← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ II - Chương 8 PARIS

Những khu phố đẹp nhất của Paris không nằm trên tuyến đường từ khu nhà Vilet đến trường đại học Xooc-bon (Sorbonne) và cuộc hành trình chẳng chóng vánh hoặc là khó khăn ghê gớm gì. Phố Đức quốc, nơi vợ chồng chị Brô-ni-a ở vẫn có xe khách, loại xe ba ngựa kéo, hai tầng, lên tầng trên bằng một cầu thanh xoáy ốc chóng cả mặt, chở đến ga đằng đông. Từ đây tới phố Các trường, lại một chuyến xe nữa.

Tay cắp chiếc cặp da cũ có từ thời còn ở trường “Đại học di động”, Ma-ri-a cố nhiên trèo lên ngồi ở tầng thượng trống trải và dãi dầm mưa nắng – rẻ tiền mà thích thú hơn biết chừng nào. Chót vót trên cái đài quan sát di chuyển ấy, gió đông thổi rát cả mặt, cô gái cúi người chăm chú nhìn. Cái phố La-fay-et (La Fayette) dài dằng dặc chán ngấy, nhưng cần quái gì? Rồi đại lộ Xê-ba-tô-pôn ( Sébastopol) chỉ toàn cửa hiệu nối đuôi nhau đến buồn tẻ, cũng cần quái gì? Những gian hàng đó, những cây trụi hết lá, cái đám đông ấy, cái mùi bụi bậm ấy, tất cả đó là Paris…Đây rồi, Paris!

Đến Paris, sao mà người ta thấy trẻ thế, sung sức thế, như muốn bay nhảy, tràn đầy hy vọng! Và đối với một cô gái Ba Lan quả là một cảm giác giải phóng tuyệt vời.

Đang mệt mỏi, phờ phạc sau một cuộc hành trình vất vả, từ lúc đặt chân xuống sân ga Phương Bắc (Gare du Nord) khói mù, Ma-ri-a cảm thấy đôi vai nhẹ bỗng đi, buồng phổi trái tim thở, đập khoan khoái, dễ chịu vì ách nô lệ không còn nữa.

Với khoản tiền nhỏ dành dụm từng đồng rúp một, giờ đây cô đã có quyền được dự thính những bài giảng mà mình thích. Có biết bao môn học, giờ giấc phân phối ghi đầy bảng thông báo. Cô lại có một chỗ trong phòng thí nghiệm, có người chỉ dẫn, khuyên bảo cho cách sử dụng các dụng cụ, không phải mò mẫm. Cô đã làm được các thí nghiệm. Vui sướng biết chừng nào! Ma-ri-a nay đã là một nữ sinh viên đại học khoa học!

Từ nay, tên cô không phải là Maria, cũng không phải là Manya.Trên tờ giấy đăng ký sinh viên, cô đã viết tên mình theo tiếng Pháp “Marie Xkhua-đốp-xka”. Nhưng vì bạn bè không đọc nổi mấy vần quái ác Xkhua-đốp-Xka mà cô gái Ba Lan không muốn ai gọi mình cộc lốc là Ma-ri (Marie) nên cô hầu như vẫn mang một tên vô danh bí mật. Cô gái có mái tóc nhẹ nhàng màu nâu nhạt, ăn mặc khắc khổ nghèo nàn, vẻ mặt lạnh lùng, mỗi lần đi ngang qua hành lang đầy tiếng vang thường khiến các thanh niên ngạc nhiên quay lại hỏi nhau: “Ai đấy?”. Nếu có người trả lời thì cũng chỉ chung chung, lờ mờ:”Chị ta là một người nước ngoài.Tên gọi khó lắm! Luôn luôn ngồi hàng đầu lớp vật lý. Tính rất ít nói!”. Đám thanh niên nhìn theo bóng dáng xinh tươi cho đến khi cô đi khuất ở hành lang và kết luận: “Mái tóc đẹp”.

Mái tóc màu tro, vẻ mặt Xla-vơ. Một thời gian khá lâu,đám sinh viên Xoóc-bon (Sorbonne) chỉ biết được có thế về cô bạn gái trầm lặng khó gần ấy.

Lúc này, cô đâu còn tâm trí để ý đến đám thanh niên. Cô đang bị những ông có dáng điệu nghiêm trang làm mê hoặc, cô đang muốn khám phá ra bí quyết học thức uyên thâm của những người được gọi là “Các giáo sư đại học”. Thời đó, các giáo sư lên lớp đều mặc một kiểu đồng phục: cà vạt trắng, quần áo dạ đen luôn luôn đầy bụi phấn. Ma-ri bị thu hút vào những bộ quần áo trang trọng ấy, những bộ râu màu xám ấy.

Hôm kia là giáo sư Lip-man, có lối giảng điềm đạm và chí lý. Hôm qua được nghe ông Bu-ti, mặt xấu xí nhưng đầu chứa đựng cả một kho tàng khoa học. Ma-ri muốn dự tất cả những bài giảng của hai mươi ba giáo sư có tên trên bảng trắng. Cô tưởng như không bao giờ thỏa mãn được khao khát học hỏi đang bừng cháy.

Mấy tuần lễ đầu, Ma-ri đã vấp phải nhiều khó khăn bất ngờ. Cô tưởng cô đã hiểu thấu tiếng Pháp. Cô đã nhầm. Nhiều khi vì không nghe kịp và không hiểu, cô phải bỏ mất từng câu dài. Cô cũng tưởng mình có một vốn khoa học khá vững để dễ dàng theo dõi những bài giảng ở đại học đường. Song những buổi tự học ở thôn quê trong buồng riêng của một cô giáo dạy tư ở Schuc-ki, những hiểu biết thu thập qua thư từ trao đổi với ông giáo, những thí nghiệm bấp bênh tại bảo tàng kĩ nghệ và Nông lâm làm sao thay thế được chương trình tú tài chắc nịch của những học sinh trung học ở Paris. Ma-ri còn nhìn ra nhiều chỗ trống trong kiến thức của mình về toán và lý. Giờ đây, phải ra sức làm việc, từng giờ từng phút, mới hòng giật được cái bằng cử nhân khoa học tốt đẹp mà mình từng mong ước.

Trong đại giảng đường thấp dần từng bậc, ánh sáng tháng chạp chiếu mờ mờ, Ma-ri đến đầu tiên, chọn một chỗ ở hàng ghế thấp nhất gần bục giảng. Cô xếp bút và sách vở có thứ tự, quyển vở bọc vải xám chốc nữa sẽ ghi chép bằng một nét chữ đẹp đều đặn. Ngay từ phút này, cô đã tập trung tư tưởng, không còn nghe thấy chung quanh ào ào như ong vỡ tổ rồi bỗng im bặt.

Lạ thật, nhiều ông thầy có thể tạo ra một sự im lặng gần như căng thẳng. Nghe Pôn A-pen lên lớp, trình bày mạch lạc, văn vẻ, cả giảng đường cúi xuống, những khuôn mặt đẹp làm sao trong nếp nhăn vì tập trung chú ý ghi ghi chép chép các phương trình do nhà bác học viết trên bảng đen. Nơi đây chỉ có những học trò say sưa mà thôi! Đây là thế giới của toán học!

Giáo sư A-Pen trông thật uy nghiêm trong bộ y phục cứng nhắc và với khuôn mặt có chòm râu vuông. Giọng điềm đạm, nhằn từng chữ với kiểu nói hơi nặng của vùng An-dat-xơ Ignace Paderewski) [29]. Ông có lối chứng minh gọn gàng sáng sủa đến nỗi tưởng như không có gì khó khăn nữa và có thể biến đổi thế giới theo ý muốn của mình. Vững vàng và bình tĩnh,ông đi sâu vào những lĩnh vực tế nhị nhất của trí tuệ, rồi như đánh tung hứng với các con số, các vì sao. Pôn A-pen không ngại dùng hình ảnh táo bạo, và nói với giọng bình thản và điệu bộ khoan thai như một người chủ:

“Tôi cầm mặt trời và ném…”

Cô gái Ba Lan ngồi nghe với một nụ cười ngất ngây. Dưới vầng trán cao, đôi mắt màu tro xưa nay thầm kín thế, bỗng sáng rực lên sung sướng. Sao người ta có thể cho khoa học là khô khan nhỉ? Còn gì hấp dẫn hơn là những quy luật cố định vẫn ngự trị thế giới từ bao đời nay, và còn gì đáng khâm phục hơn là trí tuệ con người đã khám phá ra chúng? Bên cạnh những hiện tượng rất đặc biệt, nối liền với nhau theo những nguyên tắc rất hài hòa, bên cạnh cái trật tự nằm trong cái hỗn độn bên ngoài, tiểu thuyết trở nên vô nghĩa, và những chuyện thần thoại bỗng hóa nghèo nàn về trí tưởng tượng. Tâm hồn cô gái bừng nở một nhiệt tình chỉ có thể so sánh với tình yêu, muốn đi sâu vào kiến thức vô tận, vào vật chất và quy luật của nó.

“Tôi cầm mặt trời và ném..”

Được nghe câu nói đó của một nhà học giả uyên bác và điềm đạm, cũng bõ công bấy lâu phấn đấu gian khổ.

Nỗi niềm sung sướng của Ma-ri không lời nào tả xiết.

Chồng của Brô-ni-a viết cho cụ Xkhua-đốp-xki:

“Kính thưa cha.

…Ở bên này, mọi việc đều tốt lành. Cô Ma-ri học hành rất nghiêm túc, hầu như ở Xooc-bon suốt cả ngày, đến bữa ăn chiều mới về nhà. Mặc dầu cha đã biên thư rõ ràng, giao cho con trách nhiệm bảo ban, nhưng cô ấy rất tự ý, chẳng những không kiêng nể và nghe theo lời con, mà còn nhạo báng mỗi lần con tỏ ra nghiêm nghị. Con mong sẽ đưa dần vào khuôn khổ, nhưng cho đến nay, khoa sư phạm của con chưa có hiệu quả gì. Tuy thế nhưng hai anh em vẫn rất vui vẻ hòa thuận.

Con rất sốt ruột mong Brô-ni-a sớm trở lại đây. Song cô nàng không tỏ vẻ vội vã muốn về mặc dầu ở nhà rất cần sự có mặt của nhà con.

Xin nói thêm là độ này cô Ma-ri rất hồng hào tươi tắn.

Xin chúc cha khỏe mạnh”.

Đó là tin tức đầu tiên bác sỹ Du-xki viết về cô em vợ mà anh nhận trách nhiệm thu xếp cho đến ở phố Đức quốc trong thời gian Brô-ni-a về Ba Lan vài tuần. Chẳng phải nói, Ma-ri được người anh rể vui tính và hay châm biếm này tiếp đón vồn vã nồng nhiệt thế nào. Trong đám kiều dân Ba Lan ở Pháp, Brô-ni-a đã khéo chọn được một đối tượng đẹp trai nhất, xuất sắc nhất, có duyên nhất. Con người hoạt bát làm sao! Ca-di-mia Du-xki trước học ở Pê-tec-bua, O-đét-xa, Vác-xô-vi. Bị tình nghi dính líu đến vụ ám sát Sa hoàng Alec xăng II (Alexander), anh phải trốn ra nước ngoài, ở Giơ-ne-vơ (Genève) hoạt động tuyên truyền cách mạng, ở Pháp vào trường khoa học chính trị Paris rồi chuyển sang học Y và trở thành bác sỹ.

Nghe đâu gia đình anh ở Ba Lan thuộc tầng lớp giàu có. Trong hồ sơ của bộ ngoại giao Pháp còn có một bản lý lịch dựa trên điều tra của cảnh sát Nga hoàng khiến anh không được nhập quốc tịch Pháp và không được mở phòng khám bệnh ở Paris.

Khi trở về, Brô-ni-a được chồng và em gái vui mừng chào đón. Quả là trong nhà đang cần sự chăm nom của chị, một người nội trợ đảm đang tháo vát. Chỉ sau vài giờ trật tự lại trở lại với gian nhà ở gác hai có bao lơn rộng rãi nhìn ra hàng cây cổ thụ ở phố Đức quốc. Bữa ăn lại thơm tho ngon lành, nhà cửa lại gọn gàng ngăn nắp, sạch bóng không một hạt bụi, hoa tươi mua về cắm đầy lọ. Brô-ni-a thật khéo thu xếp!

Việc dọn đến khu Vi let (Viette), gần công viên Sô-mông(Chaumont) ở ngoại ô Paris chính là do Brô-ni-a. Chị không muốn ở trung tâm thành phố. Chị đã vay một ít tiền vài lần đến nhà Tầm tầm. Rồi một buổi sáng nọ, gian nhà mới thuê có thêm một bộ bàn ghế kiểu Vơ-ni-dơ diêm dúa và xinh xắn, một đàn pi-a-nô và các cửa sổ đều có rèm che xếp liền nếp rất đẹp.Thế là tạo ra được một không khí rất ấm cúng. Brô-ni-a còn khéo sắp đặt thời gian cho mỗi người. Giờ này, phòng khám dành để Ca-di-mia tiếp những người ốm thuộc các cửa hàng thịt và lò lợn. Giờ khác đến lượt Brô-ni-a thăm thai cho sản phụ cũng ở đây. Hai vợ chồng rất chịu khó đến từng nhà thăm hỏi bệnh nhân đang điều trị.

Nhưng tối đến, khi lên đèn, mọi lo nghĩ trong ngày đều gác lại. Ca-di-mia Du-xki thích vui chơi, giải trí. Mệt mỏi, túng thiếu không hề làm giảm sút tính hoạt bát, vui nhộn của anh. Sau những ngày làm việc căng thẳng, thỉnh thoảng anh vẫn dành một tối đi xem hát lấy vé hạng ít tiền nhất. Hoặc giả, nếu thiếu tiền thì anh ngồi đánh pi-a-nô vì anh đàn rất hay. Đến khuya vẫn có tiếng chuông gọi cửa, bạn bè là những cặp vợ chồng trẻ người Ba Lan biết rằng “lúc nào cũng có thể đến chơi nhà Du-xki được”. Và mỗi lần có khách, Brô-ni-a rất nhanh, biến rồi lại hiện, chỉ thoáng một cái, ấm chè bốc khói đã đặt lên bàn bên cạnh những cốc nước lọc và bánh ngọt mà chị bác sỹ vừa mới làm vội ban trưa, giữa hai đợt khám bệnh.

Một buổi tối, Ma-ri đang mải đọc trong buồng nhỏ của cô ở đầu nhà, tính làm việc đến khuya thì anh rể chạy vào.

- Lấy áo, mũ mau! Ta đi nghe hòa nhạc, tôi có vé mời đây rồi!

- Nhưng…

- Không nhưng gì cả! Đây là cái anh Ba Lan chơi pi-a-nô tôi đã kể chuyện với cô. Vé bán được rất ít, chúng mình phải đến dự cho đông. Tôi đã rủ thêm nhiều anh em khác, chúng ta vỗ tay hăng vào để tạo ra một không khí thắng lợi. Cô chưa biết chứ anh ta chơi khá lắm!

Khó mà cưỡng nổi sự lôi kéo của Du-xki, cái anh “quỉ sứ” rậm râu, mắt đen tươi sáng ấy, Ma-ri đành gập sách, đóng sập cửa. Mấy anh em lao xuống cầu thang. Vừa ra đến phố thì xe ngựa phi nước kiệu đang tiến đến. Thế là phải chạy ba chân bốn cẳng để khỏi nhỡ chuyến.

Một lúc sau, Ma ri đã ngồi trong phòng hòa nhạc E-ra còn ba phần tư ghế bỏ trống. Trên bục xuất hiện một người gầy và cao, nét mặt khác thường, tóc da màu đồng như tỏa hào quang, rực lửa. Anh đến ngồi trước pi-a-nô. Dưới ngón tay thần tình của anh, Litx, Su-man, Sô-panh lần lượt sống lại. Vẻ mặt anh cao thượng và tự hào, đôi mắt nhìn xa đầy cảm hứng. Ma-ri say sưa nghe người nhạc sỹ lạ lùng ấy và cảm thấy dưới bộ quần áo biểu diễn bóng loáng, trước những hàng ghế trống gần hết, anh không có vẻ một nghệ sỹ mới vào đời, mà là một hoàng đế, một thiên thần.

Có nhiều tối, người nhạc sỹ ấy khoác tay một thiếu phụ rất đẹp đến phố Đức quốc. Đó là bà Gooc-xka người yêu và sau này là vợ anh. Anh nói đến cuộc đời khổ cực, những nỗi thất vọng và quá trình đấu tranh của mình, nhưng anh không tỏ ra cay đắng chút nào. Brô-ni-a và Ma-ri nhắc lại những kỉ niệm xa xưa, thời bà Gooc-xka còn là một cô gái 16 tuổi, có lần cùng đi với bà giáo đến nơi bà dưỡng bệnh. Brô-ni-a vừa kể vừa cười.

- Dạo đó, mẹ chúng em trở về Vác-xô-vi cứ nói là không dám dắt chị đi các nơi nghỉ mát vì chị đẹp quá!

Giữa câu chuyện, người thanh niên tóc bờm đỏ rực ấy bỗng cảm hứng gõ vài hợp âm. Như có phép lạ, cái pi-a-nô xuềnh xoàng của vợ chồng chị Brô-ni-a bỗng biến thành một cây đàn tuyệt diệu.

Người nghệ sĩ ấy trông hốc hác, thiếu ăn, nhưng duyên dáng biết bao. Anh đang yêu rạo rực, sung sướng mà cũng đau khổ.

Sau này, anh sẽ trở thành một nhạc sĩ thiên tài và một ngày kia, sẽ là chủ tịch hội đồng chính phủ của một nước Ba Lan giải phóng và kiến thiết lại.

Đó là I-nha-xơ Pa-đơ-rép-xki[30].

Say sưa với cuộc đời mới của mình, Ma-ri làm việc đến quên ăn quên ngủ. Một nguồn vui đối với cô là tình bạn bè giúp đỡ nhau học tập ở đại học.Vốn tính dè dặt, cô chưa kết bạn với sinh viên người Pháp và mới thân với những người đồng hương: hai bạn nữ học toán là Di-din-ka và Kra-kóp-xka, bác sỹ Mót, nhà sinh vật học Da-nit, anh Sa-lay sau này yêu Hê-la và sẽ là con rể của gia đình Xkhua-đốp-xki, anh Vôi-trê-khốp-xki, một chủ tịch tương lai của nước cộng hòa Ba Lan. Họ đều là bạn cô trong nhóm kiều dân tượng trưng cho một nước Ba Lan tự do ở cái khu La-tinh này. Cùng cảnh nghèo với nhau, họ thường tổ chức những buổi họp, những bữa liên hoan đêm No-en. Trong dịp này, có những đầu bếp xung phong nấu các món ăn Vác-xô-vi: xúp củ cải đỏ như hoa mào gà phải dùng nóng sốt, cải bắp nấu nấm, cá măng nhồi thịt, bành ngọt rắc hạt thuốc phiện… một vài chén rượu Vodka, rất nhiều nước chè. Có những nghệ sỹ tài tử đóng bi kịch và hài kịch. Chương trình in bằng tiếng Ba Lan có những bức vẽ tượng trưng: trên cánh đồng phủ tuyết, một túp lều, bên dưới buồng xép, một chàng trai mê mải đọc sách, một ông già Noel đang trút những sách khoa học qua ống khói lò sưởi của một phòng thí nghiệm. Và ngay đàng trước, là một cái túi rỗng chuột gặm.

Ma-ri thường dự vào các cuộc vui ấy. Cô không có thì giờ học các vai hài kịch. Nhưng trong một buổi liên hoan yêu nước do nhà điêu khắc Va-xin-khốp-xki tổ chức, cô được chọn để thể hiện hình tượng “nước Ba Lan phá xiềng xích”.

Tối hôm ấy, không ai nhận ra cô nữ sinh viên nghiêm trang hàng ngày nữa. Trên sân khấu, một người đàn bà lạ mặt, mặc chiếc áo dài cổ xưa với những nếp vải màu thạch lựu, quanh mình quàng nhiều khăn tô mỏng dài mang màu Tổ quốc, mớ tóc bung xõa xuống hai vai, bao quanh khuôn mặt cương nghị có đôi má Xla-vơ đã đem lại cho những người đang sống tha hương một hình ảnh Ba Lan thắm thiết.

Thế đấy, mặc dầu xa đất nước quê nhà, hai chị em Ma-ri và Brô-ni-a nào quên được Vác-xô-vi. Họ đã chọn đến ở phố Đức quốc này, bên lề cái thủ đô mà họ chưa dám vào hẳn, gần ngay ga Phương Bắc với những đoàn tàu đã đưa họ đến đây. Trăm nghìn dây vô hình ràng buộc nối hai cô gái Ba Lan đó với Tổ quốc, mà sợi dây thắm thiết nhất là thư trao đổi với cha.

Hai cô con nhà giáo nết na, lễ phép ấy biên thư cho cha chỉ dùng ngôi thứ ba[31] và lá thư nào cũng kết thúc bằng câu: “Con hôn tay cha yêu dấu”. Các cô tả cho cụ Xkhua-đốp-xki cuộc đời rực màu sắc của mình và nhờ cha trăm thứ vặt vãnh. Làm như ngoài Vác-xô-vi ra không còn đâu bán chè nữa, hoặc như khó lòng tìm mua được ở Pháp một cái bàn là dùng tạm!

Cố nhiên Ma-ri cũng thuật lại cho cụ giáo buổi dạ hội tại gia đình nhà điêu khắc và thành công của cô trong vai hoạt tượng “Ba Lan”. Nhưng rồi cô nhận thức rất nhanh rằng những cuộc vui chơi ấy ảnh hưởng đến việc học tập của mình nên tìm cách tránh. Phải đâu Ma-ri-a Xkhua-đốp-xka sang Pháp để đóng các vai hoạt cảnh? Mỗi giây phút không học hỏi là một giây phút mất đi.

Lại một khó khăn nữa. Ở phố Đức quốc, cuộc sống thú vị và êm đềm song Ma -ri không tìm được ở đây sự yên tĩnh của tâm hồn. Không thể cấm anh rể chơi đàn hoặc tiếp bạn bè hoặc cứ đến phòng cô trong lúc cô đang nghĩ cách giải những phương trình rắc rối. Cũng chẳng ngăn được bệnh nhân của hai bác sỹ lui tới ồn ào trong nhà. Ban đêm, Ma-ri thường giật mình tỉnh dậy vì tiếng chuông gọi cửa và tiếng guốc lộc cộc của những người đến mời Brô-ni-a đỡ đẻ.

Nhưng trước hết, ở cái khu Vi-let này vô cùng là phiền phức: phải mất một tiếng mới đến được trường Xooc-bon. Và tiền vé hai chuyến xe hàng lâu dần cũng thành quá đắt.

Ma-ri thấy cần dời ra ở khu La-tinh, gần trường Đại học, gần các phòng thí nghiệm, các thư viện. Anh chị Du-xki cứ khăng khăng bắt cô cầm lấy ít tiền chuyển nhà, Ma-ri tự mình đi xem và hỏi thuê những buồng xép ở sát nóc.

Từ giã ngôi nhà ở cái khu lò lợn này, Ma-ri không khỏi luyến tiếc khung cảnh bình dị mà đầy yêu thương, dũng cảm và vui tươi. Giữa Ma-ri và Ca-di-mia Du-xki đã nảy nở một tình cảm anh em ruột thịt gắn bó suốt đời. Còn với Brô-ni-a những năm vừa qua đã là một thiên tiểu thuyết mỹ lệ về sự hiến dâng và lòng trung hậu, về tinh thần tương trợ chân thành, thân thiết.

Mang bụng khệ nệ, Brô-ni-a ân cần gói ghém mấy thứ quần áo và đồ dùng sơ sài, tiều tụy của đứa em gái út, tất cả chất gọn trong một chiếc xe người kéo. Và một lần nữa, hai vợ chồng chị lại mua vé tầng thượng trên những chuyến xe khách nổi tiếng một thời để long trọng tiễn chân Ma -ri đến chỗ ở sinh viên của cô.

Chú thích:

[29] Miền Đông Bắc nước Pháp (Alsace)

[30] Ignace Paderewski (1860-1941) Nhạc sĩ biểu diễn piano và sáng tác, đồng thời là một nhà hoạt động chính tr ị người Ba Lan

[31] Trong tiếng Ba Lan ngôi thứ ba dùng chỉ người trên là một biểu hiện lễ độ.