Chương 3 MỎM NÚI RIÊNG
Tâm hồn được hàn gắn khi ở cùng trẻ em.
— FYODOR DOSTOEVSKY
⚝ ⚝ ⚝
Hồ Wallowa công viên Tiểu bang tại Oregon và vùng phụ cận thường được gọi là tiểu Thụy Sĩ của Hoa Kỳ. Những rặng núi gồ ghề hoang vu vươn cao gần mười ngàn bộ, và nằm giữa chúng là vô số thung lũng đầy những dòng suối, đường mòn, và những đồng cỏ trên cao tràn đầy những khóm hoa dại. Hồ Wallowa là cửa ngõ vào vùng đất hoang mỏm núi Diều Hâu và vùng giải trí quốc gia hẻm núi Hells, nơi khoe ra hẻm núi sâu nhất Bắc Mỹ. Được khoét hàng bao thế kỷ bởi Sông Rắn, có những chỗ nó sâu đến vài dặm từ đỉnh đến đáy, và một chục dặm từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Bảy mươi lăm phần trăm của vùng giải trí không có đường sá, với hơn 900 dặm đường mòn. Một thời là lãnh địa của bộ lạc danh tiếng Nex Perce mà tàn tích sự hiện diện của họ đang nằm rải rác khắp vùng đất hoang vu này, cũng như dấu vết những người khai hoang da trắng trên đường đến bờ Tây. Thị trấn Joseph kề cận được đặt tên theo danh tính của một vị tù trưởng hùng mạnh mà tên tiếng da đỏ của ông nghĩa là Sấm Rền từ Núi. Khu vực này là vùng đất của vô số loài hoa và muông thú như nai sừng tấm, gấy, hươu và sơn dương. Sự hiện diện của rắn lục lạc, nhất là khi bạn đến gần Sông Rắn, là lý do để đi một cách cẩn trọng, nếu bạn quyết định mạo hiểm đi ra khỏi đường mòn.
Hồ Wallowa dài năm dặm và rộng một dặm, một số người nói nó hình thành từ băng hà cách đây chín triệu năm. Giờ đây nó nằm cách thị trấn Joseph chừng một dặm trên độ cao 4.400 bộ. Nước hồ, mặc dù lạnh đến nín thở hầu như quanh năm, lại khá dễ chịu vào cuối mùa hè đến mức có thể bơi thoải mái, ít nhất ở gần bờ. Nhìn xuống viên ngọc xanh này là đỉnh Sacagawea, cao gần 10.000 bộ, với đỉnh tuyết phủ và những sườn cao đầy cây to.
Mack và các con vui chơi suốt ba ngày liên tiếp. Missy, dường như đã thỏa mãn với các câu trả lời của bố, không bao giờ nói đến đề tài cô gái nữa, mặc dù một trong những ngày cuốc bộ đã dẫn mấy bố con lên vài vách núi dựng đứng. Mấy bố con đã dành vài giờ để đi trên hồ bằng xuồng chèo, cố hết sức để thắng giải tại một cuộc thi golf thu nhỏ, và thậm chí còn cưỡi ngựa dọc theo đường mòn. Sau một chuyến đi trong buổi sáng đến trang trại Wade nổi tiếng trong lịch sử, tọa lạc giữa Joseph và Enterprise, mấy cha con dành cả buổi chiều để đến các cửa hiệu nhỏ tại chính thị trấn Joseph.
Trở về hồ, Josh và Kate rượt đuổi nhau quanh con đường mòn của xe đẩy. Josh là đứa chiến thắng, nhưng Kate bắt đầu giành lại được quyền khoe khoang vào buổi chiều khi cô bé tóm được ba con cá hồi cỡ lớn. Missy bắt được một con bằng lưỡi câu và sâu, nhưng cả Josh và Mack đều chẳng bắt được gì mặc dù dùng mồi ngon.
Rồi đến một lúc trong kỳ cuối tuần hai gia đình khác lọt vào thế giới của gia đình Phillips một cách kỳ lạ. Chuyện xảy ra là tình bạn thường nảy nở trước tiên giữa bọn trẻ rồi đến lượt giữa những người lớn. Josh đặc biệt thích lân la với chị em nhà Ducettes, mà cô lớn, Amber, là một thiếu nữ xinh xắn cỡ tuổi cậu. Kate rất ưa để tâm chòng ghẹo anh mình về việc này, và cậu ta thường đáp lại những lời châm chọc bằng cách bỏ đi về phía chiếc lều rờ - moọc trong giận dữ và bực dọc. Amber có một cô em gái, Emmy, chỉ nhỏ hơn Kate một tuổi, và cả hai thường chơi chung với nhau suốt. Vicki và Emil Ducette xuất phát từ nhà tại Colorado, nơi Emil là nhân viên cho phòng Hành pháp Cục ngư chính và Hoang thú, còn Vicki ở nhà để lo nội trợ và lo cả cho cậu con trai bất ngờ J.J, giờ đây đã gần một tuổi.
Gia đình Ducettes đã giới thiệu cha con Mack với một cặp vợ chồng Canada mà họ đã gặp trước đó, Jesse và Sarah Madison. Hai người này có cung cách thoải mái, khiêm nhường và Mack lập tức thích họ ngay. Cả hai hành nghề tư vấn độc lập; Jesse trong lĩnh vực nhân sự còn Sarah trong lĩnh vực quản trị cải cách. Missy bị cuốn hút ngay với Sarah, và cả hai thường đến chỗ cắm lều của nhà Ducette để giúp Vicki và J.J.
Ngày thứ hai ló dạng một cách rực rỡ và toàn thể bầu đoàn đều hào hứng về kế hoạch đi theo đường cáp điện Hồ Wallowa để lên đỉnh núi Howard - 8.150 bộ trên mực nước biển. Khi được xây dựng vào 1970, đường cáp có đoạn giữ kỷ lục dốc nhất Bắc Mỹ, với tổng chiều dài khoảng gần bốn dặm. Hành trình lên đỉnh mất khoảng mười lăm phút trong toa cáp treo lơ lửng chừng 3 đến 120 bộ cách mặt đất.
Thay vì mang theo đồ ăn trưa, Jesse và Sarah nhất định đãi mọi người một bữa ăn tại quán nướng Đỉnh Núi. Kế hoạch là sẽ ăn ngay khi lên đến đỉnh rồi dành cả ngày còn lại để đi bộ đến năm vị trí nổi tiếng để thưởng cảnh. Trang bị máy ảnh, kính râm, chai nước và tấm che nắng, mọi người xuất phát vào giữa buổi sáng. Như dự định, họ xơi một bữa tiệc đúng nghĩa gồm hamburger, khoai tây chiên và nước trái cây tại quán nướng. Chuyến đi lên cao ắt đã làm mọi người ăn ngon miệng - ngay cả Missy cũng ăn hết nguyên một cái burger và gần hết rau.
Sau bữa trưa mọi người đi bộ đến từng cao điểm thưởng cảnh gần đó, mà chặng dài nhất là từ thung lũng Tầm Cao đến vùng Sông Rắn và cao điểm Bảy Con Quỷ (hơn ba phần tư dặm một chút). Từ cao điểm thung lũng Wallowa họ có thể ngắm nhìn xa tít tận các thị trấn Joseph, Enterprise, Lostine, và thậm chí cả Wallowa. Từ cao điểm Tím Hoàng Gia và cao điểm Thượng Đỉnh mọi người thỏa thích với một tầm nhìn trong vắt, nhìn xuống tiểu bang Washington và Idaho. Một số thậm chí còn nghĩ rằng có thể nhìn vượt qua cả doi đất Idaho đến tiểu bang Montana.
Đến chiều muộn, mọi người đều mệt mà vui. Missy, được Jesse cõng trên vai qua mấy cao điểm cuối cùng, đang thiếp đi trên tay bố khi mọi người gập ghềnh đi vù vù xuống từ trên đỉnh. Bốn thành viên trẻ tuổi, cùng với Sarah, dán mặt vào cửa sổ, ô và a trước những cảnh kỳ thú suốt dọc đường đi xuống. Vợ chồng Ducesttes ngồi yên nắm tay nhau, còn J.J ngủ trên tay bố.
“Đây là một trong những khoảnh khắc quý giá và hiếm hoi,” Mack nghĩ, “làm cho bạn ngạc nhiên và sững sờ. Giá mà có Nan ở đây thì thật là mỹ mãn.” Anh chuyển Missy sang một tư thế dễ chịu hơn cho cô bé, trong khi cô bé đã hoàn toàn say ngủ, rồi vén tóc cô bé để nhìn. Bụi đất và mồ hôi của cả ngày lại càng làm tăng vẻ thơ ngây và kháu khỉnh của cô bé một cách kỳ lạ. “Tại sao chúng nó lại phải lớn lên nhỉ?” Anh trầm ngâm và hôn trán cô bé.
Buổi tối đó, ba gia đình gom thức ăn lại để dùng chung bữa khuya cuối cùng với nhau. Khai vị là món xà lách kiểu Mexico, với nhiều rau tươi mới cắt và sốt. Rồi không biết bằng cách nào, Sarah đã chuẩn bị được cả một bữa tráng miệng chocolate, với mấy lớp kem đánh, mousse, bánh hạnh nhân và các thứ bánh kẹo khác làm mọi người no nê thỏa mãn.
Sau khi cất thức ăn còn thừa vào tủ lạnh và lau dọn đĩa, người lớn ngồi uống cà phê quanh một đống lửa trại sáng rực để nghe Emil kể về những cuộc mạo hiểm phá các đường dây buôn lậu thú hiếm và giảng giải cách truy bắt những người câu trộm và săn bắn bất hợp pháp. Anh là một người kể chuyện tài tình và còn là một nguồn những câu chuyện vui. Hết sức kỳ thú, và Mack lại nhận ra có nhiều thứ trên đời mà mình ngờ nghệch.
Khi buổi tối buông xuống, Emil và Vicki đi ngủ trước với em bé đã trĩu mi mắt của họ. Jesse và Sarah tình nguyện ở lại để lát nữa đưa hai bé gái nhà Ducette về lều trại. Ba anh em nhà Phillips và hai chị em nhà Ducettes ngay lập tức biến mất vào trong chiếc rờ moọc lều để thủ thỉ kể chuyện và những điều bí mật.
Như thường tình khi lửa trại cháy lâu, cuộc trò chuyện đã chuyển từ những chuyện hài hước sang chuyện đời tư hơn. Sarah có vẻ nôn nóng muốn hỏi Mack về các thành viên còn lại của gia đình, nhất là Nan.
“Chị ấy thế nào, Mackenzie?”
Mack vô cùng thích thú nếu có dịp để khoe về Nan của mình. “À, ngoài vẻ đẹp mà ý tôi không phải là thường đâu, cô ấy đẹp lắm, từ trong ra ngoài,” anh nhìn lên bẽn lẽn khi cả hai đều mỉm cười với mình. Anh nhớ vợ và mừng vì bóng đêm đã giúp anh che giấu bớt vẻ ngượng ngùng. “Tên đầy đủ của cô ấy là Nannette, nhưng hầu như ai cũng gọi là Nan. Cô ấy có tiếng trong giới y khoa, ít nhất là ở Northwest. Cô ấy là một y tá làm việc với các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Công việc căng thẳng, nhưng cô ấy rất thích. Cô ấy cũng đã viết vài bài tham luận và làm diễn giả tại một vài hội nghị.”
“Thế à?” Sarah thốt lên. “Chị ấy thuyết trình về vấn đề gì?”
“Cô ấy giúp mọi người suy nghĩ về quan hệ của họ với Chúa khi đối diện với cái chết của chính họ,” Mack đáp.
“Tôi thích nghe tiếp về chuyện đó,” Jesse khơi thêm trong khi cời lửa bằng một cái que, khiến nó cháy bùng lên.
Mack do dự. Mặc dù cảm thấy dễ chịu một cách kỳ lạ bên cạnh hai vợ chồng này, anh không biết nhiều lắm về họ và cuộc nói chuyện đã đi hơi sâu hơn mức độ mà anh cảm thấy thoải mái. Anh lục tìm nhanh một câu trả lời vắn tắt cho mối quan tâm của Jesse.
“Nan giỏi việc đó hơn tôi. Tôi đoán là cô ấy suy nghĩ về Chúa khác hơn hầu hết mọi người. Cô ấy thậm chí còn gọi Ngài là Cha do cảm nhận sự thân thuộc của mối quan hệ, hy vọng điều đó có lý.”
“Có lý chứ,” Sarah thốt lên trong khi Jesse gật đầu. “Không phải là một quan hệ ruột thịt sao, gọi Chúa là Papa?”
“Không,” Mack mỉm cười cất lời. “Bọn nhỏ cũng bắt chước theo nhưng tôi không cảm thấy thoải mái cách đó. Hình như hơi quá thân cận đối với tôi. Dù sao Nan cũng có một người cha quá tuyệt vời, cho nên tôi nghĩ với cô ấy thì dễ dàng hơn.”
Chuyện đã đi lỡ trớn, và Mack run lên trong thâm tâm, hy vọng không ai nhận ra, nhưng Jesse đang nhìn thẳng vào anh. “Bố anh không quá tuyệt vời sao?” anh hỏi một cách nhẹ nhàng.
“Ừ.” Mack ngưng lại. “Thì nói là ông ấy không quá tuyệt vời cũng được. Ông mất khi tôi còn bé, do những nguyên nhân tự nhiên.” Mack cười, nhưng âm thanh nghe trống rỗng. Anh nhìn cả hai: “Ông uống rượu đến chết.”
“Thật đáng tiếc,” Sarah nói giùm cho cả hai, và Mack cảm nhận được thành ý của cô.
Anh lên tiếng, cố cười tiếp: “Cuộc đời đôi khi khó khăn, nhưng tôi phải cám ơn về rất nhiều điều.”
Theo sau là một sự im lặng lúng túng trong khi Mack thắc mắc hai người này có gì mà dễ dàng phá tan lớp phòng thủ của mình đến như vậy. Mack được giải cứu mấy giây sau bởi một cuộc huyên náo của bọn trẻ khi chúng ùa ra khỏi rờ moọc và xông vào giữa họ. Vô cùng hân hoan, Kate và Emmy đã bắt quả tang Josh và Amber nắm tay nhau trong bóng tối, và giờ đây cô bé muốn cả thế giới biết chuyện. Lúc này, Josh quá xúc động đến độ chịu đựng mọi trò quấy nhiễu và dễ dàng chấp nhận mọi chuyện từ cô bé. Cậu ta đã cố mà vẫn không dẹp được nụ cười ngốc nghếch trên mặt.
Cả hai vợ chồng Madison đều ôm cha con Mack để chúc ngủ ngon, và Sarah còn siết chặt anh một cách hết sức âu yếm trước khi bước đi. Rồi, tay trong tay với Amber và Emmy, cả nhà họ đi vào bóng tối về lều trại nhà Ducette. Mack dõi theo họ đến khi không còn nghe thấy tiếng họ thì thầm trong đêm và khi ánh đèn pin vung vẩy của họ mất dạng. Anh mỉm cười với chính mình và quay lại lùa đàn con của mình về phía những chiếc túi ngủ.
Tiếng cầu nguyện vang lên đều, tiếp theo là những nụ hôn chúc ngủ ngon và tiếng cười khúc khích của Kate khi thủ thỉ với anh trai mà thỉnh thoảng cậu chàng lại lồng lên trong tiếng thì thào mà mọi người đều nghe thấy, “Thôi đi Kate. Hừ... Tao nói rồi đó, mày thật là láo xược!” rồi rốt cục, sự im lặng.
Mack thu dọn những gì có thể bằng ánh sáng của ngọn đèn bão và chẳng mấy chốc quyết định phó mặc phần còn lại đến ban ngày. Dù sao thì kế hoạch đến đầu giờ chiều cả nhà mới định lên đường. Anh pha một tách cà phê đêm cuối cùng rồi ngồi nhấp phía trước đống lửa đã tàn thành một đống than cháy đỏ lập lòe. Thật quá dễ để biến mất trong đám than hồng bập bùng đó. Anh cô đơn, nhưng không cô đơn. Có phải đó là một câu trong ca khúc Tiếng đồn vinh quang của Bruce Cockburn không nhỉ? Anh không chắc, nhưng nếu nhớ thì anh sẽ tra khi về nhà.
Trong lúc ngồi mê hoặc bởi ngọn lửa và cuộn mình trong hơi ấm của nó, anh cầu nguyện, hầu hết là những lời tạ ơn. Anh đã được nhận quá nhiều. Hạnh phúc có lẽ là từ đúng. Anh hài lòng, thanh thản, và thật bình an. Lúc ấy Mack không biết, nhưng trong vòng hai mươi bốn tiếng, những lời cầu nguyện của anh sẽ thay đổi, một cách hệ trọng.
***
Buổi sáng hôm sau không đến trong ổn thỏa, mặc dù trời nắng và ấm áp. Mack dậy sớm để gây bất ngờ cho lũ trẻ bằng một bữa điểm tâm, nhưng bị bỏng hai ngón tay trong khi gỡ mấy miếng bánh rán kẹt trong vỉ nướng. Phản ứng vì bị đau, anh làm lật bếp lò và vỉ nướng rồi làm đổ một chén bột bánh kếp xuống đất. Bọn trẻ, bị đánh động vì tiếng ồn và tiếng rủa xả làu bàu, đã thò đầu ra khỏi lều để ngóng xem sự tình. Chúng bắt đầu cười khúc khích khi hiểu chuyện, nhưng tiếng quát của Mack “Có gì mà cười!” làm chúng thụt vào trong lều, nhưng vẫn còn khúc khích và hé nhìn qua khe cửa sổ lều.
Thế là bữa điểm tâm, thay vì là bữa tiệc Mack dự định, lại là ngũ cốc lạnh với sữa pha kem - do những phần sữa cuối cùng đã trộn vào bột bánh kếp. Mack dành cả tiếng đồng hồ sau đó ngồi sắp xếp đồ đạc với hai ngón tay nhúng trong một ly nước đá phải châm thường xuyên bằng các mảnh nước đá Josh đập ra từ một tảng nước đá bằng cái muỗng. Chắc chắn tin tức đã được truyền đi vì Sarah Madison xuất hiện với dụng cụ cấp cứu bỏng, và trong vòng vài phút đã băng mấy ngón tay của anh vào trong một thuốc lỏng màu trắng, anh thấy cơn nhức dịu đi.
Vào lúc đó, Josh và Kate, sau khi hoàn tất các việc được giao, đã xuất hiện và xin phép đi chơi bằng xuồng của Ducette một lần cuối; hứa hẹn mặc áo cứu sinh. Sau khi không đồng ý thoạt đầu và một loạt lời nài nỉ của bọn trẻ, nhất là Kate, Mack rốt cục đồng ý, nhắc chúng một lần nữa về các nguyên tắc an toàn và cách thức khi bơi thuyền. Anh không quá lo. Điểm cắm trại của họ chỉ cách hồ một tầm ném đá, và chúng đã hứa bơi gần bờ. Mack có thể để mắt đến chúng trong khi tiếp tục thu dọn lều trại.
Missy bận bịu tại bàn, tô màu vào cuốn sách mua ở thác Multnomah. “Con bé kháu khỉnh quá,” Mack nghĩ, liếc nhìn về hướng cô bé trong khi dọn dẹp đống bề bộn đã gây ra trước đó. Cô bé mặc bộ quần áo sạch duy nhất còn lại, một chiếc váy mùa hè màu đỏ có thêu hoa dại mua tại Joseph trong ngày hành trình đầu tiên đến thị trấn.
Khoảng mười lăm phút sau, Mack ngước lên khi nghe một giọng gọi quen thuộc “Bố!” từ phía hồ. Chính là Kate, và cô bé cùng anh trai đang bơi thuyền như những tay chuyên nghiệp trên hồ. Cả hai đều ngoan ngoãn mặc áo cứu sinh và anh vẫy chúng.
Thật lạ là khi một hành động hay biến cố tưởng chừng như vô nghĩa lại có thể thay đổi hoàn toàn những cuộc đời. Kate, khi vung chèo lên để vẫy lại, bị mất thăng bằng và làm nghiêng xuồng. Gương mặt cô như đóng băng lại nỗi khiếp sợ khi chiếc xuồng lặng lẽ và từ từ lật. Josh nghiêng người một cách hốt hoảng để cố gắng lấy thăng bằng, nhưng đã quá trễ và cậu ta rơi ùm xuống nước mất dạng. Mack đã chạy về phía mép nước, không định nhảy xuống, mà chỉ định đến gần chỗ bọn trẻ ngã. Kate ngoi lên trước, miệng lắp bắp la hét, nhưng không thấy tăm hơi Josh. Rồi đột nhiên, nước văng lên và đôi chân vẫy vùng, Mack biết ngay có chuyện rất không ổn.
Ngạc nhiên với cả chính mình, bao nhiêu bản năng được mài giũa từ lúc làm thiếu niên cứu hộ bỗng ùa về. Trong mấy giây, anh đã cởi giày và áo rồi lao xuống nước. Thậm chí chẳng cảm nhận được cú sốc của nước lạnh trong khi lao năm mươi bộ ra phía chiếc xuồng bị lật, trong phút chốc không màng đến cả tiếng khóc hốt hoảng của con gái. Cô bé an toàn. Mối quan tâm chính của anh là Josh.
Hít một hơi sâu, anh lặn xuống. Nước, mặc dù bị khuấy tung lên, vẫn còn khá trong trẻo, với tầm nhìn khoảng ba bộ. Anh nhanh chóng tìm thấy Josh và cũng phát hiện ra tại sao nó gặp rắc rối. Một trong mấy sợi dây buộc áo cứu sinh đã bị mắc kẹt vào dây đai xuồng. Cố gắng hết mức anh vẫn không tháo dây ra được, anh bèn ra hiệu cho Josh tiến sâu vào trong thuyền, nơi không khí vẫn còn kẹt lại. Nhưng cậu trai đang hoảng kinh, làm kéo căng sợi dây khiến cậu bị kẹt theo xuồng và ở dưới nước.
Mack trồi lên, hét bảo Kate bơi vào bờ, hớp một ngụm không khí rồi lại lặn xuống lần thứ hai. Đến cú lặn thứ ba và biết rằng sắp hết thời gian, Mack nhận ra rằng anh có thể hoặc tìm cách lôi Josh ra khỏi chiếc áo cứu sinh hoặc lật xuồng lại. Vì Josh, trong cơn hoảng loạn, không cho ai lại gần, Mack chọn cách thứ hai. Có thể do Chúa và các thiên thần hoặc do Chúa và ý chí hành động, anh không bao giờ biết được, nhưng chỉ cố đến lần thứ hai anh đã lật được chiếc xuồng lại, giải thoát được cho Josh.
Chiếc áo cứu sinh, rốt cục đã có thể làm nhiệm vụ của nó, giờ đây đang giữ cho khuôn mặt chàng trai nổi trên mặt nước. Mack trồi lên đằng sau Josh mà giờ đây đang rũ người và bất tỉnh, máu túa ra từ một vết thương trên đầu do chiếc xuồng nện vào cậu ta trong lúc Mack lật nó lại. Anh cố hết sức làm hô hấp nhân tạo ngay lập tức cho con trai, trong khi những người khác nghe tin sự cố đã đến để lôi anh và chiếc xuồng cùng chiếc áo cứu sinh mắc kẹt vào chỗ nước cạn.
Quên đi cả những tiếng thét quanh mình khi mọi người đang huyên náo với những lời chỉ dẫn và gạn hỏi, Mack tập trung vào việc của mình với nỗi hốt hoảng lớn dần trong lồng ngực. Ngay khi chân chạm đất, Josh bắt đầu ho và ộc ra cả nước lẫn bữa ăn sáng. Bao tiếng reo mừng vang lên từ mọi người đang tụ tập, nhưng Mack chẳng màng. Một sự nhẹ nhõm tràn ngập trong lòng trong khi bao hốt hoảng tan biến, anh bắt đầu khóc, và rồi Kate cũng bật khóc ôm choàng cổ anh, còn mọi người thì vừa cười, vừa khóc, vừa ôm nhau.
Bằng cách nào đó mọi người đều kéo đến bờ hồ. Trong số những người bị lôi đến đây vì sự cố ồn ào này có cả Jesse Madison và Emil Ducette. Trong lúc hỗn độn giữa vui mừng và nhẹ nhõm, Mack nghe cả tiếng Emil, như tiếng lặp đi lặp lại của một bài kinh: “Tôi hết sức xin lỗi... tôi hết sức xin lỗi... tôi hết sức xin lỗi.” Đó chính là chiếc xuồng của họ. Chuyện có thể xảy đến với con cái họ. Mack tìm đến anh ta, ôm lấy người đàn ông trẻ tuổi và nhấn giọng vào tai anh ta: “Thôi mà! Không phải lỗi của anh và ổn cả rồi.” Emil bắt đầu khóc, cảm xúc đột ngột được tháo tung khỏi con đê kìm nén tội lỗi và sợ hãi. Một cuộc khủng hoảng đã được ngăn chặn. Hay là Mack tưởng như vậy.