 8 màn hình, chia thành 4 hàng. Mỗi màn hình có thể hiển thị đồng thời hơn 50 kênh truyền hình riêng biệt và người phụ nữ này là một sỹ quan tình báo, theo bản năng đầu tiên, cô kiểm tra các kênh truyền hình mới. Cô nhanh chóng bấm các nút điều khiển trên remote và nhận thấy cả CNN và các kênh trực thuộc CNN Headline News đều mất. Cô biết rất rõ chúng sử dụng nhiều vệ tinh khác, điều này khiến cô trở nên tò mò – đức tính quan trọng nhất trong ngành tình báo. Hệ thống truyền hình tại đây cũng có thể thu được các kênh truyền hình cáp khác và cô kiểm tra từng kênh một. HBO dừng. Showtime dừng. ESPN dừng. Cô kiểm tra danh mục kênh truyền hình trong tay và kết luận rằng ít nhất bốn vệ tinh đã ngừng hoạt động. Đến lúc này, vị trung tá đứng lên và bước tới phía Tổng tư lệnh (C IN C-SAC)

“Sir, có điều gì đó rất lạ đang xảy ra ở đây”

“Là chuyện gì?” Tổng tư lệnh SAC không quay đầu lại

“Ít nhất có 4 vệ tinh thương mại đang gặp trục trặc. Bao gồm 1 vệ tinh Telstar, 1 Intelsat, 1 Hughes. Tất cả đều dừng hoạt động, sir” Tin tưc này khiến vị tổng tư lệnh SAC phải quay đầu lại

“Còn gì nữa không?”

“Sir, NORAD báo cáo rằng vụ nổ đó xảy ra ở trung tâm thành phố Denver, rất gần với Skydome nơi diễn ra trận Superbowl. Cả SecState (ngoại trưởng) và SecDef (bộ trưởng quốc phòng) đều đang ở đó xem trận đấu, sir”

“Chúa ơi, cô nói đúng” vị tổng tư lệnh SAC bất chợt nhận ra

Tại Căn cứ không quân Andrews, Máy bay chỉ huy không quân khẩn cấp quốc gia – NEACP, còn gọi là “Kneecap” – đậu ngay trên đường b, hai trong số bốn động cơ đã khởi độngm đang đợi ai đó đến là phi hành đoàn có thể cất cánh ngay

* * * * * *

Thuyền trưởng Jim Rosselli vừa mới vào ca trực 1 giờ thì cơn ác mộng này đến. Ông hiện đang ngồi trong Phòng Kiểm Soát Khủng Hoảng NMCC, ước thì có một sỹ quan phụ trách treo cờ ở đây. Nhưng điều này thật không thể. Trung tâm Chỉ huy Quân sự Quốc Gia (National Military Command Center -NMCC) từng có một tướng lục quân hoặc một đô đốc hải quân trực 24/24, nhưng với sự tan băng trong quan hệ Đông-Tây và tinh giản tổ chức Lầu Năm Góc, giờ đây chỉ còn một sĩ quan cấp cao trực điện thoại, nhưng công việc hành chính hàng đều được xử lý bởi các sỹ quan cấp uý và cấp tá. Rosselli nghĩ, thế này cũng tốt lắm rồi. Ít nhất ông cũng biết cảm giác có trong tay nhiều vũ khí hạt nhân là như thế nào

“Cmn, chuyện gì đang xảy ra thế?” Trung tá Richard Barnes nhìn chằm chằm vào bức tường, lên tiếng hỏi. Ông cũng biết rằng Rosselli không biết

“Lính mới, chúng ta nên đợi 1 chút chứ?” Rossselli bình tĩnh hỏi lại. Giọng ông bình bình. Nhìn thái độ và giọng nói của ông, không ai tưởng được trong lòng ông đang dậy sóng, nhưng 2 bàn tay của ông toát mồ hơi ướt đến mức khi chà sát tay vào quần đã tạo nên một vết ẩm rõ ràng trên chiếc quần màu xanh nước biển

“Anh nói đúng, Jim”

“Gọi Tướng Wilkes, bảo ông ấy đến đây ngay”

“Vâng” Barnes bấm số điện thoại trên đường dây an ninh, gọi Chuẩn tướng Paul Wilkes, cựu phi công lái máy bay ném bom, hiện đang ở nhà công vụ tại Căn Cứ Không Quân Boiling, chỉ cách Sân Bay Quốc Gia con sông Potamac

“Alo” Wilkes cộc cằn

“Barnes đây, sir. Chúng tôi cần ngaì có mặt tại NMCC ngay lập tức” viên đại tá chỉ biết nói thế. Đối với một phi công thì từ “ngay lập tức” có ý nghĩa rất đặc biệt

“Đến ngay đây” Wilkes gác điện thoại và lẩm bẩm “Cảm ơn Chúa vì chúng ta có được chiếc ô tô 4 ánh”. Ông khoác ngay một chiếc áo parka mùa đông màu xanh cỏ, bước ra khỏi nhà không cả đi bốt. Chiếc xe cá nhân của ông là một chiếc Land Cruiser của hãng Toyota, vốn được ông rất thích lái về vùng nông thôn. Ngay khi khởi động xong, ông rùi ra khỏi gara và lái qua những con đường gồ ghề

* * * * * *

Phòng Khủng Hoảng của Tổng Thống tại Trại David là một di tích lỗi thời của quá khứ, hoặc đại loại đó là những gì Bob Fowler suy nghĩ khi lần đầu tiên nhìn thấy nó cách đây 1 năm. Nó được xây dựng từ thời Eisenhower, đợc thiết kế nhằm chống lại cuộc tấn công hạt nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại mà độ chính xác của tên lửa được đo bằng dặm chứ không phải bằng, ẩn sâu trong đá granit của dãy núi Catoctin thuộc phía tây Maryland, với một lớp bảo vệ vững chắc dài 60, được cho là nơi trú ẩn bất khả xâm phạm an ninh cao cho đến khoảng những năm 1975. Bên trong phòng rộng 30 feet, dài 40 feet và cao 10 feet, là nơi làm việc cho đội nhân viên 12 người, hầu hết là sỹ quan liên lạc của hải quân, trong đó có 6 người vẫn còn tại ngũ. Thiết bị ở đây không hiện đại như ở NEACP hay các văn phòng khác dành cho tổng thống. Tổng thống Fowler đang ngồi trên 1 chiếc bàn điều khiển trông giống như bàn điều khiển của NASA những năm 1960. Thậm chí còn có 1 cái gạt tàn trên bàn. Trước mặt là một dãy màn hình TV. Chiếc ghế này rất thoải mái ngay cả khi tình thế lúc này không mấy dễ chịu. Elizabeth Elliot ngồi ngay cạnh ông ta

“Được rồi” Tổng thống J. Robert Fowler nói “chuyện quái gì đang diễn ra thế?” Nhìn thấy viên sỹ quan cao cấp phụ trách báo cáo trước mặt là một trung tá hải quân, ông ta cho rằng tình hình có vẻ không hứa hẹn cho lắm

“Sir, chiếc trực thăng của ngài đang có vấn đề cơ khí. Một chiếc trực thăng thứ 2 của bên thuỷ quân lục chiến đang trên đường đến đây để đưa ngài tới Kneecap. Hiện chúng tôi đang kết nối với tư lệnh SAC và tư lệnh NORAD. Những nút này cho phép ngày liên hệ với các tư lệnh khác” viên sỹ quan hải quân ở đây hàm ý nói về một loạt các tư lệnh bộ chỉ huy quân sự lớn: Tư lệnh CLANT (Commander-in-Chief Atlantic – Đại Tây Dương) tướng Joshua Painter, USN; Tư lệnh Thái Bình Dương (C IN C-P AC) cả hai vị trí theo truyền thống do hải quân nắm giữ. Tư lệnh Miền Nam (C IN C-S OUTH) ở Panama; Tư lệnh miền Trung (C IN C-C ENT) ở Bahrain; Tư lệnh bộ tác chiến đặc biệt (C IN C-F OR) tại Fort McPherson tại Atlanta, Georgia theo truyền thống do bên lục quân nắm giữ. Ngoài ra còn có các bộ tư lệnh khác, bao gồm SACEUR (Supreme Allied Commander Europe – Bộ Tư Lệnh đồng minh Tối cao Châu Âu), tư lệnh chính của lực lượng NATO hiện đang do 1 tướng 4 sao của Hoa Kỳ nắm giữ. Theo cơ cấu chỉ huy hiện, các chỉ huy chính của các đội quân này thực tế không có quyền chỉ huy. Họ chỉ có thể đưa ra khuyến nghị cho Bộ trưởng Quốc phòng, người này sẽ đưa ra khuyến nghị cho Tổng thống. Các sắc lệnh do Tổng thống ban hành cũng phải được thông báo tới các Tổng tư lệnh thông qua Bộ trưởng Quốc phòng. Nhưng hiện tại SecDef…..

Fowler nhìn xuống chiếc nút có dán nhãn NORAD và bấm vào đó “Đây là Tổng Thống. Tôi đang ở phòng liên lạc thuộc Trại David”

“Thưa Tổng Thống, đây vẫn là Thiếu tướng Borstein. Sir, tư lệnh NORAD không có mặt tại đây. Ông ấy vốn ở Denver để xem trận Superbowl. Ngài tổng thống, trách nhiệm của tôi là thông báo với ngài rằng các thiết bị của chúng ghi nhận vụ nổ xảy ra ở chính sân vận động Skydom ở Denver hoặc gần đó. Có vẻ như cả Bộ trưởng Bunker và Talbot đều đã chết ở đó, cùng với tư lệnh NORAD”

“Phải” Fowler nói, giọng không cảm xúc. Ông ta cũng đã đi đến kết luận

“Vị phó tổng tư lệnh hiện đang trong kỳ nghỉ. Trong vài giờ tới, tôi sẽ là chỉ huy cao cấp nhất của NORAD cho đến khi có sỹ quan cao cấp hơn quay về”

“Tốt lắm. Giờ: Chuyện quái gì đang diễn ra thế?”

“Sir, chúng tôi không biết. Không có dấu hiệu gì bất thường trước vụ nổ này. Không hề có – tôi nhắc lại, sir – chuyến bay nào xâm nhập nội địa trước vụ nổ này. Chúng tôi đang cố gắng liên lạc với kiểm soát không lưu tại Sân bay quốc tế Stapleton để yêu cầu hỏi kiểm tra lại các băng ghi theo dõi radao xem có phươn tiện chuyên chở khả nghi nào không. Chúng tôi không hề nhìn thấy bất kỳ phương tiện nghi ngờ nào trong phạm vi giám sát của mình cả”

“Các ông không thấy có một máy bay riêng lẻ xâm nhập nội địa nào sao?”

“Không cần thiết sir” tướng Borstein trả lời “Dù đây là một hệ thống tốt, nhưng luôn có cách để gian lận, đặc biệt khi ngài chỉ dùng 1 máy bay riêng lẻ. Dù sao thì, thưa tổng thống, có vài hành động chúng ta cần phải làm ngay. Liệu chúng tôi có thể trình bày ngay bây giờ chứ?”

“Được”

“Sir, theo thẩm quyền của tôi với tư cách là quyền tổng tư lệnh NORAD, tôi đã ra lệnh chuyển trạng thái sang cảnh báo phòng thủ Cấp 1 DEFCON-ONE. Như ngài biết, NORAD có quyền đó và thẩm quyền phóng vũ khí hạt nhân với mục đích phòng thủ”

“Các ông sẽ không được phóng bất kỳ vũ khí hạt nhân nào mà không được sự chấp thuận của tôi” Fowler kiên quyết

“Sir, vũ khí hạt nhân duy nhất chúng tôi có trong kho vẫn đang cất giữ” Borstein. Những người lính khác trong sở chỉ huy phải ấn tượng trước giọng điệu điềm tĩnh và kiên định của ông “Tôi đề nghị bước tiếp theo chúng ta cần phải họp tele với tư lệnh SAC”

“Làm đi” Fowler ra. Cuộc gọi đượ trả lời tức thì

“Ngài tổng thống, đây là tư lệnh SAC” Tướng Peter Fremont, USAF vang lên đúng tông giọng lính chuyên nghiệp

“Chuyện quái gì đang diễn ra?”

“Chúng tôi không biết, nhưng có vài hành động cần hành động tức thì”

“Tiếp tục đi”

“Sir, tôi đề nghị chúng ta ngay lập tức phải đặt tất cả các lực lượng chiến lược trong tình trạng báo động cao hơn hiện tại. Tôi đề nghị lên DEFCON-2. Nếu chúng ta đang thực sự đối phó với một cuộc tấn công hạt, lực lượng của chúng ta sẽ được chuẩn bị đầy đủ nhất có thể. Điều này sẽ đảm bảo rằng chúng ta có thể đưa ra phản ứng mạnh mẽ nhất trước cuộc tấn công của kẻ thù. Nó còn có thể có tác dụng răn đe, khiến hắn ta – hoặc chúng ta giả sử đó là hắn ta – phải suy nghĩ lại”

“Nếu tôi có thể đề nghị thêm, sir, chúng ta cũng cần nâng mức độ cảnh báo lên toàn diện. Nếu không vì lý do nào khác, cần phải giữ tất cả các đơn vị quân đội trong tình trạng sẵn sàng hỗ trợ dân thường và giảm bớt sự hoảng loạn của họ. Tôi đề nghị lên mức DEFCON-3 cho các lực lượng thông thường”

“Tốt hơn là nên làm điều đó có chọn lọc. Robert” Liz Elliot nói

“Tôi nghe thấy – ai vậy?” Borstein hỏi

“Đây là cố vấn an ninh quốc gia” Liz nói, giọng hơi to, khuôn mặt nhợt nhạt như chiếc áo lụa đang mặc. Fowler vẫn giữ được bình tĩnh. Elliot đang cố gắng hết sức để làm được như thé

“Chúng ta chưa gặp nhau, tiến sỹ Elliot. Thật không may, hệ thống chỉ huy- và-kiểm soát của chúng ta không cho phép chung ta làm điều đó có chọn lọc – ít nhất là không nhanh đến mức này. Tuy nhiên, nếu chúng ta đưa ra cảnh báo bây giờ, chúng ta có thể kích hoạt tất cả các lực lượng cần thiết, sau đó chọn lọc những lực lượng chúng ta cần hành động. Điều này sẽ giúp chúng ta tiết kiệm được ít nhất 1 giờ. Đó là đề nghị của tôi”

“Tôi đồng ý” Tướng Fremont nói ngay vào

“Rất tốt, làm đi” Fowler nói, đề xuất này nghe có vẻ hợp lý

Các lệnh được truyền tải qua các kênh riêng biệt. Tư lệnh SAC thông báo cho các lực lượng chiến lược. Lệnh hành động khẩn cấp đầu tiên (Emergency Action Message) được gửi tới các đội bay của SAC bằng giọng robot nói trên máy tính, yêu cầu ở chế độ chờ cất cánh khẩn. Mặc dù các căn cứ máy bay ném bom của Lực lượng Không quân Chiến lược (SAC) đã biết rằng họ đang trong tình trạng báo động, nhưng sự xuất hiện của lệnh cảnh báo phòng thủ Cấp 2 (DEFCON-TWO) khiến mọi việc trở nên chính thức hơn và đáng lo ngại hơn. Các đường truyền thông cáp quang trên đất liền mang các mệnh lệnh tương tự tới hệ thống radio tần số cực thấp của bên hải quân đặt tại Bán Đảo Thượng Peninsula thuộc Michigan. Tín hiệu ở đây sẽ được gửi bằng mã Morse cơ học. Hệ thống vô tuyến này về cơ bản chỉ có thể gửi từng ký tự một, rất chậm, giống như người mới gõ máy, nhưng thực chất nó hoạt động như một hệ thống nhắc nhở, thông báo cho tàu ngầm nổi lên và nhận thêm thông tin do thiết bị vô tuyến trên vệ tinh truyền đi..

Tại King’s Bay, Georgia, Charleston, South Carolina, và Groton, Connecticut cùng 3 địa điểm khác trên Thái Bình Dương, mệnh lệnh được gửi bằng đường dây liên lạc trên bộ và đường vệ tinh được truyền tới các sĩ quan trực ban thuộc từng phi đội tàu ngầm tên lửa, hầu hết trong số đó đang làm nhiệm vụ ngoài biển. Có tổng cộng 36 tàu ngầm tên lửa đang hoạt động tại Hoa Kỳ lúc này, trong số đó có 19 cái đang ở ngoài biển thực hiện cái gọi là “tuần tra răn đe”. 2 cái đang trong tình trạng bảo dưỡng và không thể làm nhiệm vụ. Số còn lại đang trong tình trạng tiếp tế, ngoại trừ USS Ohio đang đậu tại bến cảng Bangor. Dù CO không có trên tàu vào chiều chủ nhật thế này, nhưng vẫn còn số lượng nhỏ thuỷ thủ trực ban. Mà chuyện đó cũng không thực sự quan trọng Tàu ngầm hạt nhân luôn có 2 đội thuỷ thủ và trong bất kỳ trường hợp nào, một trong hai thuyền trưởng có thể đảm bảo có mặt trên tàu trong vòng 30 phút sau khi nhận được lệnh, tất cả thuyền trưởng đều được trang bị máy nhắn tin., sẽ phát ra âm thanh gần như cùng một lúc. Thủy thủ đoàn đang làm nhiệm vụ trên tàu ngầm đã bắt đầu chuẩn bị cho việc điều động khẩn cấp. Sĩ quan trực trên mỗi tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo là những sĩ quan đã vượt qua kỳ kiểm tra nghiêm ngặt để đạt được “qualified for command/ bằng chứng nhận chỉ huy”. Lệnh chiến đấu rất rõ ràng: khi có báo động như vậy, hãy đưa tàu ngầm ra khơi càng nhanh càng tốt. Hầu hết mọi người vẫn đang nghĩ đây là cuộc diễn tập, nhưng các cuộc diễn tập dành cho các lực lượng chiến lược cũng luôn rất nghiêm. Động cơ diesel của các con tàu kéo đã nổ, chuẩn bị kéo tàu tách ra khỏi các tàu tiếp tế. Nhân viên trên boong đang dỡ dây và giá đỡ an toàn, các sĩ quan và binh sĩ trên tàu tiếp tế cũng leo lên thang và xuống tàu chiến tương ứng của mình. Bên trong tàu ngầm, thuyền trưởng và thuyền phó của mỗi đội đã bắt đầu điểm danh theo phân công. Trên thực tế, những tàu chiến này, giống như tất cả các tàu chiến khác, đều có quá nhiều nhân lực. Nếu cần, họ có thể dễ dàng ra khơi và chiến đấu chỉ với một nửa quân số. Và DEFCON-2 có nghĩa là họ cần phải làm điều đó.

* * * * * *

Thuyền trưởng Rosselli và nhân viên NMCC thực hiện truyền tải lệnh tới các lực lượng thông thường. Các lệnh đều được ghi âm truyền trực tiếp tới từng đơn vị. Trong lục quân, đơn vị ở đây hàm ý cấp sư đoàn. Trong không quân, đơn vị hàm ý không đoàn. Và trong hải quân, nó hàm ý là cấp phi đội. Tất cả các lực lượng thông thường sẽ vào tình trạng báo động phòng thủ cấp 3 (DEFCON 3) Thuyền trưởng Rosselli và Đại tá Barnes thực hiện gửi các bộ ghi âm tới các cấp chỉ huy cao hơn. Ngay cả những tướng ba sao đã phục vụ ít nhất 25 năm cũng phải nói rõ với từng người một: Không, sir, lặp lại, đây không phải là cuộc diễn tập

Quân đội Hoa Kỳ đóng quân trên khắp thế giới ngay lập tức đặt trong tình trạng báo động. Đúng như mong, những đội quân thường ở trạng thái cảnh giác cao sẽ phản ứng nhanh nhất. Trong số đó có đơn vị Brigade tại Berlin.