← Quay lại trang sách

VII. BÁO GIỚI ĐẢ ĐẢO GIỚI TINH HOA TRUYỀN THÔNG!

Tương lai của những người giống như tôi trong thời gian trước đây rõ ràng là sáng sủa hơn - hay ít nhất điều đó có vẻ như vậy. Khi nói tới “những người giống như tôi”, tôi muốn nói tới những người làm trong ngành truyền thông, chẳng hạn báo, tạp chí, hay truyền hình. Ngay khi chúng tôi đang vừa bị phỉnh phờ vừa bị chỉ trích về quyền lực của mình, thì các công nghệ máy tính mới và các phương tiện giao tiếp mới bắt đầu đe dọa thu nhập, tầm quan trọng về mặt xã hội, cũng như ảnh hưởng chính trị của chúng tôi. Điều này có thể làm hài lòng những ai coi chúng tôi là một “giới tinh hoa truyền thông” (media elite) vốn chẳng được ai bầu lên mà lại làm vẩn đục chính trị và văn hóa của xã hội. Tuy nhiên, lại có quan điểm đối lập rằng truyền thông đại chúng giúp gắn kết xã hội, qua việc chia sẻ kinh nghiệm và thông tin. Quan điểm nào trong số hai cái trên là đúng không phải là việc quan trọng, vấn đề là những công nghệ mới không nghe thấy mà cũng chẳng quan tâm đến những ý kiến kiểu này.

Cho tới nay tôi vẫn nghi ngờ rằng các phương tiện truyền thông kiểu mới sẽ đe dọa các kênh truyền thông kiểu cũ. Máy tính, truyền hình cáp, hay sợi quang v.v... sẽ chỉ cung cấp những thông tin chuyên biệt, về mọi lĩnh vực từ cổ phiếu đến bệnh tật, và chúng hoàn toàn không thể thay thế các tin tức và giải trí phổ thông. Có thể lắm chứ! Tuy nhiên có hai sự kiện đã làm lung lay niềm tin của tôi. Sự kiện thứ nhất là một cuộc điều tra của Trung tâm nghiên cứu Pew về Con người và Báo chí đã cho thấy những thay đổi lớn trong thói quen về truyền thông. Đáng chú ý nhất là sự đi xuống của các chương trình tin tức ban đêm trên TV. Năm 1993, 60% người Mỹ trên 18 tuổi trả lời là “thường xuyên” xem chương trình này, đến năm 1998 tỷ lệ này chỉ còn 38%. Một phần là do người ta bớt quan tâm đến tin tức, nhưng lý do chính là do họ xem tin tức trên truyền hình cáp nhiều hơn vào ban ngày. Tương tự, Internet cũng cất cánh. Hồi 1995, chỉ có 4% số người lớn lên mạng xem tin tức một lần trong tuần; ngày nay tỷ lệ này trở thành 20%!

Sự kiện khó chịu thứ hai với tôi là một cuộc trò chuyện với em tôi Richard. Em tôi có một quán trọ nhỏ ở Cape May, New Jersey. Năm ngoái, Richard bắt đầu quảng cáo cho quán bằng website của chính mình. Kết quả thật bất ngờ, khi một phần năm số khách hàng của quán biết đến quán nhờ cách quảng cáo này. Chưa có cách quảng cáo nào, dù là trên báo hay tạp chí, có hiệu quả như vậy. Mà Internet lại có chi phí không cao nữa chứ: em tôi chỉ phải trả chưa đến 1.000 USD/năm cho một công ty nhỏ ở Indianapolis để họ lập và quản lý website mà thôi. Em tôi nói “Trên Internet, ta có thể cạnh tranh ngang ngửa với các quán trọ lớn hơn hay thậm chí là các khách sạn. Họ có trang web, mình cũng có trang web!”.

Ừm! Các phương tiện thông tin đại chúng tồn tại vì hai lý do: một là người ta đọc hay xem chúng; hai là người ta và các công ty dùng chúng để quảng cáo. Hai điều này tất nhiên gắn liền với nhau. Nếu người ta không đọc hay xem một phương tiện thông tin nào đó, sẽ chẳng có ai muốn quảng cáo sản phẩm của họ trên đó cả. Ngược lại, nếu không có khách hàng mua quảng cáo (dù với bất kỳ lý do gì), chúng ta sẽ đánh mất độc giả hay khán giả. Thực sự thì các khách hàng quảng cáo đã trang trải đa phần chi phí của các phương tiện thông tin đại chúng. Ví dụ, đối với báo chí thì 70-80% doanh thu của họ là từ quảng cáo (phát hành chiếm đa số trong phần doanh thu còn lại). Nếu quảng cáo “bốc hơi”, báo chí sẽ không kham nổi chi phí trả cho các nhân viên, các chương trình có thể thu hút độc giả của họ nữa.

Tôi đã từng cho rằng ít ra thì báo và tạp chí vẫn giữ được vị trí của họ, bởi một tờ báo giấy tốt hơn hẳn một màn hình máy tính nếu xét đến việc đọc và nghỉ ngơi. Này nhé, bạn có thể mang tờ báo của bạn đi đâu tùy thích; bạn có thể gấp đôi hay kẹp nó trong tay; nếu đánh rơi thì cũng chẳng có gì đáng kể. Một màn hình máy tính, dù nhỏ gọn tới cỡ nào, cũng không thể so sánh được với những tiện lợi vừa nêu, chừng nào mà mọi người còn đọc như cách mà tôi đọc. Với tôi, đọc là một trải nghiệm riêng tư, chỉ một mình tôi với tờ báo hay cuốn sách mà thôi. Nhưng nếu thói quen đọc này thay đổi thì sao? Điều đó quả thực đã xảy ra. TV đã giết chết các tờ báo buổi chiều (evening newspaper): trong giai đoạn từ 1950 đến 1997, số lượng những tờ báo loại này giảm từ 1.450 tờ xuống còn 816 mà thôi, lượng phát hành của chúng cũng giảm đi hai phần ba.

Chúng ta có thể đang ở trong một thời điểm chuyển đổi quan trọng. Kết quả cuộc điều tra của Pew không cho chúng ta biết mình đang đi về đâu, nhưng nó cho thấy một sự dịch chuyển từ những gì hiện hữu đã xảy ra. Hơn bao giờ hết, con người có thể có được nhiều thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, do đó họ có thể thay đổi thông tin mà họ muốn, cũng như cách thức có được những thông tin đó. Các thế hệ khác nhau có thể đánh giá tầm quan trọng của tin tức (news) và thông tin (information) khác nhau. Trong những người tuổi từ 18 đến 29, ba phần tư cho Pew biết rằng họ thích “có nhiều nguồn thông tin khác nhau”, nhưng chỉ một phần ba ưa thích việc “cập nhật tin tức”. Với những người trên 65 tuổi, chỉ có phân nửa số người được hỏi cho biết họ thích những nguồn thông tin, trong khi hai phần ba quan tâm đến việc thường xuyên cập nhật tin tức.

Do đó, thói quen có thể thay đổi. Giả sử mọi người cập nhật tin tức từ máy tính nhiều hơn, họ có thể lướt qua những tiêu đề, bài báo hay điểm phim giữa những lúc đọc email trong khi làm việc hay chơi game tại nhà. Như thế phải chăng sẽ có ít độc giả dành cho báo giấy hơn? Rõ ràng điều này đã xảy ra. Từ 1970 đến 1997, tỷ lệ người lớn đọc một nhật báo giảm từ 78% xuống còn 59%. Hoặc giả sử người ta có thể lựa chọn những gì cần đọc trên báo qua các công cụ máy tính. Chẳng hạn bạn chọn trước những gì bạn muốn đọc - 6 bài hàng đầu về tin trong nước và quốc tế, 4 bài báo địa phương, hai bài chuyên mục ưa thích, 7 bài về chứng khoán, 1 bài về kết quả bóng chày, 1 bài về là số tử vi của bạn. Tất cả được đóng gói và gửi tới nhà bạn qua bản in trên giấy A4. Như vậy có còn là một tờ báo nữa không?

Chúng ta không biết những công nghệ mới sẽ mang lại những gì (và khi nào), vì chúng luôn phát triển từng ngày. Chúng ta cũng không biết con người mong muốn điều gì. “Lên mạng” chưa hẳn đã đảm bảo cho sự thành công. Tháng ba vừa qua một tạp chí on-line là Slate đã bắt đầu tính phí 19,95USD/năm (trước đây thì miễn phí!), lượng độc giả dự tính sẽ giảm từ 200.000 người xuống chỉ còn 30.000. Trong thời kỳ bùng nổ kinh tế hiện nay, cả cái mới và cái cũ đều có thể tồn tại. Tuy nhiên trong thời buổi khó khăn, cạnh tranh sẽ dữ dội hơn và thậm chí ngày nay sự thay đổi trong khán giả của các phương tiện thông tin đại chúng là không thể tránh khỏi.

Về tạp chí, sự tăng trưởng chủ yếu đến từ những loại tạp chí mới ra, nhắm vào lượng độc giả ít hơn, chứ không phải từ sự tăng thêm số lượng độc giả của các tạp chí cũ. Lượng phát hành của tạp chíNewsweek năm 1998 là 3,2 triệu, không hơn là mấy so với năm 1978 (3 triệu). Với các mạng TV, số khán giả đang rơi tự do. Đây chính là điểm giao nhau của kinh tế học và xã hội học. Quan niệm về một giới tinh hoa truyền thông, nếu đúng, đòi hỏi rằng khán giả chỉ có thể thu nhận tin tức và sự giải trí từ một số hạn chế những nguồn nhất định, lãnh đạo bởi một số biên tập viên, phóng viên, phóng viên chuyên mục, nhà sản xuất. Khi truyền thông phát triển, nhóm tinh hoa này trở nên bớt độc quyền. Số khán giả ít hơn khiến nhóm người này ít nổi bật hơn, ít quyền lực trên thị trường hơn (tức là thu nhập ít hơn).

Ở đây có một logic mà hiện nay có vẻ bị bỏ qua hay thậm chí xem thường. Hệ thống “ngôi sao” vẫn phát triển, nhất là trong ngành TV và cả trong ngành báo in. Hợp đồng mới nhất của Katie Couric[77] đem lại cho cô ta 7 triệu USD/năm, Variety cũng trả cho Jane Pauley trong hợp đồng mới nhất số tiền là 5,5 triệu USD/năm. Điều này cho thấy sự tuyệt vọng của các công ty truyền thông, họ sẵn sàng trả một số tiền đáng kể cho bất cứ ai hay bất cứ cái gì (như NFL[78] hay ER[79]) mà họ hy vọng có thể giúp giành lại số khán giả bị mất. Đó là cuộc đấu tranh chưa hẳn đã thành công[80]. Chẳng chóng thì chầy, logic nói trên sẽ thể hiện, và chúng ta - những người trong ngành truyền thông - sẽ thấy giá trị bản thân do chính chúng ta cảm nhận (self worth) và tài sản ròng (net worth) cùng bị giảm xuống.

Newsweek

Ngày 13 tháng 7 năm 1998

NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC CÓ QUYỀN KHÔNG?

Giới truyền thông rất nhạy cảm với quyền lợi của các “nhóm thiểu số”: chẳng hạn những người nghèo, người khuyết tật, nhóm da đen, nhóm người đồng tính, người nhập cư v.v...Nhưng có một nhóm thiểu số có quy mô lớn hơn nhiều (quy mô nhóm này ít ra là vào khoảng 25% dân số) mà chúng ta hoàn toàn xem thường, bỏ qua hay giảm thiểu các quyền lợi của họ, đó là nhóm “những người hút thuốc”. Những tranh luận về việc hút thuốc thường xoay quanh lập luận rằng những người hút thuốc là nạn nhân vô tình, không ý thức của ngành công nghiệp thuốc lá. Họ không có tự do ý chí, do đó những mong muốn, ý kiến hay quyền lợi của họ không quan trọng. Những người này đáng được thương hại, đáng được cứu vớt. Nhưng họ không đáng được tôn trọng.

Một lần nữa, điều này là biểu hiện của tính “bầy đàn[81]” trong báo chí, ở mức độ cao nhất. Những người thuộc giới truyền thông như chúng tôi hay tự mãn cho rằng mình là những người có tư duy độc lập và hoài nghi. Hoàn toàn ngược lại thì mới đúng: thực ra chúng tôi chỉ là những gã khờ trước những trào lưu xã hội hay những mốt tư duy thịnh hành mà thôi. Trong trường hợp này, giới truyền thông chính thống đã vô tình chọn lựa quan điểm của cộng đồng y tế nói chung, coi hút thuốc như là một tai họa cần phải loại trừ. “Câu chuyện” ở đây là cuộc vận động (chống hút thuốc), “kẻ ác” là ngành công nghiệp thuốc lá. Việc đưa tin mang tính chất có chọn lọc. Cái thiếu ở đây chính là những vấn đề lẽ ra phải được cung cấp thông tin cho cuộc tranh luận.

Câu hỏi đơn giản nhất là: trong khi cố gắng làm cho người Mỹ giàu có hơn, liệu cuộc vận động chống hút thuốc có làm cho đa số dân Mỹ nghèo hơn hay không. Rõ ràng những người hút thuốc phải chịu mức gia tăng lớn cả về giá và thuế. Cái giá của thỏa thuận 368,5 tỷ USD giữa ngành sản xuất thuốc lá và tổng chưởng lý các tiểu bang (state attorney general[82]) được ước là khoảng 62 xu trên một bao thuốc lá. Tổng thống Clinton đề nghị nâng mức thuế lên 1,5 USD / bao thuốc, tức là gấp 6 lần so với hiện nay (24 xu). Chi phí này sẽ đánh mạnh nhất vào những người nghèo: họ hút thuốc nhiều hơn người giàu, và cũng chi tiêu một tỷ lệ nhiều hơn trong thu nhập ít ỏi của họ vào thuốc lá.

Hãy thử xem xét! Theo tính toán của Uỷ ban chung (joint committee) về Thuế của Quốc hội, hơn một nửa (53%) thuế thuốc lá hiện nay do những người nộp thuế với thu nhập chưa tới 30.000USD. Chỉ có 1% thuế này là do những người giàu với thu nhập trên 100.000USD đóng mà thôi. Giá thuốc cao sẽ ngăn một số người khỏi hút thuốc. Nhưng với những người còn lại, liệu việc “hút” hàng tỷ đô-la từ những người nghèo có phải là một chính sách tốt, hoặc công bằng hay không?

Những người vận động chống hút thuốc cố tỏ ra công bằng qua việc nêu lên 3 lập luận: 1) càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên hút thuốc, mà bọn trẻ một khi đã thử thì dễ dàng bị nghiện thuốc cả đời; 2) quảng cáo thuốc lá khiến thanh thiếu niên hút thuốc nhiều hơn, và do đó chúng trở thành nạn nhân; và 3) hút thuốc bị động (hít khói thuốc lá của người khác dù bản thân mình không hề hút) ở những nơi công cộng rất nguy hại cho sức khỏe. Ba lập luận này biện minh cho việc vận động chống hút thuốc, chúng được các phương tiện truyền thông phổ biến lan tràn. Tuy nhiên, hai lập luận đầu tiên đúng hay sai thì còn phải bàn, còn lập luận thứ ba thì hoàn toàn sai sự thật.

Hãy bắt đầu với việc hút thuốc ở thanh thiếu niên. Một cuộc điều tra của Đại học Michigan cho thấy tỷ lệ này có tăng lên. Năm 1996, 34% học sinh lớp 12 báo cáo có hút thuốc trong tháng vừa qua, đây là tỷ lệ cao nhất từ năm 1979 (34,4%), cao hơn cuối những năm 1980 (29,2%). Nhưng cuộc điều tra của Chính phủ về lạm dụng ma túy lại cho kết quả trái ngược: năm 1996 chỉ có 18,3% thiếu niên tuổi từ 12 đến 17 đã hút thuốc trong tháng vừa qua, là mức thấp nhất kể từ khi người ta bắt đầu điều tra vào năm 1985 (29%). Khó biết được nên tin vào kết quả nào trong hai cuộc điều tra trên. Nhưng rõ ràng cả hai đều không cho thấy tỷ lệ thanh thiếu niên hút thuốc tăng cao đột ngột: ngay cả theo điều tra của Đại học Michigan thì tỷ lệ này vẫn còn thấp hơn so với cuối những năm 1970 (tỷ lệ khi đó là 37%).

Còn nói về quảng cáo thì thanh thiếu niên rõ ràng đã làm nhiều thứ nguy hại hơn (như ma túy hay quan hệ tình dục sớm), mà những thứ này vừa chẳng được ai quảng cáo, thường còn bất hợp pháp. Ngành thuốc lá, không nghi ngờ gì nữa, có nhắm đến giới trẻ, song tác dụng của quảng cáo chủ yếu là việc lựa chọn loại thuốc lá để hút, hơn là ảnh hưởng đến quyết định hút thuốc của họ! Một nghiên cứu mới và toàn diện hơn về sức khỏe thanh niên do Học viện y tế quốc gia tài trợ đã cho thấy có những yếu tố khác quan trọng hơn trong việc quyết định ai sẽ là người hút thuốc.

Theo nghiên cứu này thì “Càng lúc, môi trường gia đình càng trở nên quan trọng trong việc hình thành kết quả sức khỏe cho thanh thiếu niên Mỹ. Các trẻ em cảm thấy gắn bó với cha hay mẹ được bảo vệ trước nhiều nguy cơ về sức khỏe, bao gồm: trầm cảm, suy nghĩ và nỗ lực tự tử, thuốc lá, rượu và ma túy, hành xử bạo lực, quan hệ tình dục sớm”.

Và ngay cả những thanh thiếu niên hút thuốc cũng chưa chắc đã trở thành những người nghiện thuốc cả đời. Trong số các học sinh lớp 12, có 63% đã từng hút thuốc, tức là nhiều gấp đôi so với số em hiện tại vẫn còn đang hút. Ở người lớn, tỷ lệ bỏ thuốc còn cao hơn. Từ “nghiện ngập” không hay ho gì khiến nhiều người đã từ bỏ nó!

Cuối cùng, “hút thuốc bị động” không phải là một nguy cơ lớn cho sức khỏe cộng đồng, như nhiều câu chuyện đã ám chỉ một cách quá đơn giản. Ví dụ sai lầm gần đây nhất là một nghiên cứu của trường Y khoa Harvard. Nghiên cứu này dự định chỉ ra rằng việc hút thuốc bị động làm tăng gấp đôi nguy cơ đau tim, tức là một vấn đề lớn với sức khỏe cộng đồng. Tờ New York Times và tờ Washington Post đã đăng tin như vậy. Tuy nhiên, nghiên cứu này cùng lắm cũng chỉ cho thấy việc hút thuốc bị động chỉ làm tăng gấp đôi một nguy cơ nhỏ bé mà thôi.

Lý do như sau: nghiên cứu này theo dõi 32.046 y tá không hút thuốc trong khoảng thời gian từ 1982 đến 1992. Trong số này, 4/5 y tá cho biết họ hít phải khói thuốc của những người xung quanh họ. Nhưng chỉ có 152 cơn đau tim được thống kê (trong số đó 127 trường hợp là không nguy hiểm đến tính mạng): tỷ lệ này khá thấp. Nhiều cơn đau tim sẽ xảy ra ngay cả khi không ai tiếp xúc với khói thuốc. Theo trưởng nhóm nghiên cứu, ông Ichiro Kawachi, hút thuốc bị động gây ra 25-30% số cơn đau tim, tương đương 38-46 trường hợp. Nếu đúng như vậy (xin lưu ý là nghiên cứu nào cũng có thể có thiếu sót), thì tầm quan trọng của điều này cũng không cao lắm! Đa số trường hợp hút thuốc bị động hiện nay mang tính chất riêng tư hay tự nguyện, vì hút thuốc đã bị cấm tại nhiều nơi công cộng. Liệu chúng ta có cần phải đặt ra luật cấm các đức ông chồng hút thuốc trước mặt vợ của họ, hay ngược lại hay không?

Bạn ít khi nghe thấy những lập luận trên đây, đúng không? Đơn giản là vì báo giới nói chung chỉ lải nhải lặp đi lặp lại những luận điệu một chiều của những người vận động chống hút thuốc mà thôi. Thực ra thì họ cũng có lý: hút thuốc rất rủi ro cho bản thân người hút; nếu không ai hút thuốc thì đúng là nhiều người Mỹ sẽ sống lâu hơn. Nhưng nhiều thứ khác cũng đầy rủi ro, và một câu hỏi trọng tâm là liệu những người hút thuốc có quyền thực hiện một hành vi có niềm vui và nỗi đau hoàn toàn thuộc về riêng họ, mà không bị phần còn lại của xã hội trừng phạt hay không? Hoặc họ có bị lên án hay không?

Hầu như chẳng có ai bênh vực cho những người hút thuốc. Ngành công nghiệp thuốc lá bỏ rơi họ, ngành này chỉ cần một sự thỏa thuận. Đa số chính trị gia không bảo vệ những người hút thuốc vì e sợ bị coi là “tay chân” của một ngành công nghiệp có hại, là kẻ thù của sức khỏe cộng đồng. Và báo chí đã ủng hộ toàn bộ quá trình này với kiểu suy nghĩ bầy đàn của họ, qua việc làm cho phổ biến quan niệm tưởng tượng rằng cuộc tranh luận chủ yếu diễn ra giữa ngành thuốc lá và sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, thực tế mờ ám là nói gì thì nói, mục tiêu chính vẫn là những người hút thuốc. Họ có quyền hay không? Rõ ràng là không.

The Washington Post

Ngày 24 tháng 9 năm 1997

TẤT CẢ CHỈ BỞI MỘT ĐẠO LUẬT KHIẾM KHUYẾT

Như vẫn thường xảy ra, một câu chuyện nhiều khi không quan trọng bằng một câu chuyện khác đằng sau nó! Câu chuyện ở đây là việc tổng thống Clinton sắp phải ra điều trần trước Đại bồi thẩm đoàn sắp tới. Còn câu chuyện đằng sau nó là bằng cách nào mà một đạo luật đáng ngờ (ở đây là luật về quấy rối tình dục) đã dẫn dắt chúng ta đi theo những hướng không định trước và không mong muốn. Hầu hết dân Mỹ đều ước rằng chưa bao giờ họ nghe thấy cái tên Monica Lewinsky. Một điều tra của hãng tin CBS tuần rồi cho biết đa số người Mỹ (tỷ lệ 63% đồng ý so với 31% không đồng ý) nghĩ rằng đất nước sẽ tốt hơn nếu vụ điều tra Lewinsky không được bắt đầu. Lý do của việc này chính là luật về quấy rối tình dục.

Xì căng đan bắt đầu với vụ kiện của Paula Jones[83], một vụ kiện lẽ ra không nên có. Tôi không có ý nói rằng tôi thông cảm hay bỏ qua những gì ông Clinton bị cáo buộc đã làm (cái mà tôi cho là ông ta thực sự có làm!). Nếu ông ta gạ gẫm cô Jones, ông đã cư xử thô lỗ. Nếu ông ta có quan hệ yêu đương với cô Lewinsky, ông ta đã hành động bất cẩn. Và nếu ông ta nói dối về những điều trên, ông ta là một kẻ ngu ngốc. Các vấn đề của Clinton đa số bắt nguồn từ chính tính cách của ông ta. Tuy nhiên, xì căng đan này vẫn phơi bày những khiếm khuyết to lớn của luật quấy rối tình dục.

Nói rằng vụ kiện của cô Jones là việc lẽ ra không nên có không có nghĩa đó chỉ là một vụ kiện ngớ ngẩn, phí thời gian. Một vụ kiện ngớ ngẩn sẽ liên quan đến những hành vi không hề xảy ra, hay những hành vi hợp pháp. Nhưng luật về quấy rối tình dục vừa không rõ ràng vừa quá bao quát, đến mức bao gồm cả lời khiếu nại của cô Jones (rằng ông Clinton đòi hỏi quan hệ tình dục bằng miệng với cô ta!). Luật này đã khiến hầu như mọi hành vi hay lời nói về tình dục mà không được người khác mong muốn đều trở nên có tiềm năng phạm pháp, nếu như bằng cách nào đó chúng liên quan tới nơi làm việc.

Đúng là có những việc xấu xa đã xảy ra tại nơi làm việc. Một điều tra gần đây của tờ Washington Post cho biết 56% dân Mỹ nghĩ rằng phụ nữ “thường xuyên” bị quấy rối tại nơi làm việc. Nhưng không phải không có những việc tốt xảy ra. Dù nhiều cuộc tình công sở có cái kết buồn, nhưng đa số vẫn kết thúc có hậu bằng một cuộc hôn nhân, theo báo cáo của một cuộc điều tra dành cho 600 chuyên viên về nhân sự do Hiệp hội Quản trị nguồn nhân lực thực hiện. Tốt nhất là nên có một đạo luật ngăn chặn, hay trừng phạt, các hành vi lạm dụng tình dục nơi công sở, mà không ngăn chặn quyền tự do tìm hiểu và yêu đương giữa nam và nữ nhân viên! Luật hiện nay chưa với tới được tình trạng lý tưởng đó.

Vấn đề trọng tâm là không ai có thể nói rõ: như thế nào là quấy rối tình dục. Mọi người đều đồng ý rằng cấp trên không nên đòi hỏi cấp dưới về tình dục để đáp lại việc nhận vào làm, tăng lương hay thăng chức. Đó là loại quấy rối theo kiểu “bánh ít đi, bánh quy lại” hay “ông mất của kia, bà chìa của nọ”. Tuy nhiên, luật pháp lại đi quá giới hạn này và tạo điều kiện cho các cảm xúc như giận dữ, bối rối, không hài lòng trở thành cơ sở cho việc khiếu đòi về việc quấy rối trong “môi trường thù địch” (hostile environment harassment). Kết quả là người ta đã biến những hành vi lỗ mãng, các quan hệ đổ vỡ hay sự khiếm nhã... thành căn nguyên cho việc kiện cáo. Hợp pháp và phạm pháp hoàn toàn bị xáo trộn vào nhau.

Xáo trộn như thế nào? Quốc hội không hề đề cập đến quấy rối tình dục trong Mục VII, Bộ luật Quyền công dân năm 1964, bộ luật có điều khoản cấm sự phân biệt đối xử trong công việc. Tòa án tối cao hầu như đã phát minh ra khái niệm này, song không nói rõ đó là gì, chỉ định nghĩa quấy rối là một hành vi “nghiêm trọng và thường xuyên đến mức thay đổi điều kiện công việc (của nạn nhân), và tạo ra một môi trường công việc mang tính lạm dụng”. Khi được “áp dụng một cách phù hợp”, tiêu chuẩn này sẽ “lọc ra những khiếu nại về những phiền phức thông thường nơi công sở, chẳng hạn như việc đôi khi sử dụng ngôn ngữ mang tính lạm dụng, các chuyện tiếu lâm về tình dục/giới tính, hay những trêu chọc, đùa cợt thi thoảng xảy ra”.

Nghe có hiểu không bạn? Nào, ta hãy áp dụng vào hành vi bị cáo buộc của ông Clinton với cô Jones xem sao. Dù hành vi này không “thường xuyên” (chỉ có một lần thôi!), nhưng lại có vẻ “nghiêm trọng”. Rõ ràng khi sếp bạn tụt quần ra và đòi hỏi bạn quan hệ tình dục bằng miệng, điều này vượt quá những “phiền phức thông thường nơi công sở”. Tuy nhiên thẩm phán liên bang Susan Webber Wright[84] đã bác bỏ đơn kiện của Jones với lý do rằng hành vi bị cáo buộc, nếu có xảy ra, “không cấu thành một hành vi đủ nghiêm trọng để có thể khiếu kiện về môi trường làm việc mang tính thù địch”. Bạn hiểu gì không? Còn cô Jones thì đã nộp đơn kháng án.

Tôi khó mà đồng ý với quyết định của bà thẩm phán, nhưng cũng nghi ngờ liệu bà ta có cố tình hiểu sai luật hay không. Nếu ông Clinton chỉ phụ trách một nhà máy điện tại địa phương chẳng hạn, liệu thẩm phán có để cho ông ta thoát tội hay không? Tôi nghi ngờ điều đó! Tuy nhiên vấn đề chính ở đây (mà không ai nói ra) là: tiêu chuẩn (trong luật quấy rối tình dục) quá mơ hồ, không rõ ràng. Tôi cho vụ kiện của Jones lẽ ra không nên có, vì luật nên chặt chẽ hơn. Hành vi quấy rối tình dục nên liên quan tới những hậu quả về mặt công việc, chẳng hạn như sự đe dọa hay thực sự sa thải, hay cắt giảm lương. (Còn ở đây, cô Jones chẳng chịu thiệt hại gì cả, dù cô ta tuyên bố điều ngược lại). Tuy nhiên, luật hiện nay không được như vậy, do đó, nó gây hại nhiều hơn là làm lợi.

Eugene Volokh (trường Luật UCLA) trình bày nhiều chứng cứ cho thấy quyền tự do ngôn luận đang bị hạn chế nhân danh việc ngăn chặn quấy rối tình dục. Một nghiên cứu sinh sau đại học buộc phải gỡ bỏ tấm hình vợ anh ta trong bộ đồ bikini, vì điều này xúc phạm một người khác. Trường hợp khác: Jerold Mackenzie, nhà quản lý tại công ty bia Miller, sáng nọ đã chuyện trò với một nữ đồng nghiệp về một tập phim khá sỗ sàng trong serie phim truyền hình Seinfeld[85]. Sau khi cô này phàn nàn (về hành vi quấy rối tình dục), anh ta đã bị sa thải, bất chấp việc trước đó anh ta không có “tiền án tiền sự” gì! Mackenzie thất nghiệp trong hai năm sau đó, trước khi đi kiện lại công ty và thắng kiện, được bồi thường 24,7 triệu đô-la.

Do tính chất mập mờ, không rõ ràng, luật về quấy rối tình dục đã trở thành một kênh để người ta xả hết mọi bực bội, bất bình thuộc về cá nhân hay nơi làm việc. Trong đời thực, những cãi vã kiểu này cũng lộn xộn và rắc rối như chính bản chất của con người vậy. Điều tra của Washington Post trình bày ở phần trên cũng đặt ra câu hỏi cho các phụ nữ về mức độ thường xuyên của việc “một phụ nữ kiện cáo hay khiếu nại một cách sai lầm về một người đàn ông” (liên quan đến hành vi quấy rối - ND). Thậm chí chỉ trong số những người trả lời, cũng đã có 34% cho rằng điều đó “thường xuyên xảy ra”, và 44% trả lời là “đôi khi xảy ra”. Trong số các khiếu nại gửi đến Ủy ban Cơ hội Công bằng trong công việc (Equal Employment Opportunity Commission), 40% được phán quyết là “không có nguyên nhân hợp lý”, và 40% không có hiệu lực, thường là do bên nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ hỗ trợ gì cả.

Các đạo luật tốt cần phải rõ ràng, nếu không con người không thể tuân thủ, và có thể diễn giải những hành vi mà họ không thích là những hành vi phạm pháp. Theo tiêu

chuẩn của lẽ thường, thì luật về quấy rối tình dục quả là một đạo luật quá tệ. Tệ hơn, các tòa án dường như đã ủy quyền cho các công ty thực thi luật này, vì nếu không, họ sẽ phải đối mặt với các vụ kiện. Để tránh kiện cáo, xu hướng chung sẽ là định nghĩa các hành vi quấy rối một cách thật rộng rãi, mở rộng. Và khi đó, trong trường hợp tốt nhất thì các công ty cũng ngày càng xâm phạm quyền tự do ngôn luận và hành vi riêng tư của nhân viên; còn trong trường hợp xấu nhất thì họ sẽ trở thành những đội dân phòng tự quản ngay tại nơi làm việc.

Liệu chúng ta có muốn đi theo con đường này hay không? Xì căng đan của ông Clinton cho thấy một khi những buộc tội về quấy rối tình dục đã được lập ra, chúng sẽ tạo đà cho những cáo buộc khác tương tự. Quốc hội cần cứu Toà án tối cao khỏi sự lúng túng trong việc xét xử những vụ này qua việc luật hoá những giới hạn liên quan. Điều này xem ra khó có thể xảy ra. Những người ghét Tổng thống Clinton có thể nghi ngờ rằng luật về quấy rối tình dục hiện đang quá lỏng lẻo nhưng vẫn thích có cơ hội tấn công ngài Tổng thống, trong khi những người ủng hộ ông ta cho rằng vụ kiện của cô Jones được sử dụng vì mục đích chính trị, nhưng về mặt tư tưởng họ lại luôn trung thành với khái niệm mở rộng về hành vi quấy rối tình dục. Kết quả là chúng ta có một sự thông đồng cùng nhau im lặng - ủng hộ một đạo luật quá ư tồi tệ.

The Washington Post

Ngày 12 tháng 8 năm 1998

SINH VIÊN KÉM, NỀN KINH TẾ TỐT

Tại văn phòng Washington của tạp chí Newsweek nơi tôi làm việc, chuyên gia về máy tính là một người chưa hề sử dụng máy tính khi anh ta tốt nghiệp ngành văn chương Anh tại Cao đẳng William & Mary năm 1983. Anh này có được kỹ năng sử dụng máy tính một cách dần dần, đầu tiên là qua công việc biên tập ở một nơi khác, sau đó tiếp tục phát huy tại Newsweek. Tôi kể câu chuyện này để một lần nữa nêu lên câu hỏi đã từng được đặt ra sau các kết quả nghèo nàn của sinh viên Mỹ trong các kỳ kiểm tra toán và khoa học quốc tế: nếu sinh viên nước ta học tệ như vậy, tại sao nền kinh tế Mỹ lại vẫn tốt? Trong các lớp cuối cấp trung học, học sinh Mỹ đứng thứ 19/21 về kỹ năng toán, thứ 16/21 về khoa học. Ngay cả trong số các học sinh khá nhất (10-20% học sinh xếp hạng cao nhất trong lớp), học sinh Mỹ cũng có kết quả kém hơn. Tuy các học sinh Mỹ tham gia kỳ kiểm tra có nhỏ tuổi hơn học sinh nước ngoài đôi chút, nhưng các điểm số mà họ đạt được đều thấp hơn đến mức không thể bỏ qua và coi đây chỉ là hiện tượng may rủi mà thôi.

Giải thích chính cho nghịch lý này là việc người ta không chỉ học ở trường. Nếu vậy thì chúng ta đã gặp rắc rối to rồi. Khi để riêng rẽ, các kết quả kiểm tra hay thi cử chẳng nói lên điều gì cả. Điều quan trọng - ít nhất là với nền kinh tế - là những gì mà người ta làm tại nơi làm việc. Họ có thể sử dụng hết các kỹ năng hay không? Có phát triển các kỹ năng mới không? Có gắn kết với công việc không? Ở đây, nền kinh tế Mỹ làm tốt hơn mọi nơi khác. Trở lại trường hợp của người đồng nghiệp tại Newsweek của tôi, chúng ta sẽ thấy: anh ta phát triển các kỹ năng mới thông qua việc thay đổi chỗ làm việc. Mỗi khi đổi việc anh ta sẽ tìm ra những thứ mình có thể làm tốt và yêu thích. Với những người trẻ, việc thay đổi chỗ làm thường xuyên có vẻ như không có mục đích và gây phí phạm thời gian, công sức. Nhưng trong thực tế, người ta luôn phải tìm kiếm những gì phù hợp với sở thích và năng lực của họ. Điều này tốt hơn nhiều so với việc chết chìm tại một nơi làm việc không phù hợp trong nhiều năm liền.

Trong công việc, con người học tập từ cấp trên, người hướng dẫn, đồng nghiệp, khách hàng, và quan trọng nhất là từ kinh nghiệm. Một nghiên cứu của Phòng lao động (Labour department) dự tính có tới 70% việc đào tạo tại nơi làm việc mang tính chất không chính thức (informal). Về mặt văn hóa, đây chính là điểm mạnh của Mỹ. Tocqueville[86] từng nhận xét rằng “Người Mỹ thiên về khoa học ứng dụng hơn là khoa học lý thuyết”. Kiến thức thường chỉ là “nàng hầu” của tham vọng, chứ không hề là một niềm vui trừu tượng. Ai cũng biết một số người (có thể nói là rất nhiều người là đằng khác) khi đi học thì kém nhưng khi làm việc lại rất xuất sắc.

Nhà kinh tế Laurie Bassi thuộc Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Hoa Kỳ (American Society for Training & Development) cũng cho rằng so với các công ty châu Âu thì các công ty Mỹ linh hoạt hơn và thu được nhiều kết quả hơn từ nhân viên của họ. Các doanh nghiệp của chúng ta có nhiều tự do hơn trong việc xác lập mức lương, tuyển dụng và sa thải, thay đổi các thực hành trong công việc. Các kết quả thường bị lên án là bất công, chẳng hạn đối với việc chúng ta chấp nhận sự cách biệt lớn về mức lương (giữa lao động thu nhập cao và lao động thu nhập thấp), hơn nhiều so với các công ty tại châu Âu. Tất nhiên là cũng có những sự quá đáng, nhưng nhìn chung thì hệ thống này đang thành công. Lương cao là phần thưởng cho những người lao động có năng suất tốt nhất, đồng thời khuyến khích người ta tham gia vào những lĩnh vực thiếu lao động. Lương thấp tạo điều kiện việc làm cho những người có kỹ năng kém hơn, đồng thời thúc đẩy họ phải cải thiện các kỹ năng của mình.

Bởi làm việc là học tập, khả năng tạo ra việc làm chính là khả năng gây ra việc học hỏi. Ở đây, nền kinh tế Mỹ vẫn vượt trội. Các sinh viên Pháp đạt điểm cao hơn sinh viên Mỹ rất nhiều trong các kỳ kiểm tra quốc tế về toán và khoa học. Nhưng ở Pháp, việc quản lý và điều tiết quá nhiều cùng với thuế má cao khiến cho việc tạo công ăn việc làm gặp nhiều lúng túng. Trong số các thanh niên từ 15 đến 24 tuổi, chỉ một phần năm là có việc làm, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ là 60%. Khi không làm việc, các kỹ năng cũ bị xói mòn, trong khi những kỹ năng mới không được phát triển. Trong hai quốc gia trên, quốc gia nào làm tốt hơn với giới trẻ của họ?

Cuối cùng, nền kinh tế coi thường kết quả các kỳ thi (trong nhà trường - ND) vì hai lý do khác nữa. Một là, chúng ta đánh giá quá cao nhu cầu về các kỹ năng cao cấp trong toán và khoa học: đây chính là sự phản ánh nỗi ám ảnh về công nghệ cao của chúng ta. Các nhà kinh tế từ cơ quan Dịch vụ Kiểm tra Giáo dục (Educational Testing Service) gồm Anthony Carnevale và Stephen Rose vừa thực hiện một nghiên cứu nhằm định nghĩa các công việc “tinh hoa” (elite jobs). Nói chung thì đây là nhóm 28% những công việc được trả lương cao nhất. Trong số đó, nhiều nhất là những nhà quản lý tổng hợp: giám đốc nhân sự, nhà quản lý mua hàng, quản lý bán hàng. Họ cần các kỹ năng về toán, nhưng không phải là những kỹ năng cỡ như tích phân! Năm 1996, nước Mỹ có 1,5 triệu nhà khoa học, kỹ sư, lập trình viên trong ngành máy tính; 1,4 triệu kỹ sư trong các ngành khác; 1 triệu kế toán viên; 800.000 nhân viên tài chính; và 400.000 nhà khoa học trong các ngành khác như hóa học, vật lý v.v... Những nghề nghiệp này, cùng một số ít nghề khác nữa là nhóm dân số cần có các kỹ năng cao cấp về toán và khoa học. Trong toàn bộ lực lượng lao động khoảng 132 triệu người, họ chỉ chiếm vỏn vẹn 4%.

Hai là, điểm số thấp về toán và khoa học không có nghĩa là tất cả những kỹ năng tại nơi làm việc ở Mỹ đều kém cỏi. Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development) có thực hiện điều tra về tình trạng biết chữ với người lớn ở 12 quốc gia phát triển. Trong cuộc điều tra này, người Mỹ xếp vào hạng giữa của nhóm. Chúng ta có nhiều hơn những người đọc giỏi nhất, cũng như nhiều người đọc tệ nhất, so với bất cứ quốc gia nào trong nhóm. Sự khác biệt trong kết quả của hai cuộc điều tra - một về toán và khoa học trong trường trung học, một về tình trạng biết chữ nói chung - đã phản ánh phần nào về những gì người ta học trong khi làm việc. Nó cũng phản ánh tỷ lệ học đại học cao hơn ở Mỹ. Năm 1995, tỷ lệ theo học đại học trong số những người trong độ tuổi từ 15 đến 39 ở Mỹ là 52%, trong khi ở Pháp là 33% và Đức là 27%. Hệ thống của chúng ta cung cấp nhiều cơ hội hơn cho mọi người.

Tất cả những điều trên có vẻ rất thuyết phục. Thực sự mà nói, điều này đã khiến một số nhà quan sát kết luận rằng các kỳ kiểm tra quốc tế về toán và khoa học là không cần thiết. Trên tờ New York Times, Howard Gardner từ trường Sư phạm Harvard nêu ý kiến bác bỏ các kỳ thi này vì chúng chỉ đo lường “những chỉ số ít phổ biến nhất của dữ kiện và kỹ năng”, và không đo lường được liệu “học sinh có thể suy nghĩ một cách khoa học hay toán học” được không. Lời kết tội này là vội vàng và sai lệch. Đa số mọi người không thể suy nghĩ một cách hợp lý, chứ chưa nói đến suy nghĩ một cách có khoa học, nếu họ không hoàn thiện các “dữ kiện và kỹ năng” căn bản. Nếu chính ông Gardner không học cách viết, hẳn New York Times đã không đăng bài viết của ông ta.

Nhà trường là một nền móng của nền kinh tế. Nếu học sinh ra trường với những kỹ năng tồi, sẽ có một số hậu quả. Trước hết là sự lãng phí. Việc tạo cho họ những cơ hội sau đó để học (ở đại học hay tại nơi làm việc) là tốn kém. Một số người học những kỹ năng sau này, những thứ mà lẽ ra họ cần học từ trước. Và một số kỹ năng có thể không bao giờ được học. Một kết quả là chúng ta sẽ thấy sự khan hiếm những người lao động có kỹ năng cao, một kết quả khác là nhiều người có kỹ năng thấp rơi vào cảnh nghèo, hay thường xuyên thất nghiệp. Một số kỹ năng bị thiếu có thể không cần thiết trong công việc nhưng vẫn cần trong cuộc sống. Chúng khiến chúng ta trở thành những công dân tốt hơn, những phụ huynh tốt hơn; chúng làm chúng ta hiểu biết sâu hơn về thế giới.

Việc nền kinh tế vượt qua những thất bại này[87] không có nghĩa là những thất bại đó là không thật. Các kết quả thi kém có thể không phải là một thảm họa, nhưng chúng cũng không thể là lý do để chúng ta vỗ tay hoan hô hay thờ ơ!

The Washington Post

Ngày 12 tháng 3 năm 1998

QUY LỖI NHƯ VẬY LÀ ĐỦ RỒI!

Người Mỹ thích cho rằng mọi vấn đề đều có thể giải quyết, mọi thảm họa đều có thể ngăn ngừa. Tuy nhiên vụ giết người hàng loạt ở trường trung học Columbine[88] đã cho chúng ta thấy điều ngược lại. Thế mà ngay khi đó chúng ta vẫn tiếp tục đánh giá lỗi lầm và đi tìm giải pháp, bởi bất kỳ cách làm nào khác cũng có vẻ không giống kiểu Mỹ, đồng thời thảm họa này (cũng như nhiều thảm họa khác) mau chóng trở thành một phương tiện chính trị cho những kế hoạch và tham vọng nào đó. Tuy nhiên cuộc tìm kiếm cái để quy lỗi, hay con dê tế thần, trong trường hợp này dường như đã thất bại.

Những kẻ tình nghi thông thường mau chóng lộ diện. Đương nhiên súng đứng đầu danh sách[89]. Tôi không sở hữu mà cũng chẳng thích gì súng ống, đồng thời tin rằng trong một thế giới hoàn hảo thì súng đạn phải bị cấm. Nhưng chúng ta hãy thực tế một chút. Chính phủ liên bang tính rằng hiện có khoảng 230 triệu khẩu súng đủ loại tại Mỹ, cả súng máy, súng lục, súng trường v.v... Gần 40% hộ gia đình có sở hữu súng trong nhà. Ai có thể nói tất cả những người này là những người không hòa hợp với xã hội, và do đó, luật pháp cần phải cấm sở hữu kể cả các loại súng ngắn? Mà nếu giả sử điều này xảy ra đi nữa, thì liệu nguồn cung cấp súng hiện tại có biến mất ngay lập tức không? Có lẽ là không, và khi đó thị trường chợ đen với loại hàng này sẽ nở rộ.

Bất kỳ ai đó có quyết tâm và đủ thông minh thì sẽ kiếm được súng, hay một thứ gì đó tương tự. Timothy McVeigh[90] đã dùng phân bón để chế ra trái bom của hắn, giết chết 168 người ở thành phố Oklahoma. Một nghịch lý trong vụ thảm sát ở trường Columbine là nó đã xảy ra trong khi việc sở hữu súng đang trở nên khó khăn hơn, doanh số bán súng đang đi xuống. Đạo luật Brady được thông qua năm 1993 đã yêu cầu các cơ quan luật pháp có trách nhiệm kiểm tra lai lịch, hồ sơ của người mua súng. Trong những năm 1993-1997, theo số liệu của Chính phủ, số lượng súng được mua hàng năm đã giảm từ 7,8 triệu xuống còn 4,3 triệu.

Các bậc phụ huynh cũng bị đem ra quy lỗi. Người ta nói thẳng hay ám chỉ rằng những bậc phụ huynh này (của các thủ phạm trong vụ thảm sát ở trường Columbine - ND) chắc hẳn đã nuôi dạy con cái rất tệ. Hoặc giả họ đã không chú ý đầy đủ đến những dấu hiệu nguy hiểm nơi con cái mình. Theo cảnh sát trưởng hạt Jefferson, trong phòng của một trong hai hung thủ, người ta tìm thấy một khẩu súng săn cưa nòng, và cha mẹ của học sinh này lẽ ra đã phải nghi ngờ con mình từ trước! Có lẽ. Nhưng các bậc cha mẹ trung thực sẽ thừa nhận là có nghi ngờ, vấn đề là có những hạn chế trong việc kiểm soát con cái mà thôi.

Năm ngoái, nhà tâm lý học Judith Rich Harris xuất bản cuốn sách mang tên Giả định về sự nuôi dưỡng (The nurture assumption), trong đó tác giả thách thức niềm tin phổ biến của người Mỹ rằng cha mẹ có thể ảnh hưởng hay định hình tính cách con cái theo ý họ. Dù tác giả đi quá xa khi phủ nhận hầu hết mọi ảnh hưởng của cha mẹ trong quá trình giáo dục, luận điểm chính của bà là chính xác. Chính di truyền - cái khác biệt bẩm sinh giữa chúng ta - và ảnh hưởng của những người cùng trang lứa mới đóng vai trò quan trọng. Mọi đứa trẻ đều khác nhau, và chúng luôn che giấu cuộc sống của chúng với cha mẹ.

Xu hướng này là không thể tránh khỏi, và đa phần là vô hại. Tuy nhiên một số trường hợp sẽ dẫn đến thảm kịch. Ngay cả các bậc cha mẹ “tốt” cũng chỉ là những con người bình thường. Họ phủ nhận (những dấu hiệu bất thường ở con cái - ND) và hy vọng. Có lẽ cha mẹ của Eric Harris và Dylan Klebold phải nhận ra từ trước rằng những hành vi lạ lùng của con mình sẽ báo hiệu chúng là những kẻ giết người hàng loạt. Nhưng cha mẹ thường hay bỏ qua, hay không thể thay đổi, những dấu hiệu về các vấn đề rắc rối của con cái họ. Năm 1995, có tới 2.227 trường hợp tự tử có đội tuổi dưới 20 (chiếm khoảng phân nửa tổng số ca tự tử!).

Nước Mỹ từ lâu đã từng chịu thiệt hại từ những hành động bạo lực có quy mô lớn. Năm 1927, Andrew Kehoe, tức giận với một loại thuế học đường, đã kích hoạt mấy trái bom, trong đó có một trái ngay trong một trường học, giết chết 38 trẻ em, 5 người lớn và chính hắn ta. Năm 1949, một cựu binh Thế chiến II tên Howard Unruh xả súng bắn chết 13 người. Năm 1966, Charles Whitman leo lên một ngọn tháp tại Đại học Texas với một cây súng trường, xả súng bắn chết 16 người. Cái khác trong vụ thảm sát tại trường Columbine lần này chỉ là việc các sát thủ nay là học sinh mà thôi.

Rồi một dịp khác, Đệ nhất phu nhân của nước Mỹ lên TV và phê phán nền văn hóa truyền thông đã “tôn vinh bạo lực trên TV, internet, trên phim ảnh và âm nhạc” và những trò chơi điện tử trong đó chiến thắng được quyết định bởi “số người mà bạn bắn hạ”. Theo bà, hậu quả là việc con em chúng ta trở nên vô cảm với bạo lực.

Có một phần sự thật trong lập luận trên, song nó đã bỏ qua những sự thật lớn hơn, khó chịu hơn nhiều. Các trường trung học trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết, chính là vì người ta đã làm chúng trở nên như vậy. Người ta muốn mọi học sinh đều tốt nghiệp trung học. Hồi năm 1950, chỉ có phân nửa số người trưởng thành tốt nghiệp trung học. Ngay đến năm 1960, tỷ lệ bỏ học giữa chừng vẫn là 27%. Ngày nay tỷ lệ đó chỉ còn 11%. Các học sinh lý ra đã bỏ học vì chán hay vì học yếu thì nay tiếp tục ở lại trường. Trường học nay trở nên to lớn hơn, vô cảm hơn. Năm 1950, gần 25.000 trường trung học công có 5,7 triệu học sinh. Năm 1994, chỉ còn chưa tới 24.000 trường, nhưng số học sinh lại lên đến 12,5 triệu. Trường Columbine nói trên có tới 1.800 em.

Rõ ràng là đã có sự mất kiểm soát, và không chỉ về mặt quy mô mà thôi. Trong tác phẩm xuất sắc Thế giới mà chúng ta tạo ra tại trường trung học Hamilton, nhà xã hội học Gerald Grant từ Đại học Syracuse đã mô tả những thay đổi diễn ra tại một trường trung học. Vào thập niên 1950, trường Hamilton chỉ dành cho người da trắng thuộc tầng lớp trung lưu. Trường có quy định ngặt nghèo về đồng phục, quyền lực của hiệu trưởng là tuyệt đối, và các vấn đề về kỷ luật hầu như không xảy ra. Đến những năm 1970, trường này không còn đồng nhất về mặt chủng tộc và giai cấp như trước. Các môn học lựa chọn đã pha loãng chương trình căn bản ban đầu. Các “quyền” của học sinh nở rộ. Không còn những quy định nghiêm ngặt về đồng phục nữa.

Các giáo viên trở nên phòng thủ. “Nhiều người trong số họ rút lui khỏi những thách thức, né tránh việc quy lỗi (cho học sinh - ND) vì lo ngại sẽ thất thế trong cuộc chiến pháp lý, nhiều khi còn bị kiện ngược lại” - tác giả Grant viết. Vì thế di sản trước kia của ngôi trường đành âm thầm chịu trận.

Ngay cả khi có thể quay lại với thập niên 1950 (điều không hề xảy ra), đây cũng không phải là một khả năng đáng mong ước. Khi đó viên hiệu trưởng của trường

Hamilton như một nhà độc tài, việc giáo dục mang tính riêng biệt, tính tuân thủ được phổ biến cao. Tuy nhiên, sự thay đổi phản ánh một cuộc biến động rộng lớn hơn. Ranh giới giữa trẻ em với người lớn ngày nay bị xói mòn không chỉ ở trên các phương tiện truyền thông mà thôi. Thanh thiếu niên ngày nay kỳ vọng có được sự tự do như người lớn nhiều hơn, trong khi chúng vẫn không phải chịu bất kỳ gánh nặng nào của người lớn. Chúng có xe hơi, công việc và thu nhập. Xã hội nhìn chung chấp nhận điều này, từ đó dành cho thanh thiếu niên nhiều “không gian” hơn, qua việc tôn trọng tính cá nhân của chúng.

Trường học trở nên cởi mở hơn, ít được bảo vệ hơn. Chúng trở nên đa dạng hơn trước về chủng tộc và thành phần kinh tế của học sinh. Nền văn hóa của chúng ta đề cao tính đa dạng và khuyến khích mọi người tự hào về sự khác biệt của họ. Nhưng với thanh thiếu niên, những người đang tự khám phá bản thân mình, điều này có thể gây thêm sự căng thẳng và chiụ đựng. Người ta có thể cường điệu sự khác biệt, hay cảm thấy điều đó một cách sâu sắc hơn.

Chúng ta tìm kiếm ý nghĩa. Tuy nhiên lời giải thích cho vụ thảm sát ở trường Columbine, nếu có, nằm ở nơi giao nhau giữa mặt đen tối của bản chất con người và sự thay đổi của nền văn hóa. Khi ranh giới giữa người lớn và thanh thiếu niên bị xóa nhòa, các vấn đề và thảm họa cũng đan xen nhau. Đây là một tình trạng mà tuy có thể can thiệp nhưng không thể kết thúc được.

The Washington Post

Ngày 3 tháng 5 năm 1999

BÁO CHÍ LÁ CẢI

Tuần rồi, tờ Philadelphia Inquirer khởi đăng bài đầu tiên trong loạt bài 10 kỳ mang tựa đề “Nước Mỹ: ai đã lấy cắp giấc mơ?”, chắc chắn sẽ được độc giả quan tâm. Luận điểm của các tác giả rất đơn giản: chính phủ lớn (big government) và các doanh nghiệp lớn (big business) đang làm suy giảm mức sống và tình trạng công ăn việc làm của đa số người Mỹ. Các tác giả Donald Barlett và James Steele trong loạt bài này đã mô tả cuộc sống ở Mỹ như một địa ngục cho tất cả mọi người, trừ những người siêu giàu. Đây chính là báo chí lá cải, và câu hỏi đặt ra là tại sao một tờ báo có uy tín như vậy lại chấp nhận đăng thứ rác rưởi đó.

Tôi gọi loạt bài báo đó là lá cải vì nó không đạt được tiêu chuẩn cơ bản nhất về tính trung thực và năng lực của báo chí: nó không nỗ lực hướng tới sự thật, bất chấp sự thật lý tưởng đó khó đạt như thế nào đi nữa. Bài báo cũng không tìm kiếm thể hiện một bức tranh cân bằng với cả những điểm mạnh và những tồn tại của nền kinh tế, hay đưa ra một chân dung xác thực về mức sống của người dân. Thay vào đó, các tác giả trưng ra hàng loạt những câu chuyện của những người đang chịu thiệt hại, gặp khó khăn v.v..., cứ như những vấn đề của họ đang đại diện cho tất cả chúng ta vậy.

Hoàn toàn không. Các số liệu về việc mức sống đang đi xuống bị phủ nhận bởi những gì người Mỹ đang mua hay đang sở hữu. Tỷ lệ sở hữu nhà hiện là 65% số hộ gia đình, gần đạt mức kỷ lục. Năm 1980, 11% hộ gia đình sở hữu lò microwave, 87% hộ gia đình có máy rửa chén bát, và 56% có máy hút bụi. Năm 1993, những tỷ lệ này lần lượt là 78%, 50% và 68%. Người ta mua sắm nhiều hơn vì thu nhập cao hơn (các con số thống kê đánh giá thu nhập ít đi do ảnh hưởng bị thổi phồng của lạm phát lên tiền lương thực tế). Còn về những lo lắng của người dân thì đúng là có tồn tại - và sẽ còn tồn tại. Tuy nhiên nước Mỹ không ở trong tâm trạng suy thoái: cuộc điều tra của viện Gallup cho biết có tới 66% người Mỹ hy vọng tình hình tài chính của họ khá hơn trong năm tới.

Tuy nhiên, tờ Inquirer không phải là tờ báo duy nhất đưa lên bức tranh sai lệch về nền kinh tế. Đầu năm nay, tờ New York Times đã đăng loạt bài (mà tôi đã có dịp phê phán) về việc các công ty đang cắt giảm quy mô hoạt động. Một ví dụ khác là báo cáo của CBS với tiêu đề “Ai đang giàu lên? Tại sao không phải là bạn?”. Lý giải cho loại tác phẩm báo chí kém cỏi này có thể rơi vào một trong ba điều sau đây: a) tính giật gân (để bán báo chạy hơn), b)tính lý tưởng - các nhà báo coi khinh động cơ lợi nhuận, và c)sự ngu ngốc - họ chẳng biết gì hơn. Tính giật gân và tinh thần chống kinh doanh (coi khinh lợi nhuận) không phải là gì mới mẻ, song vấn đề lớn hơn, theo tôi, là sự ngu ngốc và những thứ tương tự.

Báo chí đối mặt một cách vụng về trước tính chất phức tạp của các câu chuyện kinh tế. Chúng ta luôn cảm thấy thoải mái với các đề tài khác như xì căng đan, xử án, chính trị, thể thao hay chiến tranh: chúng đều có sự mâu thuẫn rõ ràng, những kết cục cụ thể, đồng thời người ta dễ đưa ra các nhận xét về mặt đạo đức hay luân lý. Kinh tế không đơn giản như vậy. Câu chuyện làm giàu là câu chuyện không có hồi kết và vô cùng phức tạp. Chi phí và lợi ích đan xen nhau. Điều tốt hôm nay có thể trở thành điều xấu vào hôm sau. Điều có hại với người này có thể có lợi với một số người khác. Lạm phát thấp là tốt, song để chấm dứt hẳn tệ lạm phát cao, sẽ đòi hỏi phải làm một điều xấu: một thời kỳ suy thoái đầy khắc nghiệt.

Khả năng phân biệt những điều trên của các nhà báo đã tiến bộ rất nhiều từ năm 1969, hồi tôi mới bắt đầu viết báo về đề tài kinh tế. Các bài báo viết về kinh tế hàng ngày đã cải thiện nhiều về chất lượng. Nhưng vẫn còn ngoại lệ, đó là các biên tập viên chính (top editor) trên toàn quốc. Trừ những tờ báo chuyên ngành như Wall Street Journal, nhìn chung những người phụ trách các tòa báo, tạp chí và kênh truyền hình ở Mỹ không mấy hiểu biết về kinh tế, mà cũng không bận tâm tới sự thiếu hiểu biết đó của họ.

Giả định ở đây là các bài báo kinh tế được các phóng viên chuyên trách kinh tế viết, cho những độc giả chuyên ngành. Khi giả định này là đúng, thì việc biên tập viên thiếu hiểu biết về kinh tế cũng không quan trọng. Sẽ chẳng có gì tai hại diễn ra nếu họ không biết và cũng không làm gì cả. Nhưng với các dự án lớn, chẳng hạn loạt phóng sự, bài báo trên trang nhất, phim tài liệu trên truyền hình, giả định trên sẽ sụp đổ. Việc kiểm soát biên tập sẽ được đưa lên các cấp cao hơn, khi đó sẽ có sự đấu tranh về những “công thức đưa tin” quen thuộc. Các biên tập viên muốn có những anh hùng và những kẻ ác, những nạn nhân và thủ phạm. Các phóng viên nào hứa hẹn đưa ra những câu chuyện đơn giản, rõ ràng về luân lý sẽ có nhiều khả năng được chọn đăng bài. Kết quả thông thường sẽ là báo chí với chất lượng thấp, báo chí lá cải!

Trở lại với loạt bài đã đề cập của tờ Inquirer. Họ buộc tội chính sách “kinh tế toàn cầu” và “tự do thương mại” khiến lương bổng giảm đi, công ăn việc làm bị cắt xén. Điều họ không nói là: hầu như chẳng có liên hệ gì giữa cán cân thương mại và công ăn việc làm cả. Barlett và Steele phàn nàn rằng lần gần đây nhất Mỹ có thặng dư thương mại là từ năm 1975, nhưng họ “quên” không cho độc giả biết là cũng vào năm đó tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ là 8,5%. Họ cho biết nhiều nước khác có thặng dư cán cân thương mại: trong thời gian 1980-1995, Đức thặng dư liên tục 16 năm, Hà Lan 14 năm và Thụy Điển 13 năm. Tuy nhiên họ không cho độc giả biết tỷ lệ thất nghiệp ở 3 quốc gia trên lần lượt là 9%, 6% và 9%. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ chỉ là 5,1%.

Thương mại không ảnh hưởng đến thất nghiệp, bởi thương mại chủ yếu chỉ ảnh hưởng đến một phần nhỏ trong cơ cấu việc làm, đó là ngành chế tạo (manufacturing). Năm 1995, lĩnh vực chế tạo chiếm 16% tổng số việc làm trên toàn nước Mỹ. Thương mại tạo thêm một số việc làm, đồng thời làm mất đi một số khác. Tuy nhiên, tổng số việc làm vẫn tùy thuộc vào sức mạnh của toàn bộ nền kinh tế. Nước Mỹ thâm hụt thương mại một phần cũng do phần còn lại của thế giới sử dụng đồng đô-la trong thanh toán toàn cầu, hay dùng để thay thế đồng nội tệ yếu của họ. Kết quả là chúng ta không phải bán (hàng hóa) nhiều như chúng ta mua, phần chênh lệch được bù bởi số đô-la mà nước ngoài nắm giữ. Nhập khẩu vượt trội sẽ làm tăng, chứ không giảm, mức sống của người Mỹ.

Nếu Barlett và Steele muốn cung cấp thông tin thực sự cho độc giả, lẽ ra họ phải giải thích toàn bộ những điều trên. Cũng có thể họ sẽ giải thích cặn kẽ trong các số báo tiếp theo, song tôi nghi ngờ điều đó. Thay vào đó, họ chỉ thích thú với việc lên án. Những gì họ tranh luận (chính sách thương mại, khoảng cách và bất bình đẳng thu nhập, chế độ đãi ngộ quá cao cho một số người) đương nhiên đều là những thứ mà báo chí được phép bàn tới. Cái không đúng ở đây là các nhà báo đã đưa tin một cách quá chọn lọc - họ không chú ý tới những chứng cứ đối nghịch, hay bối cảnh rộng lớn hơn của câu chuyện[91], tới mức khiến độc giả bị lạc lối. Báo chí hoàn toàn có thể làm tốt hơn nữa. Gần đây tờ Los Angeles Times đã đăng một loạt bài rất hay, nói về những thay đổi kinh tế, cùng những cái lợi và cái hại đi theo quá trình thay đổi này.

Lỗi chính ở đây thuộc về các tổng biên tập thuộc các cơ quan truyền thông lớn (như tờ Inquirer, Times v.v...), nhữ