VI. CÁC CHUYÊN GIA SỰ THẮNG THẾ CỦA ĐỊNH KIẾN TÂM LÝ
Chúng ta sống trong một thế giới của những mối nguy hiểm thực sự và nỗi sợ hãi do tưởng tượng mà có. Những nguy hiểm thường thấp và giảm xuống, trong khi sự sợ hãi là lớn và tăng cao. Chúng ta đang bị cái mà tôi gọi là “các định kiến tâm lý - psycho-facts” đeo đẳng: đó là các niềm tin, mặc dù không được củng cố với các chứng cứ vững chắc, vẫn được coi như chân lý bởi vì sự lặp đi lặp lại liên tục của chúng làm thay đổi cách mà chúng ta trải nghiệm cuộc sống. Chúng ta cảm thấy bị tấn công với việc tội phạm gia tăng, các mối nguy cho sức khỏe cũng tăng, tiêu chuẩn sống giảm sút, và một môi trường ngày càng xấu đi. Tất cả đều là các định kiến tâm lý. Các điều kiện nền tảng của chúng đều không có thật, nhưng vì chúng ta cảm thấy chúng, nên chúng trở thành có thật.
Các nhà báo - hành nghề bằng tính giật gân và đơn giản hóa vấn đề - đã liên quan nhiều đến sự bùng nổ của định kiến tâm lý. Nhưng các chính trị gia, những nhóm biện hộ, và những người khởi xướng nhiều động cơ và lối sống khác nhau cũng dính líu đến chuyện này. Bất cứ ai trong chúng ta đều hiếm khi cố tình nói dối. Tuy nhiên, chúng ta đem các thông tin không đầy đủ hoặc được chọn lọc đi “bán dạo” và điều đó khơi nguồn cho sự thổi phồng sai lạc hoặc các suy luận phi lý. Người ta bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không ổn, và cảm giác mới này đã trở thành một thực tế hiển nhiên hoặc (tệ hơn) là các cơ sở cho một chính sách sai lầm.
Tội phạm ư? Vâng, tỷ lệ tội phạm đã quá cao từ lâu nay. Nhưng các cuộc điều tra tốt nhất cũng không cho thấy vấn đề này ngày càng trở nên quá tồi tệ. Thật vậy, một số tỷ lệ tội phạm đã giảm xuống. Tỷ lệ trộm cắp tại các hộ gia đình đã giảm 42% trong giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1991. Số lượng các vụ giết người hàng năm dao động trong khoảng từ 20.000 đến 26.000 vụ kể từ năm 1980, mức gia tăng cao đã diễn ra vào thập niên 1960, khi đó số lượng các vụ việc là gấp đôi. Một cuộc thăm dò Gallup báo cáo rằng: 86% người trả lời nói rằng họ chưa từng là nạn nhân của bạo lực. Ngược lại, nhận thức của chúng ta về vấn đề tội phạm - được tin tức truyền hình địa phương thổi bùng lên - đã gia tăng.
Trong một chương trình truyền hình đặc biệt gần đây, phóng viên John Stossel của kênh ABC phát biểu rằng: chúng ta “tự làm chính mình khiếp sợ đến chết đi được”. Các định kiến tâm lý này là có sức thu hút, chính xác là vì chúng thường là đáng tin cậy. Ví dụ, chúng ta đã được nghe nói trong nhiều năm rằng những tiêu chuẩn sống của chúng ta đang giảm sút, và điều này đã trở thành một chủ đề lớn của chính phủ Clinton trong năm 1992. Thực tế không phải vậy. So với bất kỳ khoảng thời gian nào, các tiêu chuẩn sống của chúng ta đã tăng cao hơn. Trong 25 năm qua, thu nhập trung bình của các gia đình đã tăng thêm khoảng một phần năm. Nhưng sự gia tăng là rất chậm so với dự kiến - chậm đến mức nó thường là không thể được cảm nhận hay không tồn tại nếu chỉ nhìn vào khoảng thời gian một năm. Chúng ta không cảm thấy sự gia tăng này.
Các mối nguy hiểm cho sức khỏe, sự an toàn và môi trường cũng gây hiểu lầm tương tự. Giả sử rằng có một thử nghiệm cho thấy có chất X nào đó gây ung thư - với một liều dùng nhất định trên một số động vật nhất định. Ngay sau đó chúng ta sẽ lo ngại rằng tất cả mọi thứ chúng ta ăn vào hoặc hít phải mà có chứa các dấu vết nhỏ nhất của chất X cũng làm chúng ta mắc bệnh ung thư hoặc tim mạch. Chúng ta cảm thấy rằng các rủi ro được nhận dạng này phải là phòng tránh được. Chúng ta hành động cứ như là đã có một quyền trong hiến pháp dành cho sự bất tử và bất cứ điều gì gây ra nguy cơ đều phải bị cấm. Mục tiêu của chúng ta là một xã hội không có rủi ro, và điều này nuôi dưỡng nỗi sợ hãi quá mức.
Rất nhiều mối hiểm nguy trên lý thuyết (như sợi amiăng (asbestos) hoặc tai nạn máy bay) là không quá lớn trên thực tế. Cách dễ nhất để nắm bắt điều này là xem lướt qua bảng dưới đây. Nó thể hiện sự so sánh các rủi ro gây chết người. Đáng lưu ý là có khoảng 2,2 triệu người Mỹ chết mỗi năm. Với khoảng 260 triệu dân Mỹ, điều này có nghĩa là: theo ý nghĩa số học sơ bộ, tỷ lệ rủi ro gây tử vong trung bình là khoảng 1/118 (260 chia cho 2,2 bằng 118). Hiện nay thì rõ ràng là số người già chết đi là lớn hơn nhiều so với người trẻ. Tuy nhiên, rủi ro nói chung gây tử vong từ các thiên tai hoặc tai nạn không thể tránh được là cao hơn nhiều so với sự nguy hiểm cụ thể của nhiều chất hoặc việc làm độc hại. (Bảng này cho thấy cả hai.)
Tỷ lệ người chết
Hàng năm, có khoảng 1 trong 100 người trong số chúng ta bị chết. Những rủi ro gây tử vong thường được quan tâm chú ý nhiều nhất như do amiăng và tai nạn máy bay lại là tương đối nhỏ.
Đối với tất cả mọi người: 1/118
Đối với những người trong độ tuổi từ 35 - 44: 1/437
Đối với nghề cảnh sát: 1/4.500
Đối với phụ nữ sinh con: 1/9.100
Do tai nạn máy bay: 1/167.000
Do sét đánh: 1/2.000.000
Do amiăng trong các trường học: 1/11.000.000
Nguồn: Robert Mitchell, Đại học Clark. Mọi dữ liệu là tỷ lệ hàng năm.
Những người cảnh báo quá mức cần thiết (alarmist) sẽ chỉ ra rằng: tất cả những rủi ro gây tử vong riêng biệt sẽ gộp thành một nguy cơ tổng thể gây tử vong cho con người. Đúng vậy. Nhưng bất chấp có giảm thiểu các nguy cơ cụ thể xuống mức nào đi nữa, chúng ta vẫn sẽ chết vì một lý do nào đó, và rất nhiều rủi ro cụ thể là không quá nguy hiểm. Trong chương trình ABC, Stossel đùa Ralph Nader vì ông này nhìn thấy mối nguy hiểm hầu như ở khắp mọi nơi: hot dog có quá nhiều chất béo; máy bay không được bảo trì đầy đủ; cà phê có chất caffein; thảm dính bụi và gây ô nhiễm trong nhà. Nader nói: “cuộc sống là sự chuẩn bị sẵn sàng - khẩu hiệu cũ của phong trào Hướng đạo[67] là “Hãy chuẩn bị”. Rắc rối là nếu bạn dùng cả cuộc đời để chuẩn bị, bạn có thể bỏ lỡ cơ hội để được sống cho ra sống.
Tất nhiên, chúng ta nên áp dụng biện pháp phòng ngừa hợp lý từ cá nhân và ban hành các quy định chặt chẽ về an toàn và môi trường. Nhưng chúng cần phải hợp lý và thận trọng. Chúng ta không nên phản ứng thái quá trước mọi sự cố khủng khiếp hoặc sự nguy hiểm có thể được nhận biết. Vụ cô bé Polly Klaas bị bắt cóc và giết chết hồi cuối năm ngoái thật kinh hoàng, nhưng vụ bắt cóc cậu bé Lindbergh vào năm 1932 cũng chẳng thua kém gì. Quây các trẻ em lại trong một khu phố nhìn chung là an toàn sẽ chẳng phải là một phản ứng hợp lý. Tương tự, người già thường phòng thủ trong nhà một cách vô nghĩa trước các hoạt động tội phạm do mình tưởng tượng ra. Theo lời Stossel thì chúng ta “đã từ bỏ một số quyền tự do”.
Tương tự như vậy, các quy định sai lầm dựa trên các rủi ro bị thổi phồng làm lãng phí rất nhiều tiền của. Cơn hoảng loạn do amiăng là một sai lầm gây tốn kém, như vị thẩm phán liên bang Stephen Breyer đã trình bày trong một cuốn sách mới[68]. Cứ để nguyên amiăng trong các tòa thì nhà hầu như không gây nguy hiểm gì cả; nhưng gỡ bỏ nó ra sẽ làm tăng nguy cơ khi để cho các hạt amiăng lan tỏa vào không khí. Breyer viện dẫn một trường hợp về chất thải độc hại theo đó một công ty phản đối việc dọn dẹp sau cùng. Công trường đã được làm sạch đến mức trẻ em có thể ăn vào bụi bẩn trong vòng 70 ngày một năm mà không gây hại đáng kể. Tại sao cần dọn dẹp nhiều hơn nữa? Ông viết “Không có trẻ em nào ăn vào bụi đất khi chơi trong khu vực,vì trước kia nó đã là một đầm lầy”.
Cách phản đối “theo chuẩn mực” thường là: Một quốc gia giàu có như quốc gia của chúng ta có đủ khả năng đạt đến mức tuyệt đối an toàn. Nhưng không, chúng ta có thể không làm được. Các chi phí theo quy định làm cho giá bán hoặc thuế tăng thêm. Thu nhập của chúng ta sẽ thấp hơn mức mà lẽ ra có thể có. Sẽ OK thôi, nếu chúng ta nhận lại được rất nhiều lợi ích - bầu không khí trong sạch hơn nhiều hoặc nhiều thức ăn sạch sẽ hơn nhiều. Nhưng sẽ không ổn nếu các lợi ích chỉ là tầm thường hay không tồn tại.
Để có phán quyết đúng đắn thì cần có thông tin đúng. Mỗi mối nguy do tưởng tượng mà có hoặc xu hướng xã hội bất lợi đều không quá kinh khủng như vẻ bề ngoài của nó. Gia tăng ý thức có thể làm giảm bớt sự thật đi. Chúng ta trở thành nạn nhân của các nỗi sợ hãi và trí tưởng tượng của chính chúng ta. Chúng ta tạo ra các chân lý “nhân tạo” từ việc pha trộn các sự kiện có thật, định kiến phổ biến và sự lo âu của đám đông. Định kiến tâm lý không phải là sự thật. Chúng ta hãy nên cố gắng hiểu khác đi.
Newsweek
Ngày 9 tháng 5 năm 1994
ĐẤT NƯỚC CỦA CÁC CHUYÊN GIACó rất nhiều nguồn cung cấp đối với nước Mỹ là không đủ, nhưng nguồn cung các chuyên gia thì không phải là trong số này. Đất nước chúng ta đang tràn ngập các chuyên gia: chuyên gia về chính trị, chuyên gia quản lý, chuyên gia ly hôn, chuyên gia tài chính cá nhân, chuyên gia khủng bố, chuyên gia phần mềm, và nhiều nhiều nữa. Hôm nay có rất nhiều chuyên gia so với ngày hôm qua, và ngày mai sẽ có thêm nhiều hơn so với hôm nay. Nếu bạn chưa phải là một chuyên gia có chứng chỉ trong một lĩnh vực nào đó, hầu như chắc chắn là bạn sẽ sớm trở thành một chuyên gia, và nếu bạn không là chuyên gia thì sau đó bạn sẽ đủ điều kiện để trở thành nhóm thiểu số cần được bảo vệ hoặc một sinh vật nguy hiểm. Tại Mỹ, không phải tất cả mọi người có thể trở thành tổng thống, nhưng gần như tất cả mọi người đều có thể trở thành một chuyên gia.
Tôi từ lâu đã nghi ngờ rằng tính đúng đắn của điều này, nhưng phải cho đến khi tình cờ đọc trên Niên giám các Chuyên gia, Người có thẩm quyền và những Người phát ngôn, ấn bản năm 1995, thì tôi mới nhận ra sự thật. Cuốn Niên giám thu thập vào hơn 900 trang tên tuổi của các chuyên gia đủ loại: từ chuyên gia xử lý “Nghiện ngập/Chán nản” (Viện nghiên cứu Sự chán nản - Boring Institute) đến chuyên gia “tắm cho chim” (Cộng đồng những người nuôi chim), từ chuyên gia “Chống Gian lận Y tế/Lang băm” (Hiệp hội dự phòng y khoa Hoa Kỳ) đến chuyên gia về “Các vấn đề pháp lý/ Thuật thôi miên” (Hội đồng Kiểm tra Thôi miên Hoa Kỳ) và chuyên gia “Mối quan hệ/vợ chồng” (Viện Các giải pháp Sáng tạo).
Và cuốn Niên giám, tất nhiên, chỉ là phần nổi của tảng băng. James A. Smith, tác giả của cuốn Những người môi giới ý tưởng: các cố vấn và sự gia tăng các chính sách tinh túy mới, ước tính rằng hiện nay có khoảng 1.200 viện nghiên cứu chính sách công. Rất nhiều trong số các tổ chức này, cộng thêm nhiều trường đại học và các hiệp hội thương mại, là tự xuất bản các sách hướng dẫn dành riêng. Đại học Johns Hopkins có cuốn catalog dày 301 trang viết về các chuyên gia của mình, cuốn Bách khoa toàn thư của Quỹ Di sản dàn dựng đến 412 trang viết về các chuyên gia của họ, và Hội đồng Giáo dục Hoa Kỳ cũng có một tập sách nhỏ dày 86 trang. Cũng như hầu hết mọi lĩnh vực khác, nước Mỹ dẫn đầu thế giới về các chuyên gia.
Chỉ riêng việc tìm hiểu lý do của hiện tượng này cũng đã là một chủ đề đáng để suy ngẫm. Một mặt, việc cung cấp các chuyên gia có tiềm năng đã gia tăng đều đặn.Người Mỹ có con số kỷ lục về bằng cấp. Năm 1940, tất cả các trường cao đẳng và đại học trên toàn quốc chỉ cấp 217.000 bằng tốt nghiệp, và hầu hết trong số đó (187.000 bằng cấp) là bằng cử nhân Đại học; mới chỉ có 27.000 thạc sĩ và 8.000 tiến sĩ. Đến năm 1991, tổng số bằng cấp là hơn 2 triệu, với 337.000 thạc sĩ và 39.000 tiến sĩ, trong đó đã bao gồm 430 vị tiến sĩ “Quản lý Hành chính Công” (Ph.D in Public Affairs). Trước đây, chưa bao giờ có nhiều người Mỹ tự đánh giá cao quan điểm của riêng họ như hiện nay.
Trong khi đó, nhu cầu về các chuyên gia đã bùng nổ. Chúng ta chủ yếu phải cảm ơn công nghệ vì hiện tượng này. Ví dụ, đã có lúc một luật sư có thể chỉ mong đợi rằng cả đời mình gắn với các vụ kiện tụng hoặc soạn thảo các hợp đồng. Giờ thì đã khác. Như phiên tòa xét xử O.J. Simpson[69] đã cho thấy, ngày nay một vị luật sư có khuôn mặt điển trai và cái lưỡi linh hoạt có thể dự đoán sẽ trở thành người tương đương với Howard Cosell quá cố (nhà báo, nhà bình luận thể thao nổi danh của Hoa Kỳ - ND), trong khía cạnh luật pháp. Suy cho cùng, giới truyền hình có thể săm soi vào các vụ ly hôn của những nhân vật nổi tiếng hoặc trận chiến trong phòng xử án giữa các tập đoàn, do đó những cơ hội lớn hơn dành cho các luật sư sẽ mở rộng hơn các cựu công tố viên hoặc các luật sư chỉ chuyên bào chữa.
Phiên tòa xét xử O.J này là biểu tượng cho thấy việc công nghệ đã nâng cao sự khao khát của chúng ta về các chuyên gia như thế nào. Không ai biết chính xác số lượng của các chương trình thảo luận qua đài phát thanh, nhưng Carol Nashe - Phó Tổng giám đốc điều hành của Hiệp hội các Chương trình Nói chuyện truyền thanh Quốc gia (đăng trên trang 529 của Niên giám), nói rằng có thể có tới 5.000 chương trình quy mô quốc gia và địa phương. Hầu hết các chương trình đều cần phải có “khách mời”, nghĩa là “các chuyên gia”. Các chương trình tin tức truyền hình, tọa đàm, phỏng vấn và bình luận cũng vậy. Một chuyên gia nào đó cũng phải xuất hiện trên Nightline[70]. Truyền hình cáp, từ Larry King Live (một chương trình talk show trên CNN - ND) cao cấp đến các loại hình tọa đàm dưới đó, cũng có thêm các yêu cầu để kích thích khán thính giả. Hiện nay, Internet cũng thế.
Và đây là bí mật thực sự của hiện tượng nước Mỹ nuôi dưỡng thành công các chuyên gia: Chúng ta tin tưởng vào thị trường tự do. Hầu như bất cứ ai có thể trở thành một chuyên gia bởi vì không ai nói được thế nào là một chuyên gia hoặc là một chuyên gia thì phải hiểu biết những gì. Nếu bạn có thể thuyết phục được người khác tin vào sự liêm chính của mình - trong bất cứ điều gì - thì bạn đã thành công. Chắc chắn, bằng cấp chuyên môn có thể giúp bạn làm điều đó. Có bằng tiến sĩ thiên văn học sẽ có thể làm gia tăng cơ hội cho bạn để được chương trình Nightline gọi đến, nếu một hành tinh mới vừa được phát hiện. Nhưng ai biết được chứ? Có lẽ tất cả những thứ bạn cần chỉ là một kính viễn vọng ở sân sau nhà bạn. Dù sao đi nữa, bạn cũng được tự do thoải mái để lừa phỉnh và khoe khoang vô tội vạ đến chừng mực mà bạn có thể làm.
Bước đầu tiên là cần được liệt kê trong Niên giám các chuyên gia. Có mức giá phải trả, nhưng cũng khiêm tốn thôi. Chính xác là 375USD. Đây là việc mua lại một “mục tham khảo”, chiếm khoảng một phần sáu của một trang. Nếu bạn muốn có một diện tích lớn hơn, chi phí để được đăng nguyên trang là từ 1.150USD đến 1.250USD. Toàn bộ quá trình đã được thương mại hóa: bạn chèn thông tin của mình trong cuốn sách, nó sẽ được gửi miễn phí đến một danh sách 14.000 người nhận, trong đó có 1.400 tờ nhật báo và 1.200 đài phát thanh, đài truyền hình, và tạp chí. Mitchell Davis, nhà biên tập và cũng là chủ sở hữu của Niên giám, so sánh sản phẩm này với “bốn bao tải các thông cáo báo chí”.
Thực ra, ông đã hợp pháp hóa các chuyên gia “nghiệp dư”. Duyệt qua cuốn Niên giám, bạn sẽ tìm thấy những điểm hoài nghi thường tình, từ Albert Shanker (người đứng đầu Hiệp hội Giáo viên Hoa Kỳ) cho đến Viện nghiên cứu điện Edison (tập đoàn thương mại kinh doanh các tiện ích). Nhưng bạn sẽ còn tìm thấy Richard Carleton Hacker (“Vua Xì gà... tác giả/người phát ngôn thú vị nhất thế giới về việc hút xì gà”), Trung tâm xử lý Lo lắng Quốc gia (do Alan Caruba điều hành, người theo dõi “‘các đợt hoảng sợ’ do giới truyền thông chi phối”), và Gary Martin (“chuyên gia pháp y trong các vụ tai nạn tàu thuyền”).
Sự bùng nổ các chuyên gia đã dẫn đến một số than phiền rằng quá trình thật điên rồ: những người am hiểu có tuổi tác - trầm tĩnh, có thông tin, duy lý - đang bị thay thế bởi những kẻ chỉ biết to mồm, tự quảng bá cho mình, và các kịch sĩ lừa đảo. Trong một bài bình luận, Louis Menand, người dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Thành phố New York, phàn nàn rằng giá trị của sự tinh thông am hiểu chuyên môn đúng nghĩa đã bị hạ thấp, bởi vì nó “gần như tự động được coi như tương đương với sự tinh hoa, và từ ‘tinh hoa - elite’ đã trở thành một từ mới đáng sợ mới trong đời sống Mỹ”. Điều này phần nào đúng, và quá trình ngẫu nhiên của chúng ta khi “xức dầu”[71] để xác thực cho các chuyên gia chắc chắn đã cho thấy có rất nhiều nhà phân tích nhảm nhí, nhiều nhà tư vấn vớ vẩn, và các khoa học gia “dỏm”.
Nhưng một sự thật lớn hơn là công nghệ mới đã phá vỡ các lãnh địa truyền thống của các lĩnh vực chuyên môn, lật đổ những người nào cho rằng các nhu cầu về chuyên gia chỉ là tốn thời gian hoặc làm mất giá trị. Vấn đề quan trọng hiện nay không chỉ là những gì bạn hiểu biết, mà là ai sẽ nghe bạn nói. Những người từ chối các lời mời liên tục cho việc nói “nhảm” trước công chúng đều nhận thấy vị thế của họ đã thay đổi và thường là bị hạ thấp. Alan Dershowitz có thể không phải là chuyên gia pháp lý vĩ đại nhất Hoa Kỳ, nhưng ông là một trong những người nổi tiếng nhất vì ông luôn luôn sẵn sàng trước camera. Trong một xã hội coi trọng địa vị, việc nổi bật trước đám đông là một tham vọng bất tận. Tham vọng trở thành chuyên gia chỉ đơn thuần là biểu hiện mới nhất.
Newsweek
Ngày 5 tháng 6 năm 1995
TÃ DÙNG MỘT LẦN RỒI BỎJohnny đang được quấn tã dùng một lần rồi bỏ (disposal diaper), và điều này không phải là một thảm họa đối với môi trường. Johnny ở đây là bé John Samuelson, vừa ra đời 8 tuần trước để tham gia cuộc sống cùng với chị gái Ruth (5 tuổi), và anh trai Michael (3 tuổi). Tôi có ý muốn nói rằng hầu hết các em bé khác trong tổng số 9 triệu em dưới 30 tháng tuổi đều mặc tã dùng một lần rồi bỏ. Tôi không cảm thấy tội lỗi khi vợ tôi và tôi sử dụng tã cho con cái, và ý tưởng cho rằng chúng tôi đang phá hủy hành tinh này vì con cái của chúng tôi hầu như là vô nghĩa.
Tã trẻ em dùng một lần rồi bỏ là một ẩn dụ tư liệu cho sự cường điệu thổi phồng của thuyết bảo vệ môi trường hiện đại. Tất cả chúng ta nên muốn có môi trường tốt, nhưng những gì diễn ra trong thực tế không phải luôn luôn là điều dễ dàng để nói đến. Xu hướng ngày nay là coi rất nhiều vấn đề khác nhau đều có liên quan đến “môi trường”, cứ như là cái nhãn này - tự bản thân nó - đã hàm ý một thảm họa sắp xảy ra mà là giải pháp dành cho nó là yêu cầu cấp bách mang tính đạo đức. “Chủ thuyết Bảo vệ môi trường” theo đó trở thành một tập hợp lỏng lẻo của các vấn đề đa dạng, trong đó sự phân biệt vấn đề nào là nghiêm trọng hơn so với những vấn đề khác là rất ít.
Việc coi tã dùng một lần một như một vấn đề môi trường chính là sự trượt dài vào thuyết cảnh báo quá mức cần thiết, đầy mơ hồ và tùy tiện. Tã lót dùng một lần rồi bỏ nghĩa là rác thải; đó là rác thải bình thường, không gây nguy hại. Loại bỏ rác thải là vấn đề, và ở một số nơi là vấn đề nghiêm trọng. Vấn đề này chủ yếu liên quan đến việc xử lý rác thải với chi phí chấp nhận được. Nhưng nó không phải là một cuộc khủng hoảng đe dọa đến tương lai của trái đất, và thậm chí nếu là khủng hoảng thì tã dùng một lần sẽ không phải là vấn đề quá quan trọng. Số lượng 15,8 tỷ tã lót được sử dụng hàng năm chỉ chiếm dưới 2% tổng khối lượng rác thải.
Người ta đang hiểu sai và coi đây là sự phức tạp khi hùng biện về vấn đề này. Tã dùng một lần đã trở thành biểu tượng cho sự gia tăng lượng rác thải, vì hầu hết mọi người vẫn còn nhớ về thời kỳ dùng tã vải, sau đó giặt sạch và tái sử dụng. Mặc dù Procter & Gamble đã thử nghiệm lần đầu tiên trên thị trường với sản phẩm Pampers từ năm 1961, nó đã không xuất hiện trên phạm vi toàn quốc cho đến năm 1970. (P&G nói rằng tã dùng một lần hiện chiếm 90% tổng số lượng tã trên thị trường, tăng từ 65% trong năm 1980 và 25% trong năm 1970). Thống đốc tiểu bang Vermont, bà Madeleine Kunin đã đề nghị cấm sử dụng tã dùng một lần, mặc dù cơ quan lập pháp của bà hầu như không tán thành. Và tạp chí Forbes gần đây cũng vật lộn với vấn đề này trên trang bìa của: “Chúng ta có thể có một môi trường sạch hơn và tã lót Pampers sạch hơn?”
Thực ra, chủ nghĩa biểu tượng đã sai lầm. Vấn đề rác thải của chúng ta phần lớn không phải là hậu quả của việc xã hội ngày càng có nhiều sản phẩm dùng một lần rồi bỏ. Cơ quan Bảo vệ Môi trường ước tính rằng một người Mỹ trung bình cho ra 3,3 pound rác thải một ngày (sau khi đã trừ đi lượng được tái chế), nghĩa là chỉ hơi cao hơn một chút so với mức rác thải của năm 1970. Sự thật là hầu hết mọi quan niệm của bạn về vấn đề rác thải đều sai lầm, như lập luận của nhà khảo cổ học William Rathje, người đứng đầu Dự án Rác thải của Đại học Arizona, đã trình bày trên tạp chí The Atlantic số tháng 12 vừa qua.
Bạn vẫn nghĩ rằng plastic là vấn đề? Hãy xem lại nhé. Chúng chỉ chiếm khoảng 8% lượng rác thải. Kim loại ư? Chúng chỉ khoảng 9% mà thôi. Ngược lại, giấy chiếm tới 37% và rác thải từ sân vườn (cỏ, đất,...) chiếm 20% tổng lượng rác thải. Cũng không phải là tình hình rác thải hiện nay là đặc biệt tồi tệ trong lịch sử. Rathje viết: “Xã hội của chúng ta hiện có nhiều thứ... gợi nhớ về rác thải. Nhưng chúng ta đã quên mất những thứ mà ngày nay không còn xuất hiện nữa... đó là 1.200 pound tro than mà mỗi người Mỹ tạo ra tại nhà hàng năm hồi đầu thế kỷ... [và] các thành phố Hoa Kỳ từng phải xử lý hàng trăm ngàn con ngựa chết mỗi năm.
Vấn đề ngày nay phát xuất từ việc thay đổi các chuẩn mực xã hội. Bãi xử lý rác bây giờ tiếp nhận đến hơn ba phần tư của tất cả rác thải, và trong một đất nước rộng lớn như nước Mỹ của chúng ta, có rất nhiều chỗ trống cho những bãi rác mới. Rắc rối ở đây là ngày càng có ít các cộng đồng muốn làm điều này, và các quy định chặt chẽ hơn làm tăng chi phí xử lý rác thải. Theo các báo cáo của Hiệp hội quản lý Chất thải rắn Quốc gia, từ năm 1985 đến 1988, chi phí trung bình để xử lý một tấn rác thải tại bãi rác đã tăng từ 12 lên đến 27 dollar. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho bãi xử lý rác là chấp nhận được hoặc tìm giải pháp thay thế, từ việc ngăn ngừa rác đến tái chế và đốt thành tro.
Tôi không tranh cãi với cha mẹ tôi - những người, cũng giống như một lượng thiểu số đang tăng thêm khác - ưa thích tã vải hơn. Hiệp hội quốc gia của ngành Tã lót báo cáo rằng hoạt động kinh doanh của các thành viên tăng lên khoảng 40% trong năm ngoái. Ông Jack Mogavero - Tổng Giám Đốc của Công ty General Health Care, đơn vị lớn nhất lĩnh vực dịch vụ tã lót - nói rằng: “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự thay đổi ngoạn mục như vậy”. (Bảo vệ môi trường không phải là lý do duy nhất. Loại tã mới có khóa dán velcro cũng giúp tã vải dễ sử dụng hơn). Nhưng các bậc cha mẹ đang tự lừa dối chính mình nếu họ nghĩ rằng dùng tã vải là gìn giữ môi trường, theo cách thức nào đó.
Giả sử tất cả mọi người ngày mai đều chuyển sang dùng tã vải. Tất cả các tã vải này (43 triệu một ngày là mức sử dụng hiện nay) phải được giặt sạch trong nước nóng, điều này tiêu tốn năng lượng và tạo ra ô nhiễm. Đối với các gia đình sử dụng dịch vụ tã lót, tã phải được thu gom và chuyển giao bằng xe tải và việc này hao tốn nhiên liệu, thải ra khói xe, và làm tồi tệ hơn nạn ùn tắc giao thông. Ngược lại, hầu hết tã dùng một lần đều được mua từ các chuyến đi mua sắm mà dù sao người ta cũng phải thực hiện. Các hiệu ứng phụ của việc tiêu thụ thêm năng lượng chỉ là rất khiêm tốn, và ảnh hưởng của tã lót dùng một lần đối với lượng rác thải cũng chẳng đáng là bao.
Quan điểm ở đây không phải là chứng minh cho thấy rằng một loại tã này là tốt hơn loại khác xét từ góc độ môi trường. Nó chỉ đơn giản là nhấn mạnh rằng sự so sánh là đáng ngờ. Mỗi loại tã lót đều gây tác hại, nhưng làm thế nào mà chúng ta có thể thẩm định được các mối nguy? Liệu vấn đề ô nhiễm không khí và các mối đe dọa từ việc Trái Đất nóng dần lên có là nghiêm trọng hơn so với việc xử lý rác thải? Các cuộc tranh luận về vấn đề môi trường có xu hướng trượt dài theo những lựa chọn lộn xộn kiểu này.
Theo linh cảm riêng của tôi thì rác thải là vấn đề ít tồi tệ hơn. Đến một giới hạn nhất định thì vấn đề - các chi phí cao hơn - cũng chính là giải pháp. Khi tăng chi phí xử lý rác thải, việc tái chế trở nên hấp dẫn hơn và đạt hiệu quả kinh tế. Được soạn thảo kỹ lưỡng, các quy định về việc tái chế rác thải giúp hỗ trợ quá trình này bằng cách giảm chi phí thu gom. Năm 1988, khoảng 31% lượng giấy đã được thu gom và tái chế. Đến năm 1995, theo ước tính của ngành giấy thì tỷ lệ này có thể tăng lên tới 40%. Sẽ có những nỗ lực nhiều hơn để giải quyết chất thải từ sân vườn thành phân bón hơn là đem đến các bãi chôn lấp.
Với tư cách cá nhân, tôi đang làm phần việc của mình trong giới hạn của quan niệm phổ biến. Mới tuần trước, tôi đã mang một cái tách uống cà phê vào văn phòng. Điều này sẽ cắt giảm lượng sử dụng ly nhựa (polystyrene) của tôi với mức khoảng 300 - 600 cái mỗi năm. Tôi muốn dành cho con trai mới ra đời của tôi một thế giới tốt nhất có thể, nó có một nụ cười hấp dẫn và ánh mắt bình thản. Nó nói: Ba ơi, cứ thư giãn đi thôi. Là người lo nghĩ nhiều, tôi không thể thư giãn. Tôi quan tâm rất nhiều đến tương lai của con tôi. Nhưng việc dùng tã lót của chúng ta không nằm trong số các vấn đề cần quan tâm đó.
Newsweek
Ngày 19 tháng 3 năm 1990
CHẾ ĐỘ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CHA ĐI LÀMMột đêm, đứa con trai 2 tuổi của tôi phản đối những nỗ lực của cha nó khi muốn nó đi ngủ. Nó thích hét to lên: “Ba đừng làm ồn nữa, con ném Ba vào thùng rác bây giờ”. Vậy là một ngày kia, người ta phải dùng đến chế độ làm việc dành cho những người cha (daddy track). Chế độ làm việc này là tình yêu thương, sự quan tâm lo lắng, việc mặc quần áo cho con cái, và làm cho chúng chịu từ bỏ những món đồ chơi. Nó liên quan chặt chẽ đến chế độ làm việc dành cho các bà mẹ (mommy track)[72].
Các tranh luận liên quan đến chế độ làm việc dành cho các bà mẹ đều khá nực cười. Chúng nhanh chóng đi lướt qua hoặc lảng tránh vấn đề trọng tâm: các trẻ em. Việc trở thành cha mẹ và có con cái không phải là một trải nghiệm mà bạn có thể hình dung trước được. Con cái của người khác không phải là con của bạn, và chỉ có một cách để nói lên sự khác biệt. Việc nuôi dạy con cái góp phần đưa đến viễn cảnh: thay đổi quan điểm của bạn về cuộc sống và (đối với một số người trong chúng ta) thay đổi những gì bạn muốn từ cuộc sống.
Vì hầu hết mọi người đều hiểu như trên, nên chế độ làm việc dành cho các bà mẹ mang hàm ý rằng: các bà mẹ đang hy sinh sự nghiệp của họ - chuyển thành các công việc ít quan trọng hơn - bởi vì họ đang nuôi con. Có ba điều sai trong ý niệm này. Đầu tiên là việc “hy sinh”. Thứ hai, chỉ có các người mẹ là đang bị ảnh hưởng. Và thứ ba là các quyết định trong những năm đầu làm cha mẹ có ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến sự nghiệp.
Vợ tôi phù hợp với hình mẫu của một người lao động trong chế độ làm việc dành cho các bà mẹ. Từ khi sinh con gái cách đây 4 năm, cô ấy trải qua các công việc bán thời gian. Hiện nay vợ tôi nhận một công việc chỉ làm 3 ngày mỗi tuần. Nhưng cô ấy không nghĩ rằng mình đang “hy sinh”. Vợ tôi rời bỏ tất cả các “lộ trình sự nghiệp” từng theo đuổi, bởi vì cô ấy muốn thế. Khi con gái tôi chào đời, tôi không đột ngột đánh mất tất cả tham vọng của mình. Nhưng tôi bắt đầu về nhà sớm hơn vào buổi tối, làm việc ít hơn vào những ngày cuối tuần, và trì hoãn (mãi mãi chăng?) các dự án viết lách quy mô lớn và hấp dẫn.
Cả hai vợ chồng tôi đều hy vọng rằng những gì chúng tôi đang làm sẽ giúp con cái trở nên tự lập hơn và chúng làm người lớn hài lòng. Với một chút dại dột, tôi còn muốn nghĩ rằng chúng tôi thậm chí đang giúp đất nước bằng một nỗ lực bé nhỏ khi nuôi dạy các công dân “nhí” trở thành người có trách nhiệm và năng suất lao động. Điều này sẽ trở thành sự thật phần nào? Ai biết được? Điều đúng đắn ở đây là: chúng tôi vẫn làm những gì chúng tôi đang làm, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng điều đó tốt cho chính chúng tôi.
Chỉ có các nhà sử học mới quyết định sau cùng rằng cách làm cha trong thời hiện đại đã có thay đổi gì chăng (nếu có gì mới). Nhưng đã có những dấu hiệu cho thấy vai trò nuôi dạy con cái cứng nhắc trước kia, theo đó cha mẹ là nhà cung cấp và bảo trợ, đã hơi bị lu mờ. Trong một cuộc khảo sát các nhân viên, công ty Du Pont thấy rằng số lượng các ông bố trẻ có quan tâm đến các vấn đề như chăm sóc con cái đang tăng cao. Nhiều người nói rằng họ sẽ tránh nhận các việc làm đòi hỏi thường xuyên đi lại hoặc thay đổi vị trí. Đàn ông cũng làm nhiều việc nhà hơn. Hồi giữa thập niên 1960, phụ nữ đã dành thời gian nhiều gấp bốn lần so với thời gian làm việc nhà của đàn ông. Đến đầu năm 1980, tỷ lệ này là khoảng 2 - 1. Bởi vì người đàn ông thường có xu hướng dành nhiều giờ hơn cho các công việc toàn thời gian so với phụ nữ, nên tổng thời gian làm việc (ở cơ quan và ở nhà - ND) là ngang nhau.
Trước khi dán cho tôi cái nhãn là một kẻ đạo đức giả hoàn hảo, hãy để tôi thừa nhận điều hiển nhiên này: vợ tôi đã thay đổi nhiều hơn tôi. Bất chấp nhiều nỗ lực đáng ngưỡng mộ của tôi (chuẩn bị giường ngủ, làm các món ăn, chăm con vào ban đêm), cô ấy vẫn giành phần lớn việc chăm sóc con cái. Khi không được hoàn toàn thừa nhận là vị trí trung tâm, tôi lo lắng rằng cô ấy sẽ cảm thấy thất vọng bởi sức ép giữa việc nhà và công việc ở cơ quan. Nhưng cô không lo lắng - và tôi cũng không lo - rằng khi cô ấy trở lại với một công việc toàn thời gian, cô sẽ khó khăn để tìm được một công việc đáng làm và đầy thách thức. Có lẽ vợ tôi sẽ may mắn vì cô làm việc trong một lĩnh vực đang mở rộng, đó là chăm sóc sức khỏe. Nhưng tôi nghĩ rằng còn có những lĩnh vực tốt hơn thế nữa.
Con cái rồi cũng lớn lên. Sự nghiệp lại được tiếp tục. Điều này còn là khó khăn vào thời điểm mà cuốn sách Sự huyền diệu của nữ giới (The Feminine Mystique) của Betty Friedan xuất bản vào năm 1963. Ngày nay thì dễ dàng hơn nhiều và trong tương lai sẽ còn thuận lợi hơn nữa. Felice Schwartz viết trên tờ Harvard Business Review số tháng 1 và 2: “Thị trường lao động nữ trong các công ty đang chuyển từ vị thế thị trường của người mua thành thị trường của người bán” (nghĩa là ưu thế nghiêng về phía người bán - người lao động nữ - ND). Thế hệ Baby-Boom (những người ra đời trong khoảng từ năm 1946 đến 1964 - ND) đã tạo nên cao điểm của thị trường việc làm. Từ nay đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động sẽ chỉ vào khoảng hai phần ba so với mức của đầu thập niên 1980 và dưới 50% so với mức tăng trưởng của những năm 1970. Nhu cầu đối với những người lao động có tay nghề sẽ tăng cao.
Ngoài ra, những ông bố bà mẹ trẻ ngày nay có thể sẽ phải làm việc lâu hơn cha mẹ họ trước kia. Tuổi về hưu để có thể nhận đầy đủ các trợ cấp An sinh Xã hội được dự kiến sẽ tăng dần dần từ 65 lên 67 trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2027. Khi dân số trở nên già đi, những áp lực để nâng cao hơn nữa ngưỡng nghỉ hưu có thể gia tăng. Giai đoạn nuôi con cái sẽ giảm theo tỷ lệ tương đối so với thời gian làm việc tiềm năng.
Bài báo của Schwartz đã kích hoạt cho cuộc tranh luận này bùng nổ. Không cần sử dụng cụm từ “chế độ làm việc dành cho các bà mẹ - mommy track”, bà dường như ủng hộ nó với việc đề xuất các công ty phân loại các lao động nữ thành 2 loại: những người “coi sự nghiệp là hàng đầu” (chuyên tâm cống hiến cho công việc) và những người quan tâm đến cả “sự nghiệp và gia đình” (muốn nuôi dạy con cái). Sự phân loại cần được thực hiện rõ ràng trước khi người lao động nữ có con. Điều này thật điên rồ. Khi mới 26 tuổi, người ta sẽ không thể biết họ sẽ muốn gì hay họ sẽ như thế nào như lúc 36 hoặc 46 tuổi. Mặt khác, bài báo của Schwartz là một lời đề nghị nhạy cảm dành cho các công ty - khi họ muốn giữ các lao động lành nghề - cần có các chính sách sắp xếp điều chỉnh cho các người lao động làm mẹ.
Điều này đã xảy ra, một cách chính thức và không chính thức. IBM mới đây cho biết sẽ cho phép người lao động nam và nữ tối đa có 3 năm nghỉ phép vì lý do cá nhân. Trong một cuộc khảo sát năm 1987 do Bộ Lao động thực hiện, khoảng một nửa trong tổng số tất cả các cơ quan tổ chức báo cáo rằng họ đã có một số chính sách riêng nhằm giúp đỡ người lao động làm cha mẹ (giờ làm việc linh hoạt, công việc bán thời gian hoặc chia sẻ công việc). Những thứ này có thể được cải thiện thêm nữa không? Chắc chắn là có. Nhưng các chính sách nhân sự, dù có sáng sủa đến mấy, cũng không bao giờ có thể hoàn toàn xóa bỏ các cuộc xung đột giữa các cá nhân và tổ chức.
Và các chính sách nhân sự này cũng không thể được luật hóa, và nỗ lực để làm như vậy là sai lầm. Trợ cấp của chính phủ cho việc chăm sóc trẻ em sẽ phân biệt đối xử một cách bất công với những gia đình có người mẹ ở nhà - khoảng một nửa các gia đình có trẻ em dưới 3 tuổi. Quan điểm cho rằng các chính sách này thúc đẩy sự bình đẳng cho phụ nữ đã được hiểu sai. Thụy Điển là quốc gia có chương trình hỗ trợ chăm sóc trẻ em sâu rộng nhất thế giới. Tuy nhiên, theo báo cáo từ một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu & Đào tạo Phụ nữ, thị trường lao động của Thụy Điển “có sự phân biệt giới tính đến một mức độ đặc biệt”. Hiếm khi thấy phụ nữ “xuất hiện trong... các vị trí quản lý”. Các bà mẹ vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc con cái.
Tất nhiên, trẻ em là lý do thực sự khiến cho những vấn đề này kéo dài. Hầu hết trẻ em đều tồn tại được ngay khi cha mẹ của chúng phạm sai lầm. Nhưng còn các bậc làm cha mẹ thì sao? Bạn không thể cùng lúc có mặt tại cuộc họp kinh doanh và đến Tổ chức Bóng chày Quốc tế cho Thiếu niên (Little League), theo cách nói của nhà báo Ellen Goodman[73]. Các con của tôi cũng làm phiền tôi, chúng khiến tôi mệt mỏi nhưng vui sướng. Chúng là những phần tốt đẹp nhất của tôi, và tôi sẽ không bỏ lỡ cơ hội chăm sóc nuôi dạy chúng.
Newsweek
Ngày 3 tháng 4 năm 1989
CÁCH THỨC VẬN HÀNH CỦA THẾ GIỚI NÀYCứ mỗi dịp đầu năm là chúng ta lại bị oanh tạc với hàng chục lời tiên tri. Một số dự đoán sẽ trở thành sự thật, một số thì không. Nhưng những gì gần như chắc chắn sẽ xảy ra - các xu hướng và các sự kiện quan trọng nhất trong năm tiếp theo - lại chẳng được dự đoán. Chẳng hạn như hồi năm ngoái, khi những bất ổn của nền kinh tế châu Á khiến hầu như tất cả mọi người đều phải ngạc nhiên, và nó vẫn thường xuyên như vậy. Rất hiếm người tiên đoán được sự xuất hiện bệnh AIDS, sự bùng nổ của Internet, và những giảm sút đáng kể trong vấn đề tội phạm và lạm phát. Các nhà tiên tri giỏi nhất của chúng ta thật quá tồi. Tại sao?
Một lời giải thích, tất nhiên, là do tính phức tạp của kỹ thuật. Sẽ là ai nếu không phải là một bác sĩ tỉnh táo, người lẽ ra phải biết các ca nhiễm AIDS đầu tiên và hình dung ra việc chúng lây lan sang hàng triệu người khác như thế nào? Tuy nhiên, tranh luận kiểu tương tự thế này - sự vô minh có thể lý giải được - sẽ khó có thể được thực hiện dễ dàng với Internet. Một thập kỷ trước, hàng triệu người Mỹ sử dụng máy vi tính, nhưng ít người nhìn thấy sự nổi trội của Internet. Thậm chí một số nhân vật được coi là chuyên gia (Bill Gates chẳng hạn) lúc ban đầu còn đánh giá sai lầm về các tác động của nó. Sai lầm này minh chứng rõ một nguồn lớn hơn các điều ngớ ngẩn của chúng ta: cách thức mà hầu hết chúng ta dùng để quan sát sự thay đổi.
Chúng ta thường nhìn nhận quá trình thay đổi này cũng giống như việc nấu nước sôi. Nó diễn tiến từ từ và có thể dự đoán được. Nước ấm dần lên, nóng rồi sôi. Nhưng có nhiều sự thay đổi là đột ngột và đầy kịch tính. Nó khác với những gì xảy ra trước kia. Hãy thử xem xét một vài phép loại suy mang tính khoa học khác. Nước tinh khiết vẫn có thể được dần dần hạ nhiệt xuống dưới điểm đóng băng mà vẫn ở dạng lỏng. Nhưng dùng bất cứ vật chất gì khác chạm vào nước, và nó ngay lập tức đông lại thành nước đá. Một giây trước nó vẫn còn ở thể lỏng, ngay trong giây thứ hai đã thành thể rắn. Hoặc xem xét hai khối uranium. Đặt cùng với nhau, chúng vô hại. Tuy nhiên, khi sắp xếp lại các nguyên tử uranium, bạn có thể đạt đến “khối lượng tới hạn” (critical mass: khối lượng đủ để gây phản ứng dây chuyền - ND) và, có thể hiểu là một quả bom nguyên tử. Cuộc sống và lịch sử không phải luôn luôn thay đổi từ từ giống như nước được đun sôi. Đôi khi chúng là một dạng “khối lượng tới hạn”, kích hoạt cho sự thay đổi triệt để.
Bây giờ chúng ta đều biết rằng các nền kinh tế đang bùng nổ ở châu Á đã đạt đến “khối lượng tới hạn” của chúng và dẫn đến tình trạng sụp đổ như ngày nay. Các nước đã tiến hành nhiều khoản đầu tư tồi tệ - vào các cao ốc văn phòng ở Thái Lan, các nhà máy ở Hàn Quốc - đến mức không thể thu hồi được các khoản tiền được dùng để xây dựng chúng. Nhưng trong triều đại của những người lạc quan về một “thần kỳ châu Á” thì chẳng ai xâu chuỗi lại các điểm rời rạc. Một vài dự án xấu đã được hủy bỏ, coi như những sai lầm riêng lẻ.
Phản ứng dây chuyền đã xảy ra bởi vì nhận thức đã thay đổi. Thái Lan phá giá tiền tệ hồi đầu tháng Bảy, thừa nhận (thực sự) rằng vấn đề của họ đã lan ra quá rộng, họ không còn có thể trả tất cả các khoản nợ. Điều tương tự đã sớm được phát hiện ra ở các nước khác. Lo sợ chuyện phá giá tiền tệ, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đổ xô đi bán ra bằng hết những đồng nội tệ và chứng khoán. Việc bán trong hoảng loạn sau đó - khiến nhiều thị trường tiền tệ và chứng khoán suy sụp - làm tình hình tồi tệ hơn. Nhưng đó không phải là các trường hợp tháo chạy phi lý (như nhiều người vẫn nghĩ).
Những trường hợp này không phải là những biến động nhanh chóng, mà là các quá trình thay đổi dần dần, theo đó các hậu quả cuối cùng của chúng không được thừa nhận, bởi vì chúng đã 1) mâu thuẫn với các quan niệm phổ biến; và 2) không thể xảy ra cho đến khi vượt qua được một cái ngưỡng nào đó. Quá trình này có thể áp dụng cho một số vấn đề xã hội và kinh tế Hoa Kỳ - như tác giả Malcolm Gladwell đã tranh luận trên tờ The New Yorker: chúng có thể đạt đến một “điểm tới hạn” sau khi đã gia tăng hay sút giảm nhanh chóng. Điều này, theo ông, có thể đúng với vấn đề tội phạm. Một ví dụ mang tính giả thuyết cho thấy lý do tại sao.
Giả sử một thị trấn ban đầu có 100 tên tội phạm: 10 tên bị bắt mỗi năm, và 12 người dân thường khác lại trở thành tội phạm. Lúc đầu, tội phạm tăng chậm. Trong năm thứ nhất, tỷ lệ tội phạm chỉ tăng thêm 2%. Nhưng sau 5 năm, tỷ lệ này sẽ tăng 10%, và tại một mức nào đó (điểm tới hạn), nó có thể tăng rất cao. Cảnh sát tràn ngập khắp nơi. Họ vất vả hơn trong việc xử lý tội phạm; người dân trở thành tội phạm nhiều hơn và họ phạm nhiều tội hơn nữa. Bây giờ hãy đảo ngược các giả định. Thị trấn này được tăng cường thêm 20% lực lượng cảnh sát, 12 tên tội phạm bị bắt hàng năm. Thời hạn tù dài hơn giúp ngăn chặn số người phạm tội; và hàng năm chỉ có thêm 10 tên tội phạm mới. Tội phạm giảm dần dần, và tại một mức nó có thể giảm hẳn. Cảnh sát giải quyết và ngăn chặn được các vụ phạm tội nhiều hơn. Có ít người trở thành tội phạm hơn.
Tất cả những điều này có thể làm cho hiện tượng tỷ lệ tội phạm giảm xuống trở nên ít thần bí hơn chút ít (năm 1997, tại Los Angeles đã có dưới 600 vụ giết người, con số này lần đầu tiên đạt được kể từ năm 1977; và số lượng vụ giết người tại New York là 756 tính vào cuối tháng 12 chỉ chiếm một phần ba số lượng năm 1992 của địa phương này). Nó cũng có thể giải thích mức lạm phát thấp ngoài mong đợi (1,8% trong năm qua). Một khi các công ty tin tưởng rằng chính phủ sẽ làm giảm lạm phát, họ sẽ hành động theo những cách thức - cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả - giúp giảm lạm phát. Việc tăng giá sẽ làm cho họ cạnh tranh kém hơn. Tương tự, một số xu hướng thuận lợi gần đây (tỷ lệ phá thai và nữ giới ở tuổi thiếu niên mang thai giảm xuống) cuối cùng đã có thể chứng minh sự thay đổi lớn đáng ngạc nhiên. Khi người dân thay đổi, sức mạnh từ các tấm gương của họ có thể gây ảnh hưởng đến những người khác.
Bài học ở đây là: những thay đổi nhỏ tự nuôi dưỡng chúng, khiến cho con người (và các tổ chức) có hành vi theo một cách khác, và sau đó kết tinh thành sự thay đổi lớn. Như Gladwell đã lưu ý, không phải tất cả mọi thay đổi đều diễn ra “theo một đường thẳng”. Niềm tin vào sự thay đổi “theo đường thẳng” như trên vẫn tồn tại bởi vì nó làm cho mọi thứ có vẻ đơn giản và kiểm soát được. Nếu muốn nước nóng hơn, chúng ta chỉ cần chỉnh nhiệt lượng cao hơn. Tuy nhiên, đây không phải là cách mà thế giới này thường vận dụng.
Newsweek
Ngày 12 tháng 1 năm 1998
LIÊN ĐOÀN IVY[74] LÀ VÔ DỤNG?Chúng ta đều biết rằng học đại học là điều thiết yếu cho sự thành công xét về khía cạnh kinh tế. Các trường đại học càng có uy tín lớn thì khả năng thành công càng cao. Theo học tại Yale hay Stanford thì vẫn tốt hơn các trường khác, chẳng hạn như Arizona State. Những người có năng lực ban đầu là như nhau sẽ làm tốt hơn và kiếm được nhiều tiền hơn sau khi tốt nghiệp từ một trường học danh giá. (Người ta nói rằng) Các khoản tiền thưởng phát xuất từ các liên kết tốt hơn, các bạn học sáng giá hơn, các khóa học khó khăn hơn, hoặc giáo sư cao cấp. Sự hoảng sợ của nhiều bậc phụ huynh khi con cái mình sẽ không được học tại các trường đại học xứng đáng đã hỗ trợ cho sự bùng nổ của rất nhiều sách hướng dẫn, các nhà tư vấn, và các công ty gia sư nhằm giúp đỡ học sinh trong cuộc chạy đua để được nhập học.
Vấn đề ở đây là những gì mọi người nhìn nhận thường là sai. Theo học tại Harvard hoặc Duke sẽ không tự động tạo ra một công việc tốt hơn và mức lương cao hơn. Sinh viên tốt nghiệp của các trường này thường làm việc tốt. Nhưng họ làm tốt vì họ có tài năng. Nếu họ chọn các trường đại học khác ít danh tiếng hơn, họ sẽ (nhìn chung) vẫn làm được tốt y như vậy. Kết luận, Liên đoàn Ivy - cách nói ẩn dụ cho tất cả các trường đại học danh giá - có lợi thế so sánh không đáng kể. Họ có thể đánh bóng các sinh viên với các học bổng hấp dẫn và kích thích các sinh viên khác. Nhưng các trường không làm cho sinh viên thành công. Chính các sinh viên tự tạo ra sự thành công cho riêng họ, và điều này làm cho các trường trông “có giá” hơn.
Bằng chứng của nhận định này được trình bày trong một nghiên cứu mới đây của Alan Krueger, nhà kinh tế học tại Princeton, và Stacy Berg Dale, một nhà nghiên cứu của Tổ chức Andrew W. Mellon. Cho đến nay, các nghiên cứu về việc học đã cho thấy rằng: các trường đại học danh giá đã nâng mức thu nhập của các sinh viên tốt nghiệp từ đó vượt cao hơn khả năng thật sự của họ. Mức chênh lệch thu nhập là vào khoảng từ 3% đến 7% cho mỗi 100 điểm SAT[75] chênh lệch giữa các trường. Giả sử bạn theo học tại Princeton và tôi đi đến trường Podunk; điểm SAT trung bình của Princeton cao hơn Podunk là 100 điểm. Sau khi có các điều chỉnh khác (thu nhập của cha mẹ, chủng tộc, giới tính, điểm SAT, thứ hạng trong trường trung học), các nghiên cứu nhận thấy rằng bạn vẫn có thể kiếm được nhiều tiền hơn tôi một chút. Nếu thu nhập của tôi là 50.000USD, thì bạn có thể kiếm được 53.500USD (nghĩa là cao hơn 7%).
Nhưng Dale và Krueger nghi ngờ rằng ngay cả sự chênh lệch này - dù không quá lớn - vẫn có thể là một “điểm uốn” mang tính thống kê. Họ viết, vấn đề là những sinh viên đến học tại bất cứ trường đại học nào danh giá hơn sẽ có thể có khả năng tạo thu nhập cao hơn. Các phẩm chất quan trọng cho việc được nhận vào học cũng được đền bù xứng đáng trên thị trường lao động sau đó. Đó có thể là những phẩm chất gì? Kỷ luật. Sức sáng tạo. Khát vọng. Kiên trì. Chín chắn. Một số khả năng đặc biệt. Người phụ trách tuyển sinh có thể phát hiện những phẩm chất này từ các cuộc phỏng vấn hoặc độ khó của khóa học (khác nhau tùy điểm số trung bình). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đó đã không nắm bắt được những yếu tố này.
Để làm được điều này, Dale và Krueger đã khảo sát 1976 tân sinh viên tại 34 trường đại học, từ Yale, Bryn Mawr, và Swarthmore (những nơi có điểm SAT cao nhất) đến Penn State và Denison University (có điểm thấp nhất). Chênh lệch điểm SAT giữa các trường cao nhất và thấp nhất là khoảng 200 điểm. Dale và Krueger tìm hiểu xem các trường nào đã tiếp được chấp nhận và từ chối những sinh viên, cũng như các khoản thu nhập tương lai của họ. Đến năm 1995, nam sinh viên tốt nghiệp với việc làm toàn thời gian có mức thu nhập trung bình là 89.026USD; lao động nữ tốt nghiệp đại học có thu nhập trung bình là 76.859USD.
Dale và Krueger sau đó so sánh những sinh viên tốt nghiệp đã được chấp nhận và bị từ chối bởi cùng một trường (hoặc các trường tương tự nhau). Lý thuyết được sử dụng là: các nhân viên tuyển sinh đánh giá và xếp theo thứ hạng các phẩm chất cá nhân, từ độ chín chắn đến khát vọng. Những sinh viên có quá trình tiến bộ tương tự nhau sẽ có thế mạnh gần giống nhau; sau đó, Dale và Krueger so sánh thu nhập của các sinh viên này, không phân biệt họ đã xuất phát từ đâu. Không có sự khác biệt gì cả. Giả sử rằng Princeton và Podunk chấp nhận bạn và tôi đến học, nhưng bạn theo học tại Princeton và tôi đến Podunk. Ở mức trung bình, cả tôi và bạn sẽ tạo thu nhập ngang nhau. (Kết quả cũng không đổi đối với người da đen và người da trắng, làm suy yếu thêm trường hợp ưu đãi nhập học do yếu tố chủng tộc. Ngoại lệ duy nhất là các sinh viên nghèo hơn, bất chấp chủng tộc; số lượng các sinh viên này chỉ tăng nhẹ trong một trường đại học danh tiếng).
Lời giải thích có lẽ khá đơn giản. Tại hầu hết các trường đại học, sinh viên đều có thể hưởng một nền giáo dục tốt đẹp nếu họ cố gắng. Dale và Krueger viết: mỗi sinh viên có năng lực đang theo học tại một trường đại học cấp thấp hơn có thể tìm đến các sinh viên có năng lực khác để cùng nhau học tập. Tương tự, thậm chí trong các trường danh tiếng vẫn có những kẻ dốt nát và lười biếng. Một khi bạn đã ra thị trường việc làm, việc bạn đã từng học trường đại học nào có thể là vấn đề trong một vài năm, vào buổi đầu của sự nghiệp. Các công ty không biết nhiều về các ứng viên trẻ tuổi. Một hồ sơ năng lực sáng chói (bằng cấp của Liên đoàn Ivy) có thể gây ấn tượng. Nhưng sau đó thì những gì một người có thể làm hoặc không thể làm được mới là điều đáng quan tâm. Các kỹ năng phát triển cao hơn. Danh tiếng nổi lên. Các công ty có vẫn ưa thích những người có năng lực học từ trường Podunk, hơn là những người không đủ năng lực đến từ Princeton.
Nếu bạn không thể (hoặc sẽ không) tận dụng các lợi thế do Princeton cung cấp, trường này đã không làm tốt công việc của mình. Những gì mà các sinh viên đem lại cho trường đại học mới là quan trọng hơn so với những gì nhà trường mang đến cho sinh viên. Bài học này rất thích đáng, không chỉ đối với các trường đại học danh tiếng. Xét dưới góc độ xã hội, chúng ta đã đem các trường đại học “đi bán dạo” như là một liệu pháp chữa trị nhiều tệ nạn xã hội. Xã hội cần nhiều người lao động có tay nghề cao. Vì thế cứ gửi thêm nhiều sinh viên đến các trường đại học. Người tốt nghiệp đại học có thu nhập cao hơn nhiều so với thu nhập của người tốt nghiệp trung học. Vì vậy - để tăng thu nhập - hãy gửi thêm nhiều sinh viên đến các trường đại học. Trong khía cạnh này thì chúng ta đã thành công. Có lẽ, ba phần tư số lượng học viên tốt nghiệp trung học đều đến học đại học, bao gồm cả các trường đại học cộng đồng.
Nhưng một nửa hoặc hơn đã không hoàn tất chương trình học đại học. Một nghiên cứu mới của Bộ Giáo dục (“Đại học cho tất cả mọi người?”) báo cáo rằng các sinh viên này chỉ có các kỹ năng và thu nhập rất khiêm tốn. Điều gì quyết định người sinh viên nào sẽ hoàn tất khóa học? Trong một báo cáo khác, Clifford Adelman - một nhà nghiên cứu cao cấp của Sở Giáo dục - thấy rằng các yếu tố mạnh nhất là độ khó của các khóa học tại trường trung học. Và kết quả tìm thấy là đúng nhất đối với các sinh viên da đen và gốc Mỹ Latin. Không có đủ tiền (không đủ hỗ trợ tài chính) cũng giải thích vài trường hợp bỏ học giữa chừng. Các khóa học có yêu cầu cao đã mang nhiều ý nghĩa hơn là việc truyền tải những kỹ năng đúng đắn. Chúng còn cung cấp những trải nghiệm - và giúp học sinh thấm nhuần sự tự tin - khi hoàn thành một công việc khó khăn nào đó.
Làm thế nào để khích lệ sinh viên làm tốt nhất? Làm thế nào để khiến cho các trường trung học có yêu cầu cao, trong khi vẫn hấp dẫn học sinh? Làm thế nào để truyền tải các giá trị quan trọng (kỷ luật, khả năng xoay sở, tinh thần trách nhiệm) đến các thanh thiếu niên, trong thời điểm (tâm lý) xáo trộn nhất trong cuộc đời? Đây là những câu hỏi khó cho các bậc phụ huynh và toàn xã hội. Nếu các câu trả lời đã hiển nhiên rõ ràng, chúng ta hẳn đã nắm bắt được. Nhưng đi học đại học - thậm chí là Harvard - không phải là “con đường tắt” để giải quyết vấn đề.
Newsweek
Ngày 1 tháng 11 năm 1999
INTERNET VÀ GUTENBERGTrong thời đại mà mọi người đều tự co vào trong bản thân mình (self-absorbed), mọi thứ đều có thể là cái Mới nhất hoặc Lớn nhất. Tinh thần này chắc chắn đã khiến cho Internet trở nên thứ có ý nghĩa vô cùng to lớn. Steve Case của công ty American Online đã gọi thế kỷ mới này là “thế kỷ của Internet”, và một số chuyên gia có thẩm quyền đang thì thầm rằng Internet có thể được so sánh với tầm vóc lớn lao của việc phát minh ra báo in trong thế kỷ XV của Gutenberg. Chúng ta đã lãng quên lịch sử.
Giả sử bạn đã được sinh ra vào năm 1900. Bạn sẽ không được xem phim (bộ phim câm (không có tiếng) đầu tiên, The Great Train Robbery, được trình chiếu vào năm 1903), chứ đừng nói gì đến truyền hình toàn cầu. Máy bay khi đó còn chưa được phát minh, và Henry Ford chưa kịp sản xuất Model T đầu tiên mãi cho đến năm 1908. Dưới 10% các hộ gia đình Mỹ có điện thoại, và ít hơn 8% có điện. Kháng sinh vẫn chưa được tìm thấy.