← Quay lại trang sách

Chương 4 NỖI ĐAU

Nỗi sầu là một bức tường giữa hai khu vườn.

— KAHLIL GIBRAN

⚝ ⚝ ⚝

Mack đứng trên bờ, người cúi gập xuống và vẫn còn đang lấy hơi trở lại bình thường. Mất vài phút anh mới nghĩ đến Missy. Còn nhớ cô bé đang ngồi tại bàn để tô màu trong sách, anh đi ngược lên bờ đến chỗ có thể nhìn thấy điểm cắm trại, nhưng không thấy bóng dáng cô bé. Anh rảo bước đi nhanh về chiếc rờ moọc lều, gọi tên cô bé một cách cố gắng hết sức trầm tĩnh. Không có lời đáp. Cô bé không có ở đó. Mặc dù tim thót lại, anh biện minh rằng trong lúc hỗn loạn đã có người lo cho cô bé, chắc là Sarah Madison hay Vicki Ducette, hay là một trong mấy đứa lớn.

Không muốn tỏ ra quá lo lắng hay hoảng hốt, anh tìm gặp và nhã nhặn thông báo cho hai người bạn mới rằng anh không tìm thấy Missy và nhờ họ kiểm tra với gia đình họ. Cả hai nhanh chân quay lại điểm cắm trại của họ. Jess quay lại trước tiên để thông báo rằng Sarah không thấy Missy suốt cả buổi sáng hôm đó. Anh và Mack bèn đến chỗ Ducette, nhưng trước khi họ đến nơi Emil đã ào đến với họ, nét sợ sệt hiện rõ trên mặt anh.

“Không ai thấy Missy hôm nay, và chúng tôi không biết Amber đang ở đâu. Có lẽ chúng nó đi với nhau chăng?” Câu hỏi của Emil thoáng một ý kinh sợ.

“Chắc chắn là vậy rồi,” Mack nói, cố trấn an chính mình cũng như Emil. “Anh nghĩ chúng nó đang ở đâu vậy?”

“Sao mình không kiểm tra các phòng tắm và buồng tắm vòi sen,” Jesse đề nghị.

Họ gật đầu và Mack rảo bước về phía các buồng tắm vòi sen gần nhất, chợt nhận ra lần đầu tiên rằng mình đang đi chân đất và cởi trần. “Chắc mình trông dị hợm lắm,” anh nghĩ, và có lẽ sẽ bật cười nếu đầu óc không quá chú tâm vào Missy.

Đến các buồng vệ sinh, anh hỏi một thiếu niên xuất hiện phía dãy của nữ giới xem cô bé có nhìn thấy một bé gái mặc váy đỏ bên trong không, hoặc là hai đứa con gái. Cô bé bảo anh rằng cô không chú ý, nhưng sẽ nhìn lại. Trong vòng chưa đầy một phút, cô bé đã quay lại lắc đầu.

“Cám ơn nhé,” Mack nói rồi đi vòng qua sau dãy nhà nơi có các buồng tắm vòi sen. Khi đi vòng qua góc quanh anh bắt đầu lớn tiếng gọi Missy. Mack nghe thấy tiếng nước chảy nhưng không có ai đáp. Anh chỉ làm một phụ nữ lớn tuổi sợ khiếp khi xô cửa và tình cờ làm bật cửa buồng của bà ta. Bà ấy hét lên khiến Mack rối rít xin lỗi rồi nhanh tay sập cửa lại rồi lao đến buồng kế tiếp.

Sáu buồng tắm không tìm thấy Missy. Anh kiểm tra nhà vệ sinh và các buồng tắm của nam giới, cố gắng không nghĩ xem lý do tại sao anh lại phải nhìn vào đó. Không thấy cô bé đâu và anh chạy trở lại chỗ Emil, không biết cầu nguyện điều gì ngoại trừ lắp bắp: “Ôi Chúa ơi, hãy giúp con tìm ra nó... Ôi Chúa ơi, làm ơn giúp con tìm ra nó.”

Khi nhìn thấy anh, Vicki lao đến gặp. Cô đã cố không khóc nhưng không kìm được khi họ ôm nhau. Đột nhiên Mack muốn có mặt Nan vô cùng. Nàng sẽ biết phải làm gì, ít nhất cũng biết việc gì là đúng. Anh cảm thấy thật lạc lõng.

“Sarah ở với Josh và Kate ở đằng sau lều trại, cho nên đừng lo cho chúng nó,” Vicki bảo anh trong tiếng nức nở.

“Ôi Chúa ơi,” Mack nghĩ khi thấy mình hoàn toàn quên mất hai đứa con kia. “Con là một người cha kiểu gì vậy?” Mặc dù anh nhẹ lòng khi thấy Sarah ở cạnh chúng, giờ đây anh lại càng muốn Nan có mặt ở đây hơn nữa.

Vừa lúc ấy, Emil và Jesse ùa vào trại, Emil tỏ ra nhẹ nhõm còn Jesse thì nhìn căng thẳng như một chiếc lò xo.

“Tìm thấy nó rồi,” Emil thốt lên, mặt sáng bừng, rồi lại rũ ra khi nhận ra ý nghĩa câu nói của mình. “Ý tôi là đã tìm ra Amber. Nó vừa trở về sau khi đi tắm ở một chỗ khác còn nước nóng. Nó bảo đã nói với mẹ, nhưng chắc Vicki không nghe thấy...” Giọng anh kéo dài.

“Nhưng chúng tôi không tìm thấy Missy,” Jesse nhanh miệng nói thêm, trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất. “Amber cũng chưa nhìn thấy nó hôm nay.”

Emil giờ đây tỏ ra tất bật và nắm quyền chủ động. “Mack, chúng ta cần phải liên lạc với cơ quan quản lý khu trại ngay, và thông báo tin tức để tìm Missy. Có thể trong lúc ầm ĩ và náo động con bé hoảng sợ và hoang mang rồi thơ thẩn đi lạc luôn, hoặc có thể nó đang cố tìm chúng ta và quẹo sai. Anh có ảnh của nó không? Chắc trong văn phòng có máy photo để chúng ta sao ra cho nhanh đấy.”

“Ừ, tôi có một ảnh nhỏ của con bé trong ví.” Anh thò tay vào túi sau và trong một giây đồng hồ chợt hốt hoảng khi không thấy gì cả. Ý nghĩ thoáng qua đầu anh là chiếc ví đang nằm dưới đáy hồ Wallowa, và rồi anh nhớ ra nó vẫn còn trong thùng sau chiếc xe của chuyến đi xe cáp ngày hôm qua.

Ba người quay trở lại trại của Mack. Jesse chạy trước để báo cho Sarah biết rằng Amber an toàn, nhưng Missy vẫn biệt tích. Khi đến trại, Mack cố hết sức ôm lấy và trấn an Josh với Kate, cố tỏ ra trấn tĩnh trước mặt chúng. Thay đồ ướt ra, anh mặc áo thun và quần jean, mang vớ sạch với một đôi giày chạy bộ. Sarah hứa rằng cô và Vicki sẽ giữ hai đứa lớn với họ, và thì thầm rằng cô đang cầu nguyện cho anh và Missy. Mack ôm nhanh lấy cô và cám ơn, rồi sau khi hôn các con anh đi cùng hai người đàn ông cùng chạy về phía văn phòng khu trại.

Tin tức về vụ cứu người dưới nước đã truyền đến văn phòng nhỏ của trụ sở khu trại gồm hai buồng trước khi họ tới, và mọi người tại đó đang hân hoan. Tình hình thay đổi khi cả ba người thay phiên nhau giải thích về vụ mất tích của Missy. May là văn phòng có một máy photo, và Mack đã phóng lớn năm, sáu tấm ảnh của Missy để phát cho họ.

Khu trại hồ Wallowa có 215 điểm cắm trại chia làm năm nhánh và ba khu vực. Viên trợ lý quản lý trẻ tuổi, Jeremy Bellamy, tình nguyện đi thông báo, nên họ chia khu trại ra làm bốn khu vực và mỗi người đi ra với một tấm bản đồ, ảnh của Missy, và một máy bộ đàm của văn phòng. Một trợ lý cầm máy bộ đàm của văn phòng cũng đi về lều trại của Mack để thông báo nếu Missy xuất hiện tại đó.

Mọi việc thật là chậm và bài bản, quá chậm đối với Mack, nhưng anh biết rằng đây là cách hợp lý nhất để tìm ra con bé nếu... nếu như nó vẫn còn trong khu trại. Trong khi đi giữa các lều trại, anh cầu nguyện và hứa hẹn. Anh biết trong thâm tâm rằng hứa hẹn với Chúa là khá ngu xuẩn và vô lý, nhưng anh không cưỡng lại được. Anh tuyệt vọng muốn tìm lại Missy, và chắc chắn Chúa biết nó đang ở đâu.

Nhiều người cắm trại hoặc không có tại điểm cắm trại của họ hoặc đang trong giai đoạn cuối thu dọn để về nhà. Không một ai mà anh hỏi có nhìn thấy Missy hoặc một ai trông giống con bé. Thỉnh thoảng nhóm tìm kiếm lại kiểm tra với văn phòng để cập nhật tình hình của từng người, nếu có. Không có gì cả, cho đến gần hai giờ chiều.

Mack đã xong phần khu vực của mình khi có tiếng gọi trong bộ đàm. Jeremy, người phụ trách khu vực gần cổng nhất, nghĩ rằng anh ta tìm được gì đó. Emil hướng dẫn họ đánh dấu bản đồ địa điểm nơi từng người đang dừng lại, và rồi anh báo cho họ mã số điểm cắm trại nơi Jeremy gọi về. Mack là người đến cuối cùng, và anh bước vào giữa một cuộc đối thoại dữ dội gồm có Emil, Jeremy và một người đàn anh trẻ tuổi thứ ba mà Mack không nhận ra.

Emil nhanh chóng cập nhật cho Mack, giới thiệu anh với Virgil Thomas, một cậu trai thành thị đến từ California, người đã cắm trại suốt mùa hè tại khu vực này với mấy người bạn. Virgil và mấy người bạn đã đánh giấc sau cuộc chè chén trễ ban đêm, và anh là người duy nhất thức dậy và nhìn thấy một chiếc xe tải cũ màu xanh quân đội chạy ra khỏi cổng về hướng Joseph.

“Lúc đó khoảng mấy giờ?” Mack hỏi.

“Như tôi đã nói với anh ấy,” Virgil đáp, trỏ ngón cái vào Jeremy, “là trước buổi trưa. Nhưng tôi không biết chắc là trước bao lâu. Lúc tôi còn hơi lơ mơ, và thật tình chúng tôi không chú ý lắm đến thời gian từ khi đến đây.”

Đưa tấm ảnh Missy ra trước mặt người thanh niên, Mack hỏi rành rọt: “Anh có nghĩ là anh thấy con bé không?”

“Khi người khác đưa cho tôi tấm ảnh đó lần đầu, trông nó không thấy quen,” Virgil đáp, nhìn lại tấm ảnh lần nữa. “Nhưng rồi, khi anh ta bảo con bé mặc áo đầm đỏ tươi, tôi nhớ con bé trong xe tải màu xanh mặc áo đỏ và nó đang cười phá lên hay là đang hét, tôi không rõ lắm. Và rồi hình như tay đó tát nó hay là ấn nó xuống, nhưng nghĩ hắn có thể dọa thôi.”

Mack cảm thấy tê liệt. Thông tin ấy làm anh choáng ngợp, nhưng bất hạnh thay đó là điều duy nhất họ nghe thấy mà hợp lý. Nó giải thích tại sao họ không tìm thấy chút dấu vết của Missy. Nhưng Mack hoàn toàn không muốn điều đó đúng một chút nào. Anh quay người lao về phía văn phòng nhưng khựng lại vì giọng của Emil.

“Mack, khoan đã! Chúng tôi đã điện đàm với văn phòng và liên lạc với cảnh sát trưởng tại Joseph. Họ đang cử người đến đây ngay, và đang triển khai báo động về chiếc xe tải.”

Anh vừa nói xong thì như ra hiệu, hai chiếc xe tuần tra chạy vào khu trại. Chiếc thứ nhất chạy thẳng đến văn phòng, trong khi chiếc thứ hai quẹo về phía tất cả bọn họ đang đứng. Mack vẫy người cảnh sát và lao đến gặp khi anh ta bước ra khỏi xe. Một người đàn ông trạc gần ba mươi tự giới thiệu là cảnh sát viên Dalton, và bắt đầu lấy lời khai của họ.

Những giờ đồng hồ sau đó đã diễn ra các phản ứng qui mô lớn về vụ mất tích của Missy. Tín hiệu báo động toàn diện của cảnh sát đã được phát đi về phía Tây đến tận Portland, về phía Đông đến tận Boise, Idaho, và phía Bắc đến Spokane, Washington. Cảnh sát tại Joseph đã dựng chốt chặn tại xa lộ Imnaha, đường từ Joseph đi ra và sâu vào trong khu giải trí quốc gia thung lũng Hells. Nếu kẻ đánh cắp trẻ con mang Missy lên Imnaha - chỉ một trong nhiều hướng hắn có thể đi - cảnh sát hình dung họ có thể có được thông tin thích đáng bằng cách thẩm vấn những người đi ra. Nguồn lực của họ có giới hạn và lực lượng kiểm lâm tuần tra trong vùng cũng đã được liên lạc để canh gác.

Điểm cắm trại của gia đình Phillips được canh gác như hiện trường và mọi người trong phạm vi lân cận đều được thẩm vấn. Virgil cung cấp tối đa thông tin anh ta có được về chiếc xe tải và những người trên xe, và bản miêu tả đúc kết đã được truyền đến mọi đơn vị liên quan.

Các văn phòng FBI địa phương tại Portland, Seattle và Denver đều được thông báo. Nan đã nhận được điện và đang trên đường tới, do người bạn thân nhất, Maryanne, lái xe đưa đến. Thậm chí cả chó đánh hơi cũng được huy động, nhưng dấu vết của Missy chấm dứt tại bãi đậu xe gần đó, càng làm tăng khả năng câu chuyện của Virgil là chính xác.

Sau khi các chuyên gia hình sự rà soát điểm cắm trại, cảnh sát viên Dalton đã yêu cầu Mack vào lại khu vực ấy và cẩn thận xem xét có thứ gì đó bất thường hoặc khác thường so với những gì anh còn nhớ. Mặc dù đã kiệt quệ vì những cảm xúc trong ngày, Mack vẫn tuyệt vọng muốn làm mọi cách để trợ giúp và tỉ mỉ chú tâm để cố nhớ bất cứ điều gì có thể về buổi sáng đó. Một cách cẩn trọng để không làm xáo trộn thứ gì, anh lần bước ngược trở lại. Những gì anh sẽ làm để tái hiện lại; một cơ hội để dựng lại ngày hôm nay từ đầu. Thậm chí, anh có thể làm bỏng mấy ngón tay rồi làm đổ bột một lần nữa, giá mà mọi chuyện có thể trở lại.

Một lần nữa, anh quay trở lại với nhiệm vụ được giao, nhưng không có điều gì dường như khác với những điều anh nhớ. Không có gì thay đổi. Anh đến chỗ chiếc bàn mà Missy đang bận rộn. Cuốn sách đang mở ở trang mà cô bé đang tô màu, một bức hình cô gái da đỏ bộ lạc Multnomah đang dở dang. Bút màu vẫn còn đó, mặc dù cây màu đỏ yêu thích của Missy đã biến mất. Anh bắt đầu nhìn quanh dưới đất xem nó có rớt ở đâu không.

“Nếu anh tìm cây bút màu đỏ thì chúng tôi đã tìm thấy nó đằng kia, cạnh cái cây,” Dalton lên tiếng, chỉ về phía bãi đậu xe. “Chắc cô bé đã đánh rơi nó khi đang giằng co...” Giọng anh bỏ lửng.

“Sao anh biết con bé giằng co?” Mack chất vấn.

Viên cảnh sát lưỡng lự, nhưng rồi lại đáp một cách gần như miễn cưỡng. “Chúng tôi đã tìm thấy một chiếc giày của nó gần đó, trong bụi cây mà chắc là bị văng ra. Lúc ấy, anh không có ở đây nên chúng tôi đã nhờ con trai anh nhận diện.”

Hình ảnh con gái mình chống trả lại một con quái vật bệnh hoạn như một cú đấm vào bụng. Gần như ngã gục trước cái ác đột ngột chực bóp nghẹt mình, Mack tựa vào bàn để khỏi ngất đi hay là nôn thốc ra. Lúc ấy, anh mới nhận ra một chiếc kẹp con bọ rùa còn đính vào sách. Anh chợt tỉnh ra như ai đó vừa dí muối ngửi vào mũi mình.

“Của ai vậy?” anh hỏi Dalton, chỉ chiếc kẹp.

“Của ai vậy?”

“Chiếc kẹp con bọ rùa này! Ai cài nó vào đó?”

“Chúng tôi giả định là của Missy. Anh định bảo chúng tôi rằng chiếc kẹp không nằm đó sáng nay?”

“Tôi dám chắc,” Mack quả quyết đanh thép. “Con bé không có thứ gì như thế. Tôi hoàn toàn quả quyết sáng nay không có nó ở đây!”

Cảnh sát viên Dalton đã gọi bộ đàm, và trong mấy phút giới hình sự đã quay lại thu giữ chiếc kẹp.

Dalton lôi Mack ra một bên để giải thích. “Nếu những gì anh nói là chính xác, thì chúng tôi giả định rằng kẻ tấn công Missy đã cố ý bỏ nó lại đây.” Anh ngừng lại rồi nói thêm: “Ông Phillips, đây có thể là tin vui hoặc tin buồn.”

“Tôi không hiểu,” Mack đáp.

Viên cảnh sát lại ngập ngừng, cố gắng quyết định xem có nên nói với Mack điều anh đang nghĩ không. Anh lục tìm ngôn từ thích hợp. “Tin vui là có khi chúng tôi tìm được chứng cứ từ đó. Nó là thứ duy nhất chúng tôi có được để liên kết hắn với hiện trường này.”

“Thế còn tin buồn?” Mack nín thở.

“Tin buồn - mà tôi không định nói là vụ này, nhưng những kẻ bỏ lại thứ gì đó như thế này thường có một mục đích để làm vậy, và nó thường có nghĩa rằng chúng đã từng làm vậy.”

“Anh nói sao?” Mack ngắt lời. “Rằng tên này là như kiểu giết người hàng loạt? Đây có phải là dấu hiệu hắn để lại để chứng tỏ về hắn, giống như để đánh dấu lãnh địa phải không?”

Mack đang tức giận và nhìn mặt Dalton thì thấy rõ anh đang hối tiếc vì đã đề cập chuyện đó. Nhưng trước khi Mack kịp nguyền rủa, Dalton nhận được điện từ chiếc bộ đàm đeo ở thắt lưng gọi cho anh từ văn phòng FBI địa phương tại Portland, Oregon. Mack không chịu đi và lắng nghe khi một phụ nữ xưng là mật vụ. Cô yêu cầu Dalton miêu tả chi tiết chiếc kẹp. Mack đi theo viên cảnh sát đến chỗ nhóm hình sự đã thiết lập khu vực làm việc. Chiếc kẹp được đựng bên trong túi Ziploc, và đứng ngay sau nhóm này, anh nghe lỏm Dalton cố hết sức miêu tả chiếc kẹp.

“Đó là một chiếc kẹp ghim hình con bọ rùa được kẹp vào trong mấy trang sách tô màu, giống như mấy chiếc kẹp phụ nữ cài ve áo, tôi nghĩ vậy.”

“Vui lòng miêu tả màu sắc và số chấm trên con bọ rùa,” giọng hướng dẫn trên bộ đàm.

“Để xem,” Dalton nói, mắt dí vào cái túi. “Đầu màu đen với... một cái đầu con bọ rùa. Còn thân màu đỏ, các cạnh màu đen. Có hai chấm đen bên thân trái nếu nhìn từ dưới lên... đầu xoay lên trên. Có ý nghĩa gì không?”

“Tốt lắm. Nói tiếp đi,” giọng nói cất lên một cách kiên nhẫn.

“Còn bên phải con bọ rùa có ba chấm, vậy là năm tất cả.”

Có một khoảng ngưng. “Anh có chắc có năm chấm không?”

“Thưa, có năm chấm.” Anh nhìn lên và thấy Mack, người đã nhích lên bên cạnh để nhìn kỹ hơn, nhìn vào mắt mình, rồi nhún vai như ý nói: “Mấy chấm thì ai quan tâm...”

“Ok, bây giờ nhé, cảnh sát viên Dabney...”

“Thưa, Dalton, Tommy Dalton.” Anh lại nhìn lên Mack rồi đưa mắt đi.

“Xin lỗi, cảnh sát viên Dalton. Anh làm ơn lật chiếc kẹp lên rồi cho tôi biết có gì dưới đáy hay phía dưới con bọ rùa.”

Dalton lật chiếc túi lại rồi nhìn cẩn thận. “Có cái gì đó khắc dưới đáy, đặc vụ... à, tôi chưa biết chính xác tên chị.”

“Wikowsky, đọc sao viết vậy. Có chữ cái hay số gì không?”

“Để tôi xem nào. Vâng, tôi nghĩ chị nói đúng. Hình như có số model. Ừm... C... K... 1-4-6, tôi nghĩ vậy, ừ, Charlie, Kilo, 1, 4, 6. Khó nhìn rõ qua cái túi.

Đầu kia im lặng. Mack thì thầm với Dalton: “Hỏi chị ta lý do hay là ý nghĩa cái đó. Dalton ngập ngừng rồi nói. Đầu kia lại im lặng lâu hơn.

“Wikowsky? Chị còn đó không?”

“Ừ, tôi đây.” Đột nhiên giọng nói nghe mệt mỏi và trống rỗng. “Này, Dalton, anh có đang ở chỗ nào để chúng ta nói chuyện riêng không?”

Mack hăm hở gật đầu và Dalton hiểu ý. “Chờ chút.” Anh đặt cái túi đựng kẹp xuống rồi di chuyển ra ngoài, cho phép Mack đi theo. Dù gì Dalton cũng đã vượt qua các qui tắc đối với anh ta rồi.

“Ừ. Rồi đó. Nói tôi nghe xem con bọ rùa là sao vậy,” anh thắc mắc.

“Chúng tôi đang cố tóm tên này bốn năm nay rồi, dò theo hắn qua hơn chín tiểu bang rồi; hắn vẫn luôn liên tục đi về hướng Tây. Hắn được đặt biệt danh là Tên Sát Gái, nhưng chúng tôi chưa hề tiết lộ chi tiết về con bọ rùa cho báo chí hay bất cứ ai, cho nên làm ơn giữ kín điều đó. Chúng tôi cho rằng hắn chịu trách nhiệm về việc bắt cóc và sát hại ít nhất bốn trẻ em cho đến giờ, tất cả là bé gái, tất cả đều dưới mười tuổi. Mỗi lần hắn lại thêm một chấm vào con bọ rùa, cho nên đây là vụ thứ năm. Hắn luôn bỏ lại chiếc kẹp đâu đó tại hiện trường, tất cả đều cùng một số model giống như hắn đã mua một hộp kẹp, nhưng chúng tôi không dò được kẹp xuất phát từ đâu. Chúng tôi chưa tìm được thi thể của bất kỳ bé nào trong số bốn bé, và mặc dù bên hình sự chưa kết luận điều gì, chúng tôi có lý do để tin rằng không một bé nào sống sót. Mỗi vụ án đều xảy ra tại hoặc gần một khu vực cắm trại, có công viên quốc gia hoặc khu bảo tồn gần đó. Kẻ đột nhập dường như là một tay thợ rừng hay dân đi núi lão luyện. Trong mỗi vụ, hắn hầu như không để lại chút dấu vết gì - ngoại trừ chiếc kẹp.”

“Còn chiếc xe thì sao? Chúng tôi có bản miêu tả khá chi tiết chiếc xe tải màu xanh mà hắn lái đi.”

“Ồ, rồi anh sẽ tìm ra thôi. Nếu đúng là tên này thì chiếc xe ắt được đánh cắp cách đây một, hai ngày, sơn lại, chất đồ đạc dã ngoại, rồi sẽ được dọn sạch.”

Khi lắng nghe cuộc nói chuyện của Dalton với đặc vụ Wikowsky, Mack cảm thấy tia hy vọng cuối cùng của mình trôi đi. Anh ngồi sụp xuống đất và vùi mặt vào đôi bàn tay. Có một ai trên đời mệt mỏi như anh lúc này không? Lần đầu tiên từ khi Missy mất tích, anh cho phép mình cân nhắc những khả năng khủng khiếp, và một khi đã bắt đầu, anh không dừng lại được; những sự mường tượng về thiện và ác trộn lẫn vào nhau trong một cuộc diễu hành kinh hoàng nhưng câm lặng. Thậm chí, anh cố thoát ra khỏi những hình ảnh ấy cũng không được. Một số là những ảnh chụp lướt nhanh đầy kinh hãi của tra tấn và đau đớn; của quái vật và quỷ sứ độc ác nhất có móng tay nhọn của dây thép gai và những cú vuốt ve của dao cạo; hình ảnh Missy thét gọi bố và không ai trả lời. Và pha trộn xuyên suốt những hình ảnh rùng rợn này là hình ảnh lướt nhanh các ký ức khác; chiếc nôi có cái ly Missy-sippy như cả nhà vẫn gọi; cô bé hai tuổi bị say vì ăn quá nhiều bánh chocolate; và một hình ảnh thật mới gần đây khi cô bé ngủ say trong tay bố. Những hình ảnh không ngớt. Anh sẽ nói gì trong tang lễ cô bé? Anh nói gì được với Nan? Làm sao lại ra nông nỗi này? Chúa ơi, làm sao lại ra nông nỗi này?

***

Vài giờ sau, Mack và hai con lái xe về khách sạn tại Joseph mà đã trở thành căn cứ để mở rộng tìm kiếm. Những người chủ đã tử tế tặng một phòng cho họ và khi dọn vài thứ vào phòng, anh bắt đầu cảm thấy kiệt sức. Anh đã chấp nhận với vẻ biết ơn khi cảnh sát viên Dalton đề nghị đưa các con anh đến một hiệu ăn địa phương để ăn uống và giờ đây ngồi ở mép giường, anh bị cuốn đi vô vọng trong một nỗi tuyệt vọng tàn nhẫn và cuồn cuộn ngày càng dâng cao, chậm rãi xô đến và cuốn đi. Những tiếng thổn thức và rên rỉ tan nát hồn từ trong cõi lòng chợt trào dâng. Và Nan đã đến với anh lúc ấy. Hai con người yêu thương nát vụn, họ ôm lấy nhau rồi khóc, Mack trút nỗi buồn đau còn Nan cố giữ lấy anh.

Đêm đó, Mack ngủ chập chờn khi những hình ảnh liên tục dội vào anh, như những con sóng không tiếc thương nện vào bờ đá. Cuối cùng, anh buông xuôi, ngay trước lúc bình minh bắt đầu báo hiệu sự ló dạng. Anh không nhận ra. Trong một ngày anh đã dốc hết cả cảm xúc của một năm trời, và giờ đây anh cảm thấy tê dại, lênh đênh trong một thế giới chợt vô nghĩa mà tưởng chừng như nó sẽ vĩnh viễn màu xám.

Sau khi Nan phản đối dữ dội, họ nhất trí tốt nhất là nàng về nhà với Josh và Kate. Mack sẽ ở lại để giúp bất cứ điều gì có thể, và để ở gần, phòng hờ. Đơn giản anh không thể ra đi, khi con bé biết đâu vẫn còn ở ngoài đó, cần đến anh. Tin tức lan nhanh và bạn bè đã đến để giúp anh gói ghém mọi thứ đồ đạc về lại Portland. Sếp anh gọi điện, đề nghị giúp đỡ mọi cách trong khả năng và động viên Mack nán lại càng lâu càng tốt. Mọi người quen biết đều cầu nguyện.

Các phóng viên, với các nhiếp ảnh gia đi cùng, bắt đầu xuất hiện suốt buổi sáng. Mack không muốn đối diện với họ hay ống kính của họ, nhưng sau khi được hướng dẫn anh đã dành thời gian để trả lời các câu hỏi của họ trong bãi đậu xe, biết rằng việc xuất hiện có thể giúp được rất nhiều cho cuộc tìm kiếm Missy.

Anh giữ kín chuyện cảnh sát viên Dalton đã phá lệ với anh, và Dalton đền ơn bằng cách tiếp tục cho anh biết tin nội bộ. Jesse và Sarah, sẵn lòng làm bất kỳ điều gì, luôn chuẩn bị sẵn sàng để giúp gia đình họ và các bạn bè đến phụ giúp. Họ cất được gánh nặng ghê gớm của việc giao tiếp với công chúng cho cả Nan và Mack và dường như có mặt khắp nơi trong khi khéo léo thêu dệt những sợi chỉ bình an vào giữa trận xáo động cảm xúc.

Bố mẹ Emil Ducette lái xe từ tận Denver đến để giúp Vicki và mấy đứa nhỏ về nhà an toàn. Emil, với sự giúp đỡ của cấp trên, đã quyết định nán lại để tìm cách giúp viên công vụ, giúp Mack nắm thông tin về phía họ. Nan, người nhanh chóng kết thân với Sarah và Vicki, đã chuyển sang giúp bé J.J., rồi chuẩn bị cho các con mình quay về Portland. Rồi khi nàng kiệt sức, vốn thường xuyên, Vicki hoặc Sarah lúc nào cũng có mặt để cùng khóc và cầu nguyện.

Khi rõ ràng nhu cầu về sự trợ giúp của họ lắng xuống, gia đình Madisons thu dọn địa điểm của họ rồi đến để ứa nước mắt tạm biệt trước khi đi về hướng Bắc. Khi Jesse ôm Mack thật lâu, anh thì thầm rằng họ sẽ gặp lại, và anh sẽ cầu nguyện cho tất cả mọi người. Sarah, nước mắt lăn dài trên má, chỉ hôn lên trán Mack rồi ôm lấy Nan, người lại bật khóc và than van. Sarah hát một bài gì đó, lời lẽ Mack không nghe rõ, nhưng nó làm vợ anh trấn tĩnh cho đến khi nàng đủ bình tâm để Sarah lên đường. Mack thậm chí không nhìn nổi khi đôi vợ chồng ấy bước đi.

Khi gia đình Ducette đã sẵn sàng lên đường, Mack dành một phút cám ơn Amber và Emmy đã động viên và giúp đỡ gia đình mình, nhất là khi chính mình không thể. Josh đã khóc chào tạm biệt; cậu không còn can đảm nữa, ít nhất là ngày hôm nay. Kate, ngược lại, đã trở nên một tảng đá, bận rộn giúp mọi người kiểm tra để lưu địa chỉ và email của nhau. Thế giới của Vicki đã bị chấn động bởi các biến cố này, và giờ đây Nan nhìn cô dò xét khi nỗi buồn chực cuốn trôi cô đi. Nan ôm lấy cô, vuốt tóc và thầm thì những lời cầu nguyện vào tai, cho đến khi cô đủ bình tâm để bước ra xe đang chờ.

Đến trưa, tất cả các gia đình đã lên đường. Maryanne lái xe đưa Nan và các con về nhà nơi họ hàng đang chờ để chăm sóc và động viên họ. Mack và Emil đi cùng cảnh sát viên Dalton, người giờ đây chỉ gọi là Tommy, đến thị trấn Joseph bằng xe của Tommy. Tại đó, họ mua bánh mì sandwich, mà cũng chẳng đụng đến, rồi lái đến đồn cảnh sát. Tommy Dalton là cha của hai cô con gái mà đứa lớn chỉ năm tuổi, cho nên dễ hiểu vụ này tác động một cách đặc biệt đến anh. Dalton tỏ ra hết sức tử tế và lịch sự với những người bạn mới, nhất là Mack.

Giờ đây đến phần khó khăn nhất, chờ đợi. Mack cảm thấy như mình đang chuyển động chậm trong mắt của một cơn bão các hoạt động đang diễn ra quanh mình. Các báo cáo đổ về từ khắp nơi. Thậm chí Emil cũng bận rộn kết nối với những người và những chuyên gia anh biết.

Đoàn công tác FBI đến vào giữa buổi chiều từ các văn phòng địa phương tại ba thành phố. Rõ ràng ngay từ đầu rằng người phụ trách là đặc vụ Wikowsky, một phụ nữ thanh mảnh đầy nhiệt huyết và năng động, một người mà Mack có cảm tình ngay. Cô công khai đáp lại thiện cảm và từ đó trở đi, không ai chất vấn sự hiện diện của anh, thậm chí trong những cuộc đối thoại hay báo cáo riêng tư nhất.

Sau khi đặt trung tâm chỉ huy của họ tại khách sạn, FBI mời Mack đến để phỏng vấn chính thức, một việc mà họ cho biết là thủ tục thường lệ trong các hoàn cảnh như thế này. Đặc vụ Wikowsky đứng dậy sau chiếc bàn giấy cô đang làm việc và chìa tay ra. Khi anh đưa tay ra để bắt, cô bắt bằng cả hai bàn tay và cười kiên nghị.

“Ông Phillips, tôi xin lỗi tôi chưa thể dành nhiều thời gian với anh cho đến nay. Chúng tôi hết sức bận rộn để thiết lập liên lạc với giới hành pháp và các cơ quan khác liên quan để cố gắng đưa Missy trở về bình an. Tôi rất tiếc chúng ta phải gặp nhau trong những điều kiện như thế.”

Mack tin cô. “Mack,” anh nói.

“Sao ạ?”

“Mack. Làm ơn, cứ gọi tôi là Mack.”

“À, Mack, vậy thì làm ơn gọi tôi là Sam. Viết tắt của Samantha, nhưng tôi lớn lên nghịch như con trai và nện những đứa nhóc nào dám gọi tôi là Samantha trước mặt.”

Mack không nhịn được cười, thư giãn một chút trong chiếc ghế trong khi nhìn cô nhanh tay lướt qua mấy cái bìa đầy giấy tờ. “Mack, anh có sẵn sàng trả lời vài câu hỏi không?” cô hỏi mà không nhìn lên.

“Tôi sẽ cố gắng hết sức,” anh đáp, cảm kích vì có cơ hội được làm bất cứ điều gì.

“Tốt! Tôi sẽ không buộc anh phải nói hết mọi chi tiết một lần nữa. Tôi có báo cáo về mọi thứ anh đã nói với mọi người, nhưng tôi có vài điều quan trọng để hỏi lại anh.” Cô nhìn lên, thẳng vào mắt.

“Bất kỳ việc gì tôi có thể giúp được,” Mack thú nhận. “Tôi đang cảm thấy vô dụng quá vào lúc này.”

“Mack, tôi hiểu cảm giác của anh, nhưng sự hiện diện của anh ở đây là quan trọng. Và tin tôi đi, không có một ai ở đây không quan tâm đến bé Missy của anh. Chúng tôi sẽ làm mọi việc bằng quyền lực của mình để đem cô bé về an toàn.”

“Cám ơn cô,” Mack chỉ nói được có thế, rồi anh nhìn xuống sàn. Các cảm xúc dường như chực trào dâng, và thậm chí một tí xíu ân cần cũng có thể phá tan sự dè dặt.

“Được rồi, thế này nhé... tôi đã có một cuộc trò chuyện không chính thức với anh bạn cảnh sát Tommy của anh, và anh ta đã nói với tôi về mọi điều mà anh và anh ta đã nói với nhau, cho nên anh không cần phải bảo vệ cho anh ấy. Anh ta hoàn toàn ổn thỏa trong hồ sơ của tôi.”

Mack nhìn lên và gật đầu, và lại mỉm cười với cô.

“Cho nên,” cô tiếp lời, “anh có nhận thấy ai lạ mặt quanh gia đình mình mấy ngày vừa qua không?”

Mack ngạc nhiên và ngồi lui vào ghế. “Cô định nói là kẻ đã rình mò chúng tôi?”

“Không, dường như hắn chọn nạn nhân một cách ngẫu nhiên, mặc dù tất cả bọn nhỏ đều trạc tuổi con gái anh với cùng màu tóc. Chúng tôi nghĩ hắn nhận ra bọn trẻ một, hai ngày trước rồi chờ và theo dõi ở khoảng cách gần để tìm thời điểm cơ hội. Anh có thấy ai bất thường hoặc đi lạc chỗ gần hồ không? Có lẽ gần mấy phòng tắm?” Mack co lại khi nghĩ đến các con mình bị theo dõi, bị rình mò. Anh cố gắng vượt qua sự tưởng tượng của mình, nhưng một khoảng trống hiện ra. “Tôi xin lỗi, tôi không nhớ ra được...”

“Ông có dừng lại ở đâu đó trên đường đến khu cắm trại, hay nhận ra ai lạ mặt khi đang đi dã ngoại hay ngắm cảnh trong khu vực không?”

“Chúng tôi đã dừng tại thác Multnomah trên đường đến đây, và chúng tôi đã đi khắp khu vực này ba ngày qua, nhưng tôi không nhớ có nhìn thấy một ai đó bất thường. Ai mà tưởng tượng được...?”

“Đúng vậy, Mack, cho nên đừng hành hạ mình. Biết đâu đầu óc rồi sẽ nhớ ra. Cho dù chi tiết vụn vặt hay vô bổ đến đâu, làm ơn cho chúng tôi biết.” Cô dừng lại để xem một tờ giấy khác trên bàn. “Còn chiếc xe tải màu xanh quân sự. Anh có nhận ra thứ gì như vậy trong lúc ở đây không?”

Mack vắt trí nhớ. “Tôi thật tình không thể nhớ có nhìn thấy thứ gì như vậy.”

Đặc vụ Wikowsky tiếp tục hỏi Mack mười lăm phút nữa nhưng không thể moi trong trí nhớ của anh được thứ gì hữu ích. Cuối cùng, cô gấp sổ lại và đứng lên, chìa tay ra. “Mack, một lần nữa, tôi rất tiếc về việc Missy. Nếu có tin gì, tôi sẽ đích thân cho anh biết ngay tức khắc.”

***

Lúc 5 giờ chiều, bản báo cáo đầy hứa hẹn đầu tiên rốt cuộc được gửi về, từ chốt chặn Imnaha. Như đã hứa, đặc vụ Wikowsky tìm Mack ngay lập tức và cho anh biết chi tiết. Hai cặp vợ chồng đã gặp một chiếc xe tải màu xanh trông giống xe quân sự trùng khớp với mô tả về chiếc xe mà mọi người đang tìm kiếm. Họ đang thăm dò một số địa điểm cũ tại Nez Perce thuộc rừng quốc gia 4260 nằm tại một trong những khu vực xa xôi nhất của khu bảo tồn quốc gia, và đang trên đường đi ra thì đối mặt với chiếc xe ấy, ngay phía Nam chỗ tiếp giáp của NF 4260 và NF 250. Bởi vì đoạn đường đó chủ yếu là một làn xe, họ phải lùi xe lại một chỗ an toàn để chiếc xe tải đi qua. Họ nhận thấy chiếc xe tải có một số bình ga đằng sau, cộng với khá nhiều dụng cụ cắm trại. Điều khác lạ là người đàn ông đã cúi về phía ghế hành khách như thể đang tìm kiếm thứ gì trên sàn xe, sụp mũ xuống thấp, và mặc một chiếc áo khoác lớn giữa ngày nóng, cứ như thể anh ta đang sợ họ. Họ chợt cười xem như gặp một tay dân quân.

Lúc bản báo cáo được thông báo với cả nhóm, sự căng thẳng trong đồn dâng lên. Tommy đến để cho Mack biết rằng thật không may là mọi điều anh tìm hiểu được cho đến lúc ấy đều khớp với phương thức hành động của Tên Sát Gái - đi về hướng những vùng xa mà cuối cùng hắn có thể đi bộ. Rõ ràng hắn biết hắn đang đi đâu, vì địa điểm mà hắn bị nhận diện nằm cách biệt hẳn với đường mòn. Không may cho hắn là có người khác cũng đi rất xa về phía đó.

Do buổi tối đến nhanh, mọi người bắt đầu thảo luận căng thẳng về hiệu lực của một cuộc truy lùng ngay lập tức hay tạm ngưng đến sáng. Bất chấp quan điểm thế nào, dường như mọi người góp tiếng nói đều bị tác động sâu sắc trước tình cảnh ấy. Một điều gì đó trong tim của hầu hết con người đều đơn giản không thể chịu đựng được nỗi đau gây ra cho kẻ vô tội, nhất là trẻ em. Ngay cả những kẻ tha hóa đang thi hành án trong những trại cải huấn tồi tệ nhất cũng thường căm giận những tên gây đau khổ cho trẻ em. Ngay cả trong một thế giới tương đối như thế về đạo đức, làm hại trẻ em vẫn bị xem là hoàn toàn sai trái. Chấm hết!

Đứng gần cuối phòng, Mack bồn chồn lắng nghe cuộc tranh cãi dường như chỉ phí thời gian. Anh như sẵn sàng ra tay bắt cóc cả Tommy nếu cần và tự mình truy đuổi thủ phạm. Từng giây như thể đều có ý nghĩa.

Mặc dù Mack có cảm giác lâu hơn, các đơn vị và nhân sự đều nhanh chóng nhất trí, một cách đồng lòng, khởi sự truy lùng ngay sau khi thu xếp được một vài việc. Mặc dù không có nhiều đường ra khỏi khu vực đó - và các chốt chặn đã được lập ngay lập tức để ngăn chặn khả năng này - mọi người có một mối quan tâm rất thực tế là một tay đi rừng giỏi có thể bí mật vượt chốt để vào rừng hoang Idaho về phía Đông hoặc tiểu bang Washington về phía Bắc. Trong khi cảnh sát tại các thị trấn Lewiston, Idaho và Clarkston, Washinton được liên lạc và thông báo tình hình, Mack nhanh chóng gọi Nan để cập nhật cho nàng rồi đi cùng với Tommy.

Đến giờ này anh chỉ còn một câu cầu nguyện: “Lạy Chúa, làm ơn, làm ơn, làm ơn lo cho Missy của con. Giờ này con không thể.” Nước mắt anh chảy dài trên má và rơi xuống áo sơ mi.

***

Đến 7h30 tối, đoàn xe tuần tra, xe đa dụng của FBI, xe tải chở chó trong cũi, và một số xe kiểm lâm lao về hướng xa lộ Imnaha. Thay vì quẹo về phía Đông đến đường Núi Wallowa, vốn dẫn thẳng vào khu bảo tồn quốc gia, họ đi tiếp trên đường Imnaha về hướng Bắc. Rốt cục họ đi theo đường Imnaha Hạ và cuối cùng là đường Cồn Vú để vào khu bảo tồn.

Mack mừng vì anh đang đi theo một người rành vùng này. Dường như thỉnh thoảng đường Cồn Vú lại rẽ ra cùng lúc mọi hướng. Hình như người nào đặt tên mấy con đường này đã cạn ý tưởng, hay là bị mệt, hay là say nên bắt đầu đặt tên Cồn Vú cho xong việc để về nhà.

Các con đường, với các đoạn chữ chi hẹp thường xuyên chạy dọc theo mép dốc dựng đứng, trở nên càng bất trắc trong đêm tối như bưng. Hành trình chậm dần một cuộc bò trườn. Cuối cùng, họ vượt qua được vị trí người ta nhìn thấy chiếc xe tải xanh lần cuối, và một dặm sau đó thì đến nơi tiếp giáp mà NF 4260 đi tiếp về Bắc - Đông bắc còn NF 250 đi về Đông Nam. Tại đó, như đã định, đoàn xe chia làm hai, với một nhóm nhỏ đi về hướng Bắc lên trên 4260 với đặc vụ Sikowsky, còn nhóm còn lại, gồm Mack, Emil và Tommy, đi về hướng Đông Nam trên đường 250. Sau một vài dặm đường gay go nữa, nhóm sau này lại chia ra tiếp; Tommy và một chiếc xe tải chở chó đi tiếp theo đường 250 mà theo bản đồ con đường sẽ tận cùng, và những người còn lại đi theo hướng Chính Đông hơn xuyên qua công viên theo đường NF 4240 đến khu vực sông Temperance.

Đến lúc này, mọi nỗ lực tìm kiếm bị chậm lại hơn nữa. Những người truy lùng giờ đây đi bộ và được trang bị đèn pha loại mạnh để tìm kiếm dấu vết các hoạt động mới xảy ra trên các con đường - bất cứ điều gì cho thấy khu vực họ đang dò xét không phải là một vùng đất hoang.

Gần hai giờ sau, trong khi đang di chuyển chậm như sên về phía cuối đường 250, Dalton nhận được một cuộc gọi từ Wikowsky. Nhóm của cô đã gặp may. Khoảng mười dặm từ chỗ tiếp giáp nơi họ tách ra, một con đường không tên từ 4260 chạy thẳng lên phía bắc khoảng hai dặm. Con đường này khó mà nhìn thấy và hết sức hoang phế. Lẽ ra họ cũng đã hoàn toàn bỏ qua không nhìn thấy nó, may mà một người trong nhóm truy tìm đã lia đèn pin trúng một cái nắp đậy trục bánh xe nằm cách đường chính khoảng năm mươi bộ. Anh ta nhặt nó lên vì tò mò và phát hiện ra bên dưới lớp bụi đường là đầy những vệt sơn xanh. Chiếc nắp chụp này ắt là đã văng ra khi chiếc xe tải bị giằng xóc bởi một trong nhiều các ổ gà to tướng khắp trên đường.

Nhóm của Tommy lập tức quay lại ngay. Mack muốn kìm lại tia hy vọng lại bắt đầu nhen nhóm trong anh rằng Missy có lẽ vẫn còn sống, bởi một phép màu nào đó, nhất là khi tất cả những gì anh biết đều nói lên viễn cảnh ngược lại. Hai mươi phút sau, một cuộc gọi nữa từ Wikowsky; lần này thông báo rằng họ đã tìm được chiếc xe tải. Trực thăng và các máy bay tầm soát không bao giờ nhìn thấy nó từ trên trời được vì nó được che kín hệt như đang nằm cẩn thận dưới một mái lán lợp bởi cành cây và bụi rậm.

Nhóm của Mack mất gần ba giờ mới đến được chỗ nhóm đầu tiên và khi ấy thì mọi việc đã xong. Bọn chó đã làm những việc còn lại, khám phá ra một con đường mòn săn bắn chạy hơn một dặm xuống một thung lũng nhỏ ẩn kín. Tại đó họ phát hiện ra một cái chòi nhỏ xiêu vẹo nằm cách mép một cái hồ hoang sơ chừng nửa dặm. Một con suối nhỏ cách chừng trăm bộ đổ nước xuống hồ. Chừng một thế kỷ trước chắc đây là nhà của một người khai hoang. Căn chòi có hai phòng khá lớn; đủ cho một gia đình nhỏ ngụ cư. Từ đó đến nay, dường như nó trở thành chỗ tá túc cho thợ săn vãng lai hoặc phường săn bắn trộm.

Khi Mack và bạn bè đến nơi, trời bắt đầu ửng những vệt xám trước lúc rạng đông. Một trại làm việc đã được dựng lên cách khá xa căn chòi nhỏ hoang tàn để bảo vệ hiện trường. Ngay lúc nhóm của Wikowsky tìm ra nơi này, chó nghiệp vụ đã được tung ra nhiều hướng để đánh hơi. Thỉnh thoảng, tiếng chó sủa lại cho thấy họ đã tìm được gì đó, để rồi dấu vết lại biến mất. Giờ đây tất cả đang quay lại tề tựu đã hoạch định chiến lược cho ngày hôm đó.

Đặc vụ Samantha Wikowsky đang ngồi tại bàn để đánh dấu bản đồ và uống nước trong một cái chai lớn thì Mack bước đến. Cô trao cho anh một nụ cười u ám mà Mack không đáp lại, và một chai nước khác mà anh nhận lấy. Đôi mắt cô buồn bã và dịu dàng nhưng giọng thì hoàn toàn mang âm sắc của công việc.

“Này, Mack.” Cô ngập ngừng. “Anh kéo ghế ngồi đi.”

Mack không muốn ngồi xuống. Anh cần làm gì đó để ngăn chặn cơn cồn cào trong bụng. Cảm nhận được sự rắc rối. Anh đứng chờ cô nói tiếp.

“Mack, chúng tôi đã tìm được một thứ, nhưng không phải là tin vui.”

Anh lóng ngóng tìm từ ngữ. “Cô có tìm thấy Missy không?” Đó là câu hỏi mà anh không muốn nghe câu trả lời, nhưng đang tuyệt vọng muốn biết.

“Không, chúng tôi không tìm thấy con bé.” Sam ngưng lại và bắt đầu đứng dậy. “Nhưng, tôi cần anh đến để nhận diện một thứ chúng tôi tìm được trong căn chòi cũ đó. Tôi cần biết đó có phải là...” cô kìm lại, nhưng đã quá muộn, “Ý tôi muốn biết, có phải là con bé hay không.”

Anh nhìn chằm chằm xuống đất. Anh lại cảm thấy như mình già cả triệu tuổi, dường như chỉ ước ao có cách gì mình biến chính mình thành một tảng đá vô cảm.

“Ồ, Mack, tôi xin lỗi,” Sam vừa tạ lỗi vừa đứng dậy. “Ta có thể làm việc này sau nếu anh muốn. Tôi cứ tưởng...”

Anh không thể nhìn cô và lại càng khó khăn hơn để tìm từ hầu thốt ra mà không ngã quỵ. Rồi anh lại cảm thấy như con đê chực vỡ. “Làm luôn đi,” anh nhỏ nhẹ lầm bầm. “Tôi muốn biết mọi điều có thể biết.”

Wikowsky lẽ ra phải ra hiệu cho những người kia bởi vì, mặc dù Mack không nghe thấy gì, anh đột nhiên thấy Emil và Tommy mỗi người khoác một tay anh khi họ cùng bước theo viên đặc vụ trên đoạn đường ngắn dẫn đến căn chòi. Ba người đàn ông, khoác tay nhau trong một mối đoàn kết lạ thường, sóng bước bên nhau, cùng tiến đến cơn ác mộng của riêng mỗi người.

Một thành viên của nhóm hình sự mở cửa căn chòi để họ vào. Ánh sáng đèn do máy phát điện chiếu rọi từng góc của căn phòng chính. Những hàng kệ trên tường, một chiếc bàn cũ, một vài chiếc ghế, và một chiếc sofa cũ mà ai đó đã vất vả lôi vào đây. Mack ngay lập tức nhìn thấy thứ mà anh đến để nhận diện, anh quay người lại, đổ gục vào cánh tay của hai người bạn và òa khóc không gì kiềm lại được. Trên sàn nhà, cạnh lò sưởi là chiếc váy đầm đỏ của Missy bị xé rách và nhuộm máu.

***

Đối với Mack, những ngày và những tuần tiếp theo đã trở thành một chuỗi lờ mờ tê dại của những cuộc phỏng vấn với cảnh sát và báo chí, nối tiếp bởi một cuộc truy điệu cho Missy bằng một chiếc quan tài nhỏ trống rỗng và một đại dương bất tận những gương mặt, tất cả đều buồn bã khi đi diễu qua, không ai biết nói gì. Trong những tuần tiếp sau đó nữa, một lúc nào đó Mack đã bắt đầu cuộc hòa nhập trở lại đời thường một cách chậm chạp và đau đớn.

Tên Sát Gái dường như được ghi nhận đã sát hại nạn nhân thứ năm, Melissa Anne Phillips. Cũng hệt như trong bốn trường hợp trước, giới chức đã không hề tìm thấy thi thể của Missy mặc dù các nhóm tìm kiếm đã sục sạo khu rừng quanh căn chòi nhiều ngày trời sau khi phát hiện. Như trong các trường hợp khác, tên sát nhân đã không để lại dấu tay hay DNA. Hắn không để lại một chứng cứ hữu ích nào, chỉ mỗi chiếc kẹp. Như thể hắn là một bóng ma.

Đến một lúc, Mack đã cố thoát ra khỏi nỗi đau buồn của chính mình, ít nhất là với gia đình. Gia đình đã mất một đứa em và đứa con gái, giờ lại mất một người cha và một người chồng nữa thì thật không phải. Mặc dù không ai liên can có thể lành lặn trước thảm kịch này, Kate hình như là người bị tác động mạnh nhất, biến mất vào trong chiếc vỏ, như một con rùa tự bảo vệ chiếc ức mỏng manh của mình trước mọi thứ tiềm tàng hiểm nguy. Dường như cô bé chỉ thò đầu ra khi cảm thấy hoàn toàn an toàn, một cảm giác ngày càng hiếm hoi. Mack và Nan đều ngày càng lo lắng cho cô bé, nhưng dường như không tìm được từ ngữ gì thích hợp để xuyên thủng pháo đài mà cô đã xây quanh cõi lòng mình. Những cố gắng đối thoại thường biến thành những cuộc độc thoại một chiều, những âm thanh bật ngược lại từ gương mặt sỏi đá của cô. Cứ như thể một điều gì đó đã chết trong lòng cô, và giờ đây nó đang từ từ lây nhiễm đến cô từ bên trong, thỉnh thoảng trào ra thành những lời cay đắng hoặc sự im lặng vô cảm.

Josh tỏ ra khá hơn nhiều, một phần nhờ vào mối quan hệ mà cậu vẫn duy trì với Amber ở nơi xa. Email và điện thoại là một cách làm dịu nỗi đau của cậu và cô bé đã dành cho cậu thời gian và không gian để chia sẻ. Cậu cũng đang chuẩn bị tốt nghiệp trung học sau bao biến cố trong năm.

Nỗi đau đã giáng xuống và với những cấp độ khác nhau đã phủ lên mọi người có liên hệ cuộc sống với Missy. Mack và Nan đã cùng nhau vượt qua được cơn bão táp của tổn thất, và về một lẽ nào đó đã gắn bó với nhau hơn. Nan đã nói rõ ngay từ đầu, và nhắc đi nhắc lại, nàng không trách Mack bất kỳ điều gì về chuyện đã xảy ra. Cũng dễ hiểu là Mack mất nhiều thời gian hơn để khuây khỏa, cho dù là chút ít.

Thật quá dễ khi đắm mình trong những dằn vặt của trò chơi giá như , để rồi lại trôi tuột vào con dốc tuyệt vọng. Giá như anh quyết định không đưa các con đi du lịch; giá như anh không đồng ý khi chúng đòi bơi xuồng; giá như anh lên đường ngày hôm trước, giá như, giá như, giá như . Việc anh không chôn cất được thi thể của Missy càng làm anh dằn vặt trong vai trò người cha. Việc Missy vẫn còn đâu đó cô đơn trong rừng ám ảnh anh hằng ngày. Giờ đây, sau ba năm rưỡi, Missy đã được chính thức giả định đã bị sát hại. Cuộc sống sẽ không bao giờ trở lại bình thường được nữa, chẳng có lúc nào thật sự bình thường. Thật trống rỗng khi vắng Missy.

Tấn bi kịch cũng đã làm tăng rạn nứt trong quan hệ của chính Mack với Chúa, nhưng anh lờ đi cảm giác xa cách ngày càng rõ này. Thay vào đó, anh trải mình trong một niềm tin khắc kỷ và vô cảm, và cho dù Mack cảm thấy chút khuây khỏa và bình an trong đó, nó không ngăn được những cơn ác mộng hình ảnh chân anh lún trong bùn và tiếng thét câm lặng của anh không cứu được Missy yêu dấu. Những giấc mơ tệ hại ngày càng thưa hơn, rồi tiếng cười và những khoảnh khắc vui tươi bắt đầu trở lại từ từ, nhưng anh cảm thấy tội lỗi về điều này.

Cho nên khi Mack nhận được thư của Cha bảo đến gặp người tại căn chòi, chuyện không hề đơn giản. Chúa có bao giờ viết thư không? Và tại sao lại là căn chòi - biểu tượng cho nỗi đau cùng cực của anh? Rõ ràng, Chúa có những nơi hay ho hơn để gặp anh. Một ý nghĩ đen tối cũng thoáng qua đầu anh rằng tên sát nhân biết đâu đang giễu anh, hoặc dụ anh đi khỏi để cả gia đình không còn ai che chở. Có lẽ tất cả chỉ là một trò chơi ác. Nhưng thế thì tại sao thư lại ký tên Cha?

Có cố đến đâu Mack cũng không thoát khỏi khả năng kinh khủng rằng lá thư có lẽ đến từ Chúa mà thôi, cho dù ý tưởng Chúa gửi thư chẳng hề phù hợp với sở học của anh về thần học. Trong trường dòng anh đã được dạy rằng, Chúa đã hoàn toàn chấm dứt mọi giao tiếp công khai với con người hiện đại, mong muốn họ chỉ việc lắng nghe và tuân theo Thánh kinh, dĩ nhiên, được diễn giảng thích đáng. Lời Chúa chỉ còn trên giấy, và thậm chí giấy đó cũng phải được diễn dịch và giải mã bởi các bậc giáo phẩm và trí thức thích đáng. Dường như việc giao tiếp trực tiếp với Chúa là một ân sủng độc quyền cho những con người cổ đại và chưa văn minh, còn mối giao tiếp của người phương Tây có giáo dục với Chúa đã được sắp đặt và kiểm soát bởi giới trí thức. Không ai muốn Chúa trong một chiếc hộp, chỉ muốn trong một cuốn sách. Nhất là một cuốn đắt tiền được đóng bìa da và mạ vàng, hay điều ấy là sai quấy?

Càng nghĩ về chuyện đó, Mack càng hoang mang và bực dọc. Ai gửi lá thư quái quỉ đó? Cho dù là Chúa hay tên sát nhân hay một kẻ tinh nghịch nào đó thì điều đó có nghĩa gì? Nhìn ở góc độ nào anh cũng có cảm giác mình đang bị đùa giỡn. Mà dù sao đi nữa, vâng lời Chúa thì được lợi gì? Hãy nhìn xem đời mình đã ra sao.

Nhưng cho dù tức giận hay phiền muộn, Mack biết rằng mình cần một số câu trả lời. Anh nhận ra mình bị bế tắc, và những lời kinh hay lời ca trong thánh lễ Chủ nhật không giải quyết được gì nữa, nếu như điều đó đã từng có tác dụng. Duy linh ẩn dật dường như không thay đổi được gì trong đời sống những người anh quen biết, có lẽ ngoại trừ Nan. Nhưng nàng là người đặc biệt. Có lẽ Chúa thật sự yêu nàng. Nàng không phải là một kẻ rắc rối như anh. Anh thấy chán Chúa và đạo giáo của Chúa, chán hết thảy những hội đoàn tôn giáo mà dường như chẳng thay đổi được chút gì hay ảnh hưởng gì đến những sự thay đổi thật sự. Vâng, Mack muốn nhiều hơn, và anh sắp được nhận nhiều hơn cả những gì anh mặc cả.