← Quay lại trang sách

Chương 3 Chuyện tình ngày nay đã khác xưa nhiều

Tình yêu là điều lý tưởng, hôn nhân là điều rất thực tế, ai nhập nhằng giữa thực tế và lý tưởng thì sẽ không bao giờ được yên thân.

- Johann Wolfgang von Goethe

Năm 1946, bà Maria phát hiện một lá thư tình trong túi bộ quân phục của chồng - ông Kenneth. Bà liền vứt lá thư đó đi và không bao giờ đả động chuyện ấy với chồng. Bà thầm nghĩ: “Mình phải làm gì trong tình huống này? Ly dị à? Ly dị xong thì mình sẽ đi đâu? Ai sẽ cưới một người phụ nữ có đến bốn đứa con chứ?”.

Khi bà Maria tâm sự với mẹ chuyện mình đang bị chồng phản bội, ý kiến của mẹ càng khiến bà thêm vững lòng với lựa chọn không ly hôn: “Các con của con còn bé. Hôn nhân là chuyện lâu dài, đừng vì danh dự mà đạp đổ tất cả”. Hai người phụ nữ này cùng đồng ý rằng ngoại tình là... chuyện thường thấy ở cánh đàn ông.

Năm 1984, Silvia - con gái đầu lòng của bà Maria - phát hiện chồng mình ngoại tình khi có nhiều lần anh đặt điện hoa nhưng người nhận không phải là Silvia. Silvia kể với mẹ chuyện này. Bà Maria rất thông cảm với nỗi đau của con gái, và vui mừng phần nào vì hoàn cảnh của con gái bây giờ khá hơn mình ngày xưa. Bà khuyên con gái: “Đàn ông nào cũng ham của lạ cả con à. Con chưa có con cái, lại có công ăn việc làm ổn định, thế nên con hãy quyết liệt dứt áo ra đi”.

Silvia ly hôn. Hai năm sau, cô yêu, tái hôn và sinh được cặp song sinh Michelle và Zac. Chính vì có nghề nghiệp ổn định với thu nhập cao ngất mà Silvia có được thứ tự do mà thế hệ của mẹ cô khó có được: có quyền chọn lựa nên có con hay không và khi nào thì có con, ngẩng cao đầu khi ly hôn, tự do tái hôn,...

Trong nửa thế kỷ qua, chuyện hôn nhân đã không ngừng thay đổi, không ngừng có những nét mới. Khi Zac - con trai của Silvia - quyết định sẽ kết hôn hợp pháp với bạn trai mình thì anh phát hiện một sự thật phũ phàng: bạn trai của anh có một hồ sơ bí mật trên một trang mạng hẹn hò lớn dành cho cộng đồng LGBT (cộng đồng những người đồng tính, song tính và chuyển giới).

Nhiều người thường hỏi vì sao ngày nay ngoại tình lại là vấn đề nghiêm trọng đến vậy? Vì sao bị phản bội lại khiến người ta đau đến vậy? Vì sao ngoại tình trở thành một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ly hôn?

Chỉ cần xem xét tất cả những thay đổi về tình yêu, tình dục và hôn nhân trong suốt vài thế kỷ qua là chúng ta có thể có một dáng hình đầy đủ về sự phản bội thời nay. Lịch sử và văn hóa luôn là phông nền cho những tấn bi kịch gia đình. Cụ thể là sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân, sự xuất hiện của văn hóa tiêu thụ và khát khao hạnh phúc đã làm biến đổi hôn nhân và cái bóng ngoại tình của nó.

Chuyện ngoại tình đã không còn như trước đây vì hôn nhân ngày nay đã khác xưa nhiều lắm.

Cách “ông bà ta” yêu và chung sống

Suốt nhiều thiên niên kỷ, hôn nhân giống như một liên minh chiến lược giữa hai gia đình để bảo đảm sự tồn vong về kinh tế và cổ súy sự gắn kết xã hội hơn là sự tác hợp giữa hai con người, hai tâm hồn. Đó là mô hình thực dụng mà ở đó, trẻ em không được yêu thương nhiều, vợ chồng chỉ chủ yếu mơ ước chuyện sinh nở con đàn cháu đống. Mọi người cố gắng làm tròn các nghĩa vụ hôn nhân để đổi lấy những cảm giác quan trọng là an toàn và thuộc về nhau. Tình cảm có thể nảy sinh, nhưng chắc chắn là không cần thiết. Trong bất cứ tình huống nào, tình cảm chỉ như một cảm xúc mơ hồ, không sao so sánh được với cả định chế nặng nề dường ấy. Đam mê vẫn luôn cháy bỏng trong con tim mỗi người, nhưng không trỗi dậy từ... sợi dây hôn nhân.

Sử gia Stephanie Coontz đã đưa ra một quan điểm thú vị rằng khi hôn nhân hình thành trước hết là như một liên minh về kinh tế thì ngoại tình đôi lúc lại chính là không gian dành cho tình yêu. Cô viết: “Hầu như xã hội nào cũng có tình yêu lãng mạn, tức tình yêu có kết hợp giữa đam mê tình dục, say nắng và sự lãng mạn hóa người mình yêu. Nhưng những điều ấy thường không được xem là phù hợp đối với hôn nhân vì hôn nhân là một sự kiện chính trị, kinh tế và giao thương. Nhiều người tin rằng tình yêu đích thực, thuần khiết chỉ có thể tồn tại khi không có hôn nhân”.

Hôn nhân truyền thống có sự phân định rõ ràng về giới và về phân công lao động. Miễn là mỗi người đều làm theo những gì được kỳ vọng thì đó là một cặp đôi hòa hợp, ví dụ người chồng lao động chăm chỉ, không rượu chè, chu cấp đầy đủ cho gia đình; người vợ giỏi nấu ăn, khéo giữ nhà cửa ngăn nắp, sinh được nhiều con. Đó là một hệ thống thể hiện rõ sự bất bình đẳng giới của luật lệ và của cả nền văn hóa. Khi kết hôn, phụ nữ buông bỏ quyền tự do cá nhân và những tài sản của mình, và rồi chính họ cũng trở thành một loại tài sản.

Điều đáng ghi nhớ là thời xa xưa, những áp đặt về chuyện chung thủy trong hôn nhân và chế độ một vợ một chồng không liên quan gì đến... tình yêu. Chế độ phụ hệ buộc phụ nữ phải chung thủy để đảm bảo huyết thống không lộn xộn và tài sản không bị chia sẻ lung tung khi người chồng chết đi. Thế nên, danh dự và huyết thống của một người đàn ông liên quan mật thiết đến trinh tiết của cô dâu anh ta cưới và việc cô dâu ấy trở thành một người vợ suốt đời chỉ “tôn thờ” một người chồng là anh ta.

Do đó, phụ nữ ngoại tình dễ gặp nhiều rủi ro, nếu lỡ có thai sẽ bị nhiều người chế giễu, thậm chí bị giết. Trong khi đó, ở hầu hết các nền văn hóa, đàn ông có cái tự do bất thành văn là tự do “ong bướm” mà chỉ phải chịu chút ít hậu quả. Đàn ông mạnh dạn làm thế là vì được “chống lưng” bằng một mớ lý thuyết biện hộ cho bản tính “nếm của lạ” của nam giới. Cái tiêu chuẩn phụ nữ phải chung thủy, đàn ông có thể ngoại tình có tuổi thọ không kém gì tuổi thọ của hiện tượng ngoại tình.

“Anh yêu em. Chúng mình hãy kết hôn nhé” – Suốt phần lớn lịch sử nhân loại, hai câu nói này chưa bao giờ sánh bước cùng nhau. Chủ nghĩa lãng mạn đã thay đổi tất cả. Vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, giữa sự thay đổi khủng khiếp về xã hội do Cách mạng công nghiệp mang lại, hôn nhân được tái định nghĩa. Dần dần, nó tiến triển từ một giao kết kinh tế thành một giao kết đồng hành – một sự gắn bó được tự do lựa chọn giữa hai cá nhân, không dựa trên nghĩa vụ và bổn phận mà dựa trên tình yêu và sự trìu mến. Trong sự dịch chuyển từ làng xóm sang thành thị, chúng ta trở nên tự do hơn nhưng cũng cô độc hơn. Chủ nghĩa cá nhân bắt đầu cuộc chinh phục không chút khoan nhượng nền văn minh phương Tây. Sự chọn lựa bạn tình gắn với những ước vọng lãng mạn vốn dùng để chống chọi lại sự cô đơn ngày càng gia tăng của đời sống hiện đại.

Ấy thế mà bất chấp những thay đổi đó, một vài truyền thống xã hội còn nguyên vẹn nếp cũ khi tiến vào giữa thế kỷ 20. Hôn nhân vẫn được dự kiến sẽ kéo dài đến suốt đời, phụ nữ phụ thuộc chồng về pháp lý và tài chính, tôn giáo quyết định đạo đức và chi phối quy tắc ứng xử, ly hôn không phải là phổ biến và là lý do khiến những người trong cuộc sẽ bị ô nhục và tẩy chay. Và trên hết, sự thủy chung vẫn tuyệt đối cần thiết, ít nhất là đối với phụ nữ.

Là một phụ nữ của thập niên 50, bà Maria ý thức rõ về các hạn chế trong chọn lựa của mình. Bà lớn lên trong một thế giới có bốn món ngũ cốc để chọn cho bữa ăn sáng, ba kênh truyền hình và hai người đàn ông mà bà biết có thể phù hợp để kết hôn. Việc bà có toàn quyền quyết định chọn ai làm chồng quả là một điều mới mẻ. Thậm chí ngày nay, hơn 50% hôn nhân trên toàn cầu vẫn do sắp đặt.

Dù yêu chồng nhưng bà Maria xem tình dục chủ yếu chỉ là để duy trì nòi giống. Bà Maria chia sẻ: “Sau khi sinh bốn đứa con trong vòng sáu năm, tôi nghĩ mình... đã xong việc”. Khi thỉnh thoảng làm tình với chồng, bà chẳng cảm thấy khoái lạc gì, chỉ cảm thấy như làm tròn nghĩa vụ của người vợ. Còn chồng bà – ông Kenneth – người được bà Maria mô tả là “một người đàn ông tốt bụng và hào phóng”, chưa từng được nhập môn về những bí ẩn của cơ thể phụ nữ, cũng chẳng có ai bảo ông nên làm gì với phụ nữ. Nhưng cả chuyện chăn gối lạnh nhạt và chuyện về sau ông Kenneth phiêu lưu tình ái đều không phải là nguyên nhân khiến hôn nhân đổ vỡ. Thời đó, người ta không ly hôn vì những điều như vậy.

Trong lúc đàn ông thuộc thế hệ ông Kenneth được ngầm cho phép ra ngoài nếm “của ngon vật lạ” cho đời thêm phần ngọt ngào thì những phụ nữ như bà Maria lại được xã hội kỳ vọng phải ráng tìm thấy sự ngọt ngào ngay trong hôn nhân của mình!

Với những người thuộc thời đại của ông Kenneth và Maria, hôn nhân là một giao ước trọn đời, có rất ít lối để bước ra. Họ bước vào lễ đường, cam kết sẽ cùng nhau chấp nhận mọi hạnh phúc lẫn khổ đau, chỉ có cái chết mới có thể chia lìa họ.

Yêu một người trong mỗi chặng đời

Như đã kể, cô Silvia không chờ cái chết chia lìa cô với chồng mà chủ động... chia tay chồng vì không còn cảm thấy hạnh phúc. Ngày nay, hôn nhân kết thúc khi tình yêu chết đi. Là một đứa trẻ thế hệ babyboomer1 lớn lên ở San Francisco (Mỹ), cô đã trưởng thành trọn vẹn trong bước ngoặt văn hóa mà sự kết đôi đã thay đổi tới mức khó lòng nhận ra.

1. Babyboomer: Thế hệ trẻ em sinh ra trong và ngay sau Thế chiến thứ hai, thừa hưởng những đặc quyền, sự tiêu thụ phù phiếm vật chất và xa hoa giàu có đến mức tương phản với thế hệ trước đó, nhất là thế hệ babyboomer ở Mỹ. Ngày nay babyboomer chính là thế hệ đang lãnh đạo chủ chốt nước Mỹ nói riêng và thế giới phương Tây nói chung.

Chủ nghĩa nữ quyền, những biện pháp tránh thai và quyền nạo phá thai – đã trao cho phụ nữ quyền kiểm soát tình cảm và cuộc đời mình. Nhờ vào bộ luật ly hôn không quy kết trách nhiệm được ban hành tại California năm 1969 và nhiều tiểu bang khác sau đó ít lâu, nhiều phụ nữ đã mạnh dạn nghĩ đến chuyện ly hôn khi nhận thấy hôn nhân không còn hạnh phúc. Và một khi phụ nữ có thể ly hôn thì cũng có nghĩa họ cần một lý do thuyết phục hơn thời xa xưa để tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân đó. Điều này kéo theo việc chuẩn chất lượng hôn nhân đã được nâng lên đáng kể.

Sau khi ly hôn, cô Silvia ưu tiên phát triển sự nghiệp, phấn đấu để thăng tiến trong ngành ngân hàng lúc này vẫn còn bị thống trị bởi nam giới. Cô hẹn hò vài anh chàng nhưng chẳng đi đến đâu. Chỉ đến khi gặp anh Jason – người làm đàn violin kiêm thầy giáo dạy nhạc, cô mới cảm thấy sẵn lòng yêu hết mình.

Trong một cuộc tâm tình, tôi hỏi cô Silvia:

– Chị có chọn cuộc hôn nhân một vợ một chồng hay không? Cô nhìn tôi, ngạc nhiên:

– Dĩ nhiên là có. Tôi vẫn luôn chỉ có một người duy nhất trong mỗi giai đoạn.

Không biết cô có nhận ra rằng những từ ngữ cô dùng đã phản ánh sự thay đổi về văn hóa hay không. Trước đây, “chỉ có một người” có nghĩa là có người đó suốt cuộc đời. Giờ đây, “chỉ có một người” có nghĩa là chỉ quen một người trong mỗi giai đoạn.

Với người chồng thứ hai, cô Silvia yêu cầu có sự bình đẳng trong bếp núc và cả trong phòng ngủ. Anh Jason chinh phục cô bằng khả năng quét dọn điêu luyện và khả năng đoán biết những nhu cầu của vợ cũng điêu luyện không kém. Thay vì bị khuôn khổ vào vai trò về giới, sự gắn bó của họ được hiểu như phân công lao động linh hoạt, thỏa mãn cá nhân, cảm thấy quyến rũ nhau về tình dục và sự gắn bó thân thiết.

Đầu tiên, chúng ta mang tình yêu vào hôn nhân. Rồi chúng ta mang tình dục vào tình yêu. Và rồi chúng ta gắn hạnh phúc trong hôn nhân với thỏa mãn tình dục. Tình dục với “sứ mệnh” duy trì nòi giống nay đã phải nhường đường cho tình dục để giải trí, tận hưởng.

Khi quan hệ tình dục trước hôn nhân đã trở thành chuyện bình thường thì tình dục trong hôn nhân lại trải qua một cuộc cách mạng của riêng nó: từ nghĩa vụ của người vợ đã trở thành việc hai cơ thể, hai tâm hồn cùng kết nối và tận hưởng niềm khoái lạc.

Tình yêu thời nay

Ngày nay chúng ta đang tham gia vào một đại thí nghiệm. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta muốn tình dục trong hôn nhân không phải là nghĩa vụ, không phải để sinh con đàn cháu đống cho có người... làm ruộng. Chúng ta muốn tình dục chỉ vì muốn! Tình dục của chúng ta phải khởi nguồn từ ham muốn, một biểu hiện về quyền chủ động lựa chọn. Ngày nay chúng ta quan hệ tình dục vì chúng ta cảm thấy thích và muốn – hy vọng là cả hai người đều muốn thế, tốt hơn nữa là hai người muốn thế vào cùng một lúc và lý tưởng nhất là hai người đều có ham muốn trong nhiều thập kỷ.

Trong quyển sách The Transformation of Intimacy (tạm dịch: Sự chuyển biến của chuyện chăn gối), Anthony Giddens giải thích rằng khi tình dục bị tách biệt khỏi sinh sản, nó không còn là một đặc điểm sinh học của con người mà trở thành một biểu hiện của ý thức về bản thân. Tính dục của chúng ta đã được xã hội hóa khỏi thế giới tự nhiên và trở thành một “tài sản của cá nhân” mà chúng ta sẽ định nghĩa và tái định nghĩa nó suốt cuộc đời. Nó trở thành một biểu hiện của con người, không còn là một việc ta phải làm.

Với mỗi chúng ta, tình dục là một quyền của con người gắn với quyền cá nhân, tự do cá nhân và sự tự nhận thức về bản thân. Ta tin rằng sự hưng phấn tình dục là điều ta có quyền hưởng và đây là một trong những yếu tố cơ bản liên quan đến cách ta nhìn nhận về chuyện gối chăn.

Tâm lý gần gũi thân thuộc trong hôn nhân hiện đại thì không có gì để bàn cãi. Sự gần gũi về cảm xúc đã chuyển từ việc là một sản phẩm thừa của mối quan hệ lâu năm trở thành điều quan trọng nhất của mối quan hệ đó. Ngày xưa, sự gần gũi ám chỉ sự đồng hành và tình bằng hữu, được nảy sinh từ việc sẻ chia những thăng trầm của cuộc sống, từ quá trình làm việc ngoài đồng, nuôi dạy con cái, đi qua các mất mát, bệnh tật, gian nan. Cả đàn ông và đàn bà đều dễ tìm thấy những tình bạn với những người cùng giới tính với mình để tiện tụ tập, tâm tình.

Thế giới ngày nay đang chuyển động và thay đổi không ngừng. Những thành viên trong gia đình thường mỗi người mỗi nơi, thậm chí mỗi người ở một nước, lập nghiệp, sinh sống, xây dựng gia đình. Chúng ta có hàng trăm “bạn” ảo nhưng khi có việc cần được giúp đỡ lại khó tìm được một ai sẵn lòng chìa tay ra. Chúng ta tự do hơn ông bà ta rất nhiều nhưng cũng ít liên kết hơn rất nhiều. Trong cuộc kiếm tìm mỏi mòn một bến bờ an toàn để neo đậu, ta nên dừng chân ở chốn nào? Sự gần gũi trong hôn nhân đã trở thành thuốc giải tối cao cho cuộc sống ngày một phân tán nhiều hơn.

Thân thuộc, gần gũi chính là nhìn thấu tâm hồn nhau. Thử tưởng tượng một người vợ tha thiết nói với chồng những lời này: “Em muốn tâm tình với anh. Em muốn chia sẻ với anh những của cải quý giá nhất của em. Đó không phải là của hồi môn mà là những hy vọng, khát vọng, nỗi sợ hãi, nỗi ngóng trông, tóm lại là mọi cảm xúc của em, là nội tâm của em. Anh hãy nhìn vào mắt em đi, đừng lướt điện thoại khi em đang giãi bày những nỗi niềm tâm sự. Em cần cảm thấy được anh thông cảm và ủng hộ. Chính điều đó khiến em cảm thấy mình quan trọng với anh”.

Sự thống chị bởi chiếc nhẫn cưới

Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại chúng ta lại kỳ vọng nhiều ở hôn nhân như thế. Chúng ta vẫn muốn có mọi thứ mà gia đình truyền thống có: sự an toàn, con cái, của cải, được bạn đời tôn trọng; nhưng giờ đây chúng ta còn muốn người ấy yêu thương ta, khát khao ta, hứng thú với ta.

Vợ chồng nên đồng thời là bạn thân, là người tâm sự tin cậy và đặc biệt nên là một đôi tình nhân nồng nhiệt. Trí tưởng tượng của con người đã dựng lên một đỉnh Olympus mới, rằng tình yêu sẽ luôn luôn là vô điều kiện, sự thân thuộc mê hoặc và tình dục sẽ ôi-chao-tuyệt-làm-sao, sẽ mãi luôn là như thế và chỉ với duy nhất một người.

Chiếc nhẫn cưới nhỏ nhắn đeo mang trên mình những lý tưởng mâu thuẫn khủng khiếp với nhau. Ta vừa muốn vợ/ chồng ta đem đến cho ta sự ổn định, an toàn, dễ đoán biết, đáng tin cậy – tức những điều cố định. Song, ta lại đồng thời muốn vợ/chồng ta phải có vẻ bí ẩn, thích phiêu lưu, ưa liều lĩnh, khiến ta không ngừng ngạc nhiên. Điều này như thể ta nói với bạn đời của mình rằng hãy khiến anh/em vừa thoải mái vừa sợ hãi, vừa cảm thấy quen thuộc và cảm thấy lạ lẫm, hãy vừa làm thế liên tục vừa có lúc ngừng. Nhiều đôi vợ chồng ngày nay tìm cách mang những khao khát chưa bao giờ đội trời chung vào dưới một mái nhà.

Nhà phân tích Robert Johnson đã viết rằng: “Tình yêu lãng mạn đã trở thành hệ thống năng lượng vĩ đại thống trị tinh thần Tây phương. Trong văn hóa của chúng ta, tình yêu lãng mạn đã thay thế cho tôn giáo. Ở địa hạt tình yêu lãng mạn, đàn ông và phụ nữ tìm kiếm ý nghĩa, sự siêu việt, sự toàn vẹn và đắm say”.

Trong cuộc truy tìm một tâm hồn đồng điệu, chúng ta đã gộp chung những cái thuộc về tinh thần với những cái thuộc về quan hệ giữa con người với nhau, như thể chúng là một và hệt như nhau. Sự hoàn hảo mà chúng ta muốn nếm trải trong tình yêu trần thế này, xưa kia chỉ có thể kiếm tìm trong chốn tôn nghiêm của bậc thánh thần. Khi chúng ta nhuộm sắc bạn đời bằng những thuộc tính thiêng liêng và kỳ vọng người đó sẽ nâng chúng ta từ sự tầm thường đến tuyệt vời, chúng ta đã tạo ra, theo Johnson, một “bòng bong báng bổ của hai tình yêu linh thiêng” vốn chỉ có thể khiến ta thất vọng mà chẳng giúp ích được gì.

Chúng ta vừa không ngừng đòi hỏi, vừa muốn được hạnh phúc. Chúng ta đã mang thiên đàng xuống trần gian, đặt nó ngay trong tầm với. Ngày nay, hạnh phúc không còn là sự theo đuổi mà là sự đòi hỏi. Chúng ta kỳ vọng người bạn đời của ta sẽ trao cho ta tất cả những thứ mà có khi cần cả một cái làng mới đáp ứng đủ và ta phải sống đến hai lần may ra mới hưởng hết. Những đòi hỏi của ta hoàn toàn “quá tải” cho một mối quan hệ chỉ có hai người.

Tại nhiều hôn lễ, các cô dâu, chú rể thường rưng rưng xúc động nguyện thề, hứa hẹn, cam kết đủ điều tuyệt vời: chung thủy, tôn trọng nhau, đồng cam cộng khổ, không ngừng hoàn thiện bản thân, yêu nhau đến đầu bạc răng long,... Và tất nhiên, không ít người sau đám cưới trong mơ đã tự mình phá vỡ những lời hứa ngày nào ấy. Khi nghe cặp đôi nào đó cam kết, hứa hẹn quá nhiều trong ngày cưới, tôi lại tự hỏi liệu họ có thể “sống sót” qua nổi kỳ trăng mật mà vẫn giữ trọn cái danh sách lời hứa dài dằng dặc ấy hay không.

Chúng ta đã mang vào quan niệm hôn nhân tất cả mọi thứ chúng ta từng tìm kiếm ở những mối quan hệ bên ngoài cánh cửa hôn nhân: cái nhìn say đắm, tình dục phóng khoáng, sự cân bằng hoàn hảo giữa tự do và cam kết. Khi đã thề nguyền và “vũ trang” đầy đủ cho hôn nhân như thế, cớ gì chúng ta lại lạc lối vào những phút “ngoài chồng, ngoài vợ”? Sự phát triển của hôn nhân đã khiến ta từng tin rằng ngoại tình sẽ không có chút cơ hội nào sinh sôi nảy nở vì ta đã “chặn cửa” mọi lý do ngoại tình rồi.

Vậy mà, chuyện ngoại tình vẫn cứ xảy ra. Chúng ta – những kẻ lãng mạn vô vọng – dẫu không thích cũng phải thừa nhận rằng những cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu và sự cuốn hút lẫn nhau thường mong manh dễ vỡ hơn các cuộc hôn nhân dựa trên động cơ vật chất (tuy nhiên điều này không có ý cho rằng kiểu hôn nhân xưa cũ ổn định và hạnh phúc hơn). Những cuộc hôn nhân bắt nguồn từ tình yêu và sự lãng mạn này dễ bị cái bóng ngoại tình phủ xuống chính bởi sự “thất thường” của con tim.

Những người tôi từng trị liệu, cả nam và nữ, đều dành nhiều thời gian tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc hơn thế hệ trước rất nhiều, nhưng nghiệt ngã thay, chính điều này là lý do ngầm dẫn đến thực tế ngoại tình và ly hôn tràn lan. Ngày xưa, ta ngoại tình vì hôn nhân không có nhiệm vụ phải chứa đựng tình yêu và đam mê. Ngày nay, ta ngoại tình vì hôn nhân không thể trao cho ta tình yêu và đam mê và sự quan tâm tuyệt đối mà nó đã hứa hẹn.

Tôi đã gặp rất nhiều người không ngừng mơ mộng về tình yêu lý tưởng để rồi vỡ mộng, bất mãn khi tình yêu trong thực tế không như mình mơ ước.

Chủ nghĩa tiêu dùng lãng mạn trong tình yêu

Trong các buổi điều trị tâm lý cho khách hàng, tôi thường nghe những lời ca thán quen thuộc như: “Nhu cầu của tôi không được đáp ứng”, “Tôi không thấy hài lòng với cuộc hôn nhân này nữa”, “Đây nào có phải là thỏa thuận như ban đầu”,...

Như nhà tâm lý và tác giả Bill Doherty quan sát, những kiểu phát ngôn như thế biểu hiện cho việc áp dụng các giá trị của chủ nghĩa tiêu dùng – “trục lợi cá nhân, giá rẻ, quyền lợi và đề phòng mất mát lợi ích” – vào các mối quan hệ lãng mạn của chúng ta. Ông viết: “Chúng ta vẫn còn tin vào cam kết, nhưng những tiếng nói mạnh mẽ bên trong ta và từ cả bên ngoài nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ chỉ là người thất bại nếu chịu chấp nhận ít hơn những gì chúng ta nghĩ mình cần và xứng đáng có được trong hôn nhân”.

Trong xã hội tiêu dùng, sự mới lạ chính là chìa khóa. Các sản phẩm được lập trình sẵn là sẽ lỗi thời để bảo đảm chúng ta sẽ mong muốn thay thế chúng sau một thời gian sử dụng. Và những mối quan hệ vợ chồng chẳng nằm ngoài xu hướng này. Chúng ta sống trong một nền văn hóa liên tục khuyến dụ chúng ta bằng lời hứa hẹn về một ai đó tốt hơn, trẻ trung hơn, sống động hơn so với vợ/chồng ta. Do đó chúng ta không còn ly hôn vì bất hạnh mà chúng ta ly hôn là để hạnh phúc hơn.

Chúng ta đã xem sự thỏa mãn tức thời và sự đa dạng vô tận là đặc quyền của chúng ta. Các thế hệ đi trước được dạy rằng cuộc sống đòi hỏi sự hy sinh.“Không phải lúc nào cũng cầu được ước thấy” là điều hợp lý chừng nửa thế kỷ trước, nhưng bây giờ, có ai dưới 35 tuổi lại đồng tình với thông điệp này? Chúng ta lì lợm từ chối việc mình bị thất vọng. Chẳng ngạc nhiên khi những ràng buộc của quan hệ một vợ một chồng (tức đơn giao) có thể khiến nhiều người phát hoảng. Trong một thế giới có vô số chọn lựa, chúng ta vất vả chiến đấu với Nỗi sợ lạc trôi (FOMO – viết tắt của cụm từ Fear of Missing Out). Hội chứng FOMO lại điều khiển “vòng xoáy hưởng thụ” (hedonic treadmill) – tức trạng thái không ngừng tìm kiếm cái tốt đẹp hơn. Nhưng ngay khi có được cái mình muốn, những kỳ vọng, ham muốn cao hơn lại trỗi dậy, và rốt cuộc chúng ta chẳng cảm thấy hạnh phúc hơn tẹo nào.

Nền văn hóa hẹn hò trực tuyến quyến dụ chúng ta bằng vô vàn lựa chọn, nhưng nó cũng tạo ra nọc độc ngấm ngầm. Luôn nghĩ về những lựa chọn bên ngoài khiến đầu óc ta ngầm so sánh vợ/chồng ta với những người đó, khiến quan hệ vợ chồng của ta bị suy yếu và khiến ta không tận hưởng trọn vẹn những thời khắc của cuộc hôn nhân hiện tại.

Tại xã hội phương Tây, những cuộc hôn nhân hình thành dựa trên những vụ lợi về kinh tế đã được thay thế bằng nền tảng của những trải nghiệm yêu đương. Triết gia Alain de Botton đã viết: “Hôn nhân đã từ một định chế xã hội trở thành sự lên ngôi của cảm xúc, từ một nghi lễ cần sự phê chuẩn của cộng đồng trở thành tiếng nói của cảm xúc cá nhân”.

Với nhiều người, tình yêu không còn là một động từ mà là một danh từ mô tả một trạng thái luôn hào hứng, “say nắng” và khao khát nhau. Chất lượng của một mối quan hệ giờ đây đồng nghĩa với chất lượng của trải nghiệm yêu đương. Một khi đã cảm thấy chán vợ/chồng của mình thì một ngôi nhà khang trang, một nguồn thu nhập tốt và những đứa con ngoan ngoãn còn có nghĩa lý gì? Ta muốn các mối quan hệ truyền cảm hứng, chuyển hóa ta. Giá trị của các mối quan hệ và cả tuổi thọ của nó tương ứng với khả năng chúng tiếp tục thỏa mãn cơn khát trải nghiệm của ta. Và đây chính là ngọn nguồn của ngoại tình! Không phải vì chúng ta có những khao khát khác so với thế hệ trước, mà vì chúng ta cảm thấy mình xứng đáng – nói đúng hơn là ta cảm thấy mình có bổn phận để đeo đuổi những khát khao của chính mình!

Nghĩa vụ quan trọng nhất của ta chính là phải có nghĩa vụ làm cho bản thân ta hạnh phúc, thậm chí có thể chấp nhận hy sinh những người ta yêu thương. Như Pamela Druckerman chỉ ra rằng: “Có lẽ những kỳ vọng ngất ngưởng về hạnh phúc cá nhân đã khiến chúng ta dễ dàng muốn lừa dối hơn. Rốt cuộc, liệu chúng ta có quyền ngoại tình không nếu điều ấy khiến ta cảm thấy hạnh phúc?”. Khi bản ngã và xúc cảm chiếm ngự, ta có thêm một lý do để biện minh cho những khát khao lạc lối vốn đã xưa như Trái đất.

Thế hệ kế tiếp

Cặp song sinh trai – gái Zac và Michelle của chị Silvia hiện gần 30 tuổi, là điển hình của thế hệ Millennial (thế hệ sinh ra trong khoảng thập niên 80 đến cuối những năm 90). Cảnh quan văn hóa mà họ đang sinh sống được nhào nặn bởi những giá trị do thế hệ cha mẹ họ tạo ra: chủ nghĩa cá nhân, sự tự thỏa mãn, chủ nghĩa quân bình; tự Zac và Michelle còn bổ sung hai điều mới mẻ quan trọng: tính xác thực và minh bạch. Cuộc sống của họ gắn liền với công nghệ, kể cả khẩu vị tình dục. Họ tìm bạn tình và kết nối với bạn tình trên các ứng dụng như Tinder, Grindr, Hinge, Snapchat và Instagram.

Zac và Michelle đều chưa kết hôn vì đang dành thời gian để học tập, du lịch, làm việc và vui chơi. Họ đã trưởng thành trong một thế giới tình dục rộng mở mà chưa một thế hệ nào trước đó trải qua: một nơi chốn đầy ắp các cơ hội nhưng cũng mơ hồ hơn, ít giới hạn hơn nhưng cũng ít có sự hướng dẫn.

Là một người đồng tính nam trẻ tuổi, Zac không cần trải qua việc lẻn vào một câu lạc bộ gay ngầm mà toàn thể cánh đàn ông đều đã có vợ. Cậu cũng không cần phải công bố bí mật về chuyện giới tính của mình bởi ngay từ đầu cậu đã không cần phải giấu giếm nó.

Qua phim ảnh, Zac biết về AIDS, và thường có một viên thuốc phòng ngừa trong túi. Khi hôn nhân đồng giới được công nhận, Zac đã quỳ một gối cầu hôn bạn trai ngay trước toàn bộ đồng nghiệp văn phòng luật mà cả hai đang làm việc. Hai người hy vọng sau này sẽ có một gia đình riêng.

Michelle điều hành một công ty nhỏ về thực tế ảo do chính cô thành lập. Khi muốn có ai đó để hẹn hò, cô chỉ cần lướt điện thoại để chọn. Cô mơ ước một ngày nào đó sẽ kết hôn, nhưng chẳng vội gì chuyện này. Cô đã đông lạnh trứng để không phải lăn tăn về độ tuổi sinh sản, và có đủ tiền tiết kiệm để không phụ thuộc vào ai khác. Cô giải thích: “Giả sử nếu ngày mai tôi gặp đúng một nửa của mình thì ít nhất năm năm sau tôi mới sinh con. Tôi muốn sống với người ấy trong cảnh vợ chồng son một khoảng thời gian kha khá rồi sau đó mới trở thành cha mẹ”.

Một số người gọi giai đoạn này là “sống thử”. Michelle nói thêm: “Nếu mãi không gặp được người nào phù hợp, tôi vẫn có thể làm mẹ mà không cần người đàn ông nào”.

Tình dục, hôn nhân, làm cha mẹ đã từng là những điều khoản thuộc về một hợp đồng hôn nhân trọn gói, còn bây giờ thì... xưa rồi. Những người thuộc thế hệ babyboomer đã tách tình dục ra khỏi hôn nhân và sinh sản, và thế hệ con cái của thế hệ này đang tách sinh sản ra khỏi tình dục.

Hầu hết những người cùng thế hệ với cô Michelle đều có thái độ như cô. Các nhà nghiên cứu dự án Knot Yet1 cho biết: “Trong văn hóa ngày nay, người trẻ ngày càng nhìn thấy hôn nhân như một ‘điều sau cùng’ hơn là ‘điều trước nhất’, tức hôn nhân là cái họ sẽ làm sau khi mọi thứ khác đã sẵn sàng, thay vì xem hôn nhân như một nền móng của cuộc sống để lao vào tuổi trưởng thành và thực hiện bổn phận làm cha làm mẹ”.

1. Dự án Knot Yet: The Benefits and Costs of Delayed Marriage in America do Đại học Virginia chủ trì, nhằm khảo sát những thuận lợi và khó khăn đối với những người trì hoãn kết hôn ở Mỹ.

“Bước vào nhà tù hạnh phúc” (tức hôn nhân) là điều Michelle chỉ làm khi cô cảm thấy đã trưởng thành về cảm xúc, ổn định về nghề nghiệp, an toàn về tài chính và sẵn sàng rời khỏi những vui thú của đời sống độc thân. Khi đó, cô sẽ tìm kiếm một đối tác để bổ sung cho cô và trao tặng cô trải nghiệm sâu sắc từ việc thấu hiểu lẫn nhau. Điều đó hoàn toàn trái ngược với bà ngoại Maria của cô, bà xem hôn nhân là một trải nghiệm để trưởng thành, là hòn đá đầu tiên đặt nền móng để từ đó bà và chồng bà cùng xây dựng con người của mình.

Nhưng liệu sự trì hoãn có tính toán trong hôn nhân của Michelle có giúp cô không bị phản bội? Hay nó sẽ khiến cô trở nên yếu ớt hơn?

Hugo Schwyzer bình luận trên tờ The Atlantic rằng hình thái “hôn nhân là điều trước nhất” có một tiên lượng khó khăn mà hình thái “hôn nhân là điều sau cùng” không có. Đó là các cặp đôi cưới nhau lúc trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, sẽ phải cùng nhau trải qua gian nan để giữ vững gia đình. Nhưng cũng nhờ đó mà các cặp đôi trong những cuộc hôn nhân này dễ tha thứ cho nhau hơn khi họ gặp chuyện ngoại tình.

Trái lại, ông quan sát rằng: “Khi xem hôn nhân là điều sau cuối thì lòng khoan dung đối với sự phản bội về tình dục ít hơn nhiều, vì nó giả định rằng những ai cuối cùng đã chọn kết hôn tức là đã đủ chín chắn để tự điều chỉnh bản thân và đã đủ thận trọng... Tuy nhiên, các bằng chứng chỉ ra rằng những người theo quan điểm hôn nhân là điều sau cuối có phần hơi ngây thơ khi nghĩ rằng những trải nghiệm trước hôn nhân sẽ giúp đời sống cuộc hôn nhân của họ miễn nhiễm với chuyện ngoại tình”.

Đập tan tham vọng kỹ vĩ trong tình yêu

Bà Maria nay đã gần 80 tuổi, góa chồng, sắp dự đám cưới của cháu ngoại Zac vào tháng sau. Lúc này, có lẽ bà đang hồi tưởng về cuộc hôn nhân của mình.

Để theo kịp đời sống hiện đại, hôn nhân đã tự lộn trái bản thân, mang đến sự bình đẳng, tự do và linh hoạt hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà vẫn còn một vấn đề cũ rích thản nhiên tồn tại: ngoại tình.

Xã hội càng cởi mở về tình dục bao nhiêu thì ngoại tình càng bất trị bấy nhiêu. Vì quan niệm có thể quan hệ tình dục thoải mái trước hôn nhân đã khiến cho hôn nhân không còn đồng nghĩa với “lần đầu làm chuyện ấy”. Ngày nay, nhiều người kết hôn sau khi dày dạn kinh nghiệm tình trường. Ngày xưa, ta kết hôn rồi làm tình lần đầu. Ngày nay, ta kết hôn nghĩa là phải ngừng làm tình với nhiều người khác để “tập trung” vào vợ/chồng mình.

Ta cẩn thận lựa chọn người để kết hôn, ta nghiêm túc cam kết gắn bó với họ. Dĩ nhiên, ngày nay cũng có người kết hôn vài ba lần. Ngày nay, chung thủy là tự nguyện, một biểu hiện của sự ưu tiên và lòng trung thành dành cho vợ/ chồng mình. Khi quay lưng với những tình cảm khác, chúng ta khẳng định vị thế độc tôn, duy nhất của vợ/chồng mình: “Tôi đã tìm thấy một nửa đích thực của mình. Thế nên, tôi sẽ ngừng dòm ngó lung tung”. Nhiệm mầu làm sao, sức hút kỳ lạ của bạn đời đã quét bay mọi khao khát trong ta về những bóng hình khác.

Trong một thế giới có đầy những lý do có thể khiến ta thấy tủi thân, thấy mình bé mọn như bị đuổi việc, bị lãng quên, bị ai đó hủy kết bạn trên mạng xã hội – thì việc được ai đó chọn chưa bao giờ có ý nghĩa quan trọng đến thế. Quan hệ đơn giao chính là linh hồn của tình yêu lý tưởng lãng mạn vì nó khẳng định rằng ta vô cùng đặc biệt với một người. Rồi chẳng may, khi ngoại tình quét qua hôn nhân, nó sẽ hét vào tai ta rằng “Ngươi chẳng đặc biệt với người ấy như ngươi hằng tưởng đâu! Bây giờ đã tỉnh mộng chưa?”. Ngoại tình đập tan tành cái tham vọng kỳ vĩ của ta về tình yêu.

Trong quyển sách gây nhiều ảnh hưởng có tựa After the Affair (tạm dịch: Sau chuyện tình vụng trộm), tác giả Janis Abrahms Spring đã hùng hồn nói lên nỗi niềm đau khổ có thực này: “Khi ngoại tình xảy ra, cái bị cuốn trôi đi chính là niềm tin, rằng ta và người bạn đời được sinh ra là dành riêng cho nhau, rằng không một ai khác có thể khiến vợ/chồng ta hạnh phúc hơn ngoài ta, rằng quan hệ của chúng ta vô cùng bền chặt, không thể sẻ chia với ai khác, không thể chia rẽ. Ngoại tình khiến ta tan vỡ hai niềm ảo tưởng thơ ngây, một là cuộc hôn nhân của ta sẽ vững bền trọn đời, hai là ta là người độc nhất vô nhị, là người vô giá đối với vợ/chồng ta”.

Ngày xưa, khi hôn nhân mang tính chất kết giao về kinh tế thì ngoại tình đe dọa sự an toàn về tài chính của chúng ta. Ngày nay, khi hôn nhân là một sự thống nhất về tình cảm thì ngoại tình đe dọa sự an toàn về cảm xúc của chúng ta.

Chủ nghĩa vị kỷ đã sản sinh một nghịch lý lạ kỳ: khi con người càng có nhiều nhu cầu về chung thủy thì cũng đồng thời bị quyến rũ mạnh mẽ bởi... ngoại tình. Vì quá phụ thuộc người bạn đời về mặt cảm xúc nên ta sẽ đau như chết đi khi bị người ấy phản bội. Nhưng trong một nền văn hóa ưu tiên sự thỏa mãn cá nhân và những hứa hẹn rằng khi đến với một người khác, ta sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều, chưa bao giờ chúng ta lại dễ sa ngã như thế. Có lẽ đó là lý do vì sao chúng ta đang hăng hái kết tội ngoại tình hơn bao giờ hết trong khi chúng ta đang... ngoại tình nhiều hơn bao giờ hết.