Chương 9 BỐN MƯƠI RÚP MỘT THÁNG
Phải, đời Ma-ri (Marie) chưa đến nỗi nghèo túng xác xơ! Mấy tháng sống ở phố Đức quốc mới là một chặng đường thích nghi. Từ nay, cô gái sẽ dần dần dấn mình vào cảnh cô quạnh. Đối với Ma-ri, những người cô thường gặp hàng ngày giờ đây chẳng khác gì những vách tường cô vẫn đi chạm phải. Cô tự giam mình vào im lặng và họa hoằn lắm mới chào hỏi vài lời. Trong suốt ba năm tới đây, Ma-ri sẽ sống một cuộc sống hướng vào một việc duy nhất là học tập. Một cuộc sống như cô vẫn hằng mơ ước, một cuộc sống toàn thiện theo kiểu những người đi tu, những giáo sĩ.
Vả lại hoàn cảnh thực tiễn buộc Ma-ri phải sống thật giản dị, khắc khổ. Từ khi thôi không ăn ở tại nhà anh rể Du-xki, Ma-ri phải tự trang trải mọi chi tiêu. Thu nhập của cô – do tiền dành dụm từ trước đem chia thành từng khoản cộng với những số tiền nho nhỏ thỉnh thoảng cha gửi cho – thu gọn trong bốn mươi rúp mỗi tháng.
Làm thế nào mà một người phụ nữ, một người nước ngoài có thể sống tươm tất ở Paris-ri năm 1852 với bốn mươi rúp mỗi tháng, nghĩa là khoảng ba quan một ngày, mà phải chi bao nhiêu thứ, tiền nhà, tiền ăn, may mặc, tiền sách vở và học phí đại học. Đó là bài toán cần phải giải. Nhưng có lần nào Ma-ri lại không tìm ra lời giải cho một bài toán?
Không riêng gì Ma-ri mà nhiều chị em Ba Lan khác cũng nghèo như vậy, cũng phải sống với vẻn vẹn một trăm quan một tháng. Họ họp nhau lại thành từng nhóm ba, bốn người ăn chung, ở chung một buồng. Ai ở riêng thường cũng bỏ mấy giờ mỗi ngày tự nấu lấy ăn và khâu vá lấy quần áo, khéo sắp xếp vẫn có thể ăn no, mặc ấm và khá lịch sự là khác. Xưa kia, Brô-ni-a đã từng làm như vậy và chị đã từng nổi tiếng một thời ở khu La-tinh về tài nấu nướng.
Marie chẳng thiết gì theo những gương khôn ngoan ấy. Cô cần yên tĩnh hơn cả nên không thuê chung buồng với ai. Chỉ tha thiết muốn làm việc, cô chẳng còn đâu thì giờ nghĩ đến tiện nghi bản thân. Mà giá có muốn cũng chẳng làm được. Một người con gái từ năm mười bảy đã phải đi dạy học tư, ăn ở ngay nhà người ta, bận dạy học đến bảy, tám tiếng mỗi ngày, làm gì còn thì giờ để giỏi giang về nội trợ? Tất cả những gì mà Brô-ni-a học được khi còn giữ tay hòm chìa khóa ở nhà thì Ma-ri không biết. Và người ta kháo với nhau trong nhóm đồng hương Ba Lan, “Cô Xkhua-đốp-xka không hề biết xúp nấu bằng gì”.
Ma-ri không biết và cũng không muốn biết. Tội gì bỏ cả buổi sáng để tìm bí quyết nấu xúp trong khi cũng thời gian ấy có thể học được vài trang vật lý hoặc đến phòng thí nghiệm làm được một phân tích lý thú?
Trong chương trình hàng ngày, Ma-ri dứt khoát bỏ hết cả buổi giải trí, gặp gỡ bạn bè và đến cả khoản tiếp xúc với mọi người. Cô khẳng định đời sống vật chất là không quan trọng, thậm chí không có nữa. Trên nguyên tắc ấy, cô tự ghép mình vào một cuộc sống khắc khổ, lạ lùng.
Thư gửi Dô-dép ngày 17 tháng 3 năm 1893:
“Có thể nói bây giờ em làm việc được rất nhiều, gấp trăm lần dạo mới qua đây, còn ở phố Đức quốc, đằng chị Brô-ni-a, hồi đó cứ bị quấy rầy luôn. Anh Ca-di-mia, chồng chị Brô-ni-a hình như nghĩ rằng hôm nào em không đến trường thì chẳng còn việc gì khác ở nhà là tiếp chuyện anh ấy. Có lần em đã phải nói thẳng… mấy hôm sau cả hai anh chị đã tiếc, đến chỗ em và ba người lại uống trà với nhau vui vẻ.
Ở đằng nhà, chị dâu em vẫn săn sóc đến cha như chị đã hứa với em đấy chứ? Cha biên thư, bắt đầu nói về chị một cách âu yếm khiến em lo rồi cha quên em đấy!...”
Phố Phơ-lát-te, đại lộ Po Roay-an, phố Phơi-ăng-tin… Những chỗ ở mà Ma-ri thuê đều chung một đặc điểm là rẻ tiền và thiếu tiện nghi. Thoạt tiên cô đến một nhà trọ xoàng xĩnh có sẵn đồ đạc. Ở đây phần lớn là sinh viên có gia đình, thầy thuốc hoặc sĩ quan của doanh trại bên cạnh. Sau đó, muốn yên tĩnh hơn, cô tìm thuê một gian sát nóc, tầng trên cùng một ngôi nhà khá giả, là loại phòng dành cho người nhà. Với 15 hoặc 20 quan một tháng, chỉ có thể được một buồng cỏn con, không điện nước, không được sưởi ấm, ánh sáng lọt qua một cửa tò vò trên mái, chỉ đủ thấy một mảnh trời vuông.
Đồ đạc của Ma-ri vẻn vẹn có chiếc giường gấp bằng sắt và nệm mang từ Vác-xô-vi, một lò sưởi, một bàn gỗ tạp, một ghế làm bếp, một chậu, một bình xách nước, một bếp cồn vừa bằng cái đĩa, sẽ đủ dùng nấu ăn trong suốt ba năm trời, hai cái đĩa, một dao, một dĩa, một thìa, một bát, một xoong, một ấm và ba chén uống nước, để anh chị Du-xki có đến thì cùng ngồi dùng trà, theo tục lệ Ba Lan. Giờ đây, rất ít khách khứa, nhưng mỗi lần, Ma-ri đều đốt cái lò sưởi con, lôi chiếc rương vừa là chạn đồ đạc vừa là tủ áo ra để làm ghế ngồi.
Đương nhiên, Ma-ri phải tự dọn dẹp lấy. Dù chỉ thuê một giờ người giúp việc hàng ngày thì tiền công cũng quá nặng đối với cô. Mọi chi phí về tàu xe đã sút hẳn. Thời tiết thế nào cũng mặc, Ma-ri vẫn đi bộ tới Xoóc-bon. Tiền than giảm xuống mức tối thiểu: cả mùa đông, không quá hai bao tải than quả bàng mua ở cửa hàng góc phố. Cầu thang khó đi, mỗi đoạn lại phải nghỉ để thở, cô vẫn khệ nệ chuyển từng xô than lên tận tầng sáu. Để đỡ dầu đèn, tối đến, cô sang thư viện Xanh Giơ-nơ-vi-e-vơ, ở đó có đèn sáng, ấm áp, cô gái Ba Lan nghèo, hai tay ôm đầu, có thể làm việc tới 10 giờ đêm, mãi đến khi thư viện đóng cửa. Về nhà, chỉ cần đủ dầu thắp đèn đến hai giờ sáng, học cho đến khi mắt đỏ hoe lên, cô mới buông sách, lăn vào giường ngủ.
Ngoài học ra, việc duy nhất trong thực tế hàng ngày mà Ma-ri có thể làm là khâu vá. Đây là kỷ niệm của những giờ nữ công ở ký túc xá Xi-coóc-ca và những ngày dài đằng đẵng sống ở Schúc-ki cô vừa trông học trò, vừa khâu. Nào Ma-ri có thích diện gì. Ít khi thấy cô tìm mua những mảnh vải giá rẻ để cắt may một áo bờ-lu mới. Hình như cô đã thề không bao giờ rời những chiếc áo mang từ Vác-xô-vi, dù đã cũ nhẵn bóng hay sờn chỉ cô vẫn thích mặc và gìn giữ, năng chải chuốt, may vá. Khi học đã mệt, đôi khi cô cũng giặt giũ trong cái chậu thau, cho đầu óc “đỡ căng thẳng”.
Cô sinh viên nghèo đó không cho phép mình nghĩ đến đói hoặc rét. Để đỡ tiền than, và cũng do đãng trí, cô không hay đốt lò sưởi ống khói ngoằn ngoèo và mải viết những con số và những phương trình, không thấy rằng mấy ngón tay đã cóng và hai vai đang run rẩy vì rét.
Lúc này mà được bát xúp nóng hay miếng thịt rán thì khỏe ra đây! Nhưng Ma-ri nào có biết nấu xúp! Tội gì tiêu một phơ-răng và bỏ nửa giờ để lạng mỏng một miếng thịt!
Hầu như Ma-ri không hề đặt chân tới cửa hàng thịt và càng không biết đến hàng ăn vì quá đắt. Ngày nào cũng chỉ bánh mì bơ và nước chè. Nếu thèm ăn ngon thì vào một hiệu bánh ngọt ở khu La-tinh gọi hai quả trứng hoặc mua một thỏi sô-cô-la hay một thứ hoa quả mang về.
Cô gái hồng hào tươi tắn cách đây mấy tháng khi từ giã Vác-xô-vi nay sút hẳn đi vì kham khổ. Có lần Ma-ri vừa đứng dậy khỏi bàn, thấy choáng váng, chỉ kịp bước đến giường thì ngất. Tỉnh dậy, cô nghĩ có lẽ mình ốm nên mới ngất như vậy, nhưng lại coi thường bệnh. Cô không hề thấy rằng mình bị suy nhược và cái bệnh duy nhất của cô chỉ là thiếu ăn.
Cố nhiên Ma-ri không hề cho anh chị Du-xki biết cô đang sống như thế nào. Mỗi lần đến thăm anh chị, nếu có phải trả lời những câu hỏi của Brô-ni-a về làm bếp, nấu ăn có tiến bộ gì thì cô chỉ đáp gióng một. Nếu Ca-di-mia nhận xét là cô trông không được khỏe, Ma-ri quả quyết là cô làm việc quá nhiều, và đó là nguyên nhân duy nhất. Rồi làm ra vẻ dửng dưng, cô xoay ra chơi với đứa cháu gái yêu, con chị Brô-ni-a.
Một hôm, Ma-ri ngất ngay trước mặt một cô bạn. Cô này chạy đến phố Đức quốc báo tin, một giờ sau, Ca-di-mia leo vội mấy tầng thang gác, lên tới buồng xép dưới nóc, thấy cô em đã ngồi học bài ngày mai rồi. Anh nhìn kỹ vẻ mặt xanh xao của Ma-ri, nhất là hai cái đĩa sạch trơn và cái xoong rỗng. Trong phòng chỉ có một gói chè là “thực phẩm” duy nhất. Ca-di-mia hiểu ngay. Anh hỏi:
- Bữa hôm nay cô ăn những gì?
- Bữa nay ấy à? Em chẳng nhớ nữa em vừa ăn xong.
- Thế cô đã ăn gì?
- Mấy quả anh đào, và… nhiều thứ nữa.
Cuối cùng Ma-ri phải nói ra hết. Tối hôm trước, cô đã gặm gần hết một bó củ cải đỏ và ăn nửa cân anh đào. Thức đến ba giờ sáng để làm việc, ngủ bốn tiếng, dậy đi đến Xoóc-bon. Về nhà lại ăn nốt củ cải rồi bị ngất.
Người bác sỹ trẻ không nói nhiều nữa. Anh rất bực. Bực với cô em gái đang nhìn anh một cách mệt mỏi, ngây thơ với đôi mắt màu tro. Bực với chính mình vì anh tự trách là không chăm sóc chu đáo đến Ma-ri, mặc dầu đã có lời gửi gắm của cụ Xkhua-đốp-xki. Ma-ri còn đang vùng vằng, anh đã đưa mũ áo, và bắt xếp sách vở gì cần dùng trong tuần tới để mang đi. Buồn bực chẳng nói nên lời, anh đưa Ma-ri về khu Vi-lét, vừa bước vào nhà đã gọi Brô-ni-a xuống bếp.
.
Marie Curie và chị Bronia.
Hai mươi phút sau, Ma-ri từ từ nuốt thứ thuốc mà bác sĩ Ca-di-mia kê đơn cho cô: một miếng thịt bò to rán tái, một đĩa khoai tây rán giòn. Như có phép lạ, màu hồng lại ứng lên đôi má. Đến mười một giờ khuya, Brô-ni-a vào tắt đèn ở buồng mà chị mới vừa kê một cái giường cho em gái. Sau vài ngày được chăm sóc tẩm bổ, Ma-ri lại sức. Nghĩ đến các kỳ thi sắp đến, cô vội trở về cái gian sát nóc, với lời hứa là sẽ chú ý hơn đến ăn uống. Và hôm sau, cô lại vẫn cứ “sống bằng không khí”.
*
Làm việc!... Làm việc!... Bị thu hút hoàn toàn vào học tập, say sưa với tiến bộ của mình, Ma-ri tự thấy có đủ sức tiếp thu tất cả những gì mà người đời đã khám phá. Cô dự các lớp toán, lý, hóa. Cô làm quen dần với kỹ thuật thực hành khoa học, rồi đây lại có niềm vui được giáo sư Lip-man giao cho mấy công trình nghiên cứu tuy ít quan trọng song lại là một dịp để cô tỏ rõ cái khéo tay và óc sáng kiến của mình. Phòng thí nghiệm vật lý ở Xoóc-bon, một kiến trúc cao, rộng và độc đáo, có hai cầu thang xoáy trôn ốc đưa vào một hành lang bên trong, là nơi Ma-ri Xkhua-đốp-xka thả sức tìm tòi, học hỏi.
Còn gì quyến rũ hơn cái không khí tĩnh mịch giúp cho sự tập trung suy nghĩ! Cho đến giờ phút cuối cùng của đời mình, Ma-ri vẫn sẽ thích cái phòng thí nghiệm hơn mọi thứ khác. Lúc nào cô cũng đứng trước cái bàn bằng gỗ sên, trên đặt một dụng cụ đo lường chính xác, hoặc trước cái lò có chiếc đèn xì đang đốt cháy một chất gì đó. Dưới cái áo khoác vải thô, khó mà phân biệt được Ma-ri với đám thanh niên đang mê mải cúi xuống trước nhiều đèn xì cùng dụng cụ khác. Tất cả đều tôn trọng sự yên tĩnh của nơi này, không gây một tiếng động, không nói một lời nào thừa.
Một bằng cử nhân chưa đủ! Marie quyết định thi hai môn vật lý và toán. Tham vọng của cô trước kia mới nhỏ bé làm sao, nay mạnh bạo, lớn lên nhanh chóng đến nỗi cô không còn thì giờ, nhất là không dám nói với cụ Xkhua-đốp-xki. Người cha tuyệt diệu đó đang nóng lòng mong đợi Ma-ri trở về Ba Lan, và có vẻ lo ngại về đứa con gái bấy lâu được ông chăm nom ấp ủ. Trong bao nhiêu năm trời chỉ biết phục tùng, chịu đựng và hy sinh, giờ đây cô đang tỏ ra muốn tự lập.
Cụ Xkhua-đốp-xki viết cho Brô-nia ngày 5 tháng 3 năm 1893:
“Đọc bức thư gần đây nhất của con, lần đầu tiên cha mới biết Manya có ý định thi cử nhân. Cha đã hỏi nó về việc này, nhưng trong các thư viết cho cha, không thấy nó đả động đến. Con cho cha rõ ngày nào em thi và tiền nong tốn kém là bao để cha thu xếp gửi cho em.
Dự định của cha cũng phụ thuộc vào nó. Cha tính đến sang năm vẫn giữ chỗ ở hiện nay cho cha và Ma-ni-a – nếu nó có về - chỗ này rất thích hợp. Dần dần Ma-ni-a sẽ có nhiều học trò, dầu sao, cha sẵn sàng san sẻ với Ma-ni-a cái gì cha có. Làm gì mà hai bố con chẳng nuôi nhau được”.
Muốn sao mặc lòng, Ma-ri không thể tránh tiếp xúc với người này người khác. Nhiều bạn trai tỏ ra thành thực và ân cần đối với cô. Ở Xoóc-bon, những cô gái nước ngoài vẫn được coi trọng. Các cô thường là nghèo, lại rất có khiếu, từ xa xôi vạn dặm lặn lội đến đây, nơi mà hai anh em nhà văn nổi tiếng Gông-cua[32] từng gọi là “mẹ dinh dưỡng của học tập”. Các cô được nhiều thiện cảm trong sinh viên Pháp. Cô gái Ba Lan dần dần thấy rằng các bạn trai của mình phần lớn là “dân học gạo”. Họ rất mến cô và rất thân thiện với cô. Tình cảm này nhiều khi đến vồn vã. Có lẽ Ma-ri khá xinh, chẳng thế mà cô bạn đồng hương Di-din-xka, một bạn gái rất nhiệt tình với cô, có hôm đã phải lấy cán ô xua đuổi những anh chàng si tình quá vồ vập.
Nếu Ma-ri tỏ ra thờ ơ với những lời tán tỉnh yêu đương và để mặc bạn Di-din-xka từ chối hộ, trái lại cô hay tìm cách đến gần những người chín chắn, mà cô có thể bàn bạc về công việc của mình. Giữa hai buổi lên lớp vật lý và thực hành ở phòng thí nghiệm, cô tranh thủ nói chuyện với Pôn Panh-lơ-vê giờ đây đã làm giáo sư, với Giăng Pe-ranh, Sac-lơ Mo-ranh, những bậc thầy tương lai của nền khoa học Pháp. Cũng mới chỉ là quan hệ bạn bè sơ khai, Ma-ri không có thì giờ cho tình bạn thân thiết hoặc nghĩ đến yêu đương. Cô đang yêu toán và vật lý…
Nhờ có đầu óc chính xác, minh mẫn, Ma-ri không bị một hạn chế tinh thần nào cản trở trong cố gắng của mình. Cô có một quyết tâm sắt đá, say mê theo đuổi cái hoàn thiện với một tính bướng không tưởng tượng được. Đó là những yếu tố thôi thúc cô làm việc kiên nhẫn và có hệ thống, lần lượt đạt được những mục đích đã đề ra cho mình: Năm 1893 thi cử nhân vật lý đỗ đầu, năm 1894 đỗ thứ nhì cử nhân toán.
Ma-ri thấy rõ tiếng Pháp rất cần cho mình nên cô quyết tâm học thật vững vàng. Nhiều bạn gái Ba Lan khác sau hàng bao năm ở Paris vẫn cứ nói lơ lớ như hát và có nhiều câu sai văn phạm. Nhưng Ma-ri học cả chính tả và ngữ pháp cho nhuần nhuyễn và chú ý sửa chữa bằng hết những giọng nói sai ngữ điệu, chỉ còn chữ “R” hơi uốn lưỡi, nhưng nghe lại rất duyên dáng mềm mại.
Với vỏn vẹn bốn mươi rúp một tháng, Ma-ri vẫn đủ sống và chịu thiếu cái cần thiết để thỉnh thoảng đi xem hát, đi chơi vùng ngoại ô và mỗi lần đều mang về nhà một bó hoa rừng tươi thắm.Tâm hồn cô gái thôn quê năm xưa vẫn còn đây. Phiêu bạt giữa một thành phố lớn, Ma-ri đón chờ mùa cỏ cây nở lộc và hễ còn chút thì giờ và tiền túi là tìm đến rừng xanh bóng mát.
Thư gửi cụ Xkhua-đốp-xki ngày 16 tháng 4 1894:
“Chủ nhật trước, con đã đến một vùng ngoại ô gần ngay Paris, khá đẹp dễ chịu. Các cây tu chanh và nhài cùng tất cả các cây ăn quả, kể cả táo đều nở rộ và không gian ngào ngạt hương thơm.
Ở Paris, cây cối bắt đầu xanh tốt kể từ tháng tư. Lúc này lá non đã nhú, mận đã ra hoa. Nóng như mùa hè vậy. Trong buồng xép của con bắt đầu bức lắm.
Cũng may là đến tháng bảy, khi chuẩn bị đi thi, con không còn ở đây nữa vì con chỉ thuê chỗ này đến ngày 8 tháng bảy…”
Tháng bảy, mùa thi cử đã đến. Ai nấy lo lắng, bận rộn. Có những buổi sáng mệt nhọc, Ma-ri ngồi trong phòng thí nghiệm với 30 thí sinh, thần kinh căng thẳng đến mức chữ cứ nhảy múa trước mắt, phải mấy phút sau mới đọc được mảnh giấy có đề toán và câu hỏi lý thuyết sẽ quyết định số mệnh của cô. Thi xong lại đến những ngày mong đợi đằng đẵng và giờ phút nghiêm trang nghe đọc kết quả. Thí sinh và cha mẹ, họ hàng đều tụ tập trước giảng đường lớn. Trong đám đông, Ma-ri bị xô đẩy, chen lấn giữa làn sóng người ai nấy ngóng trông ban giám khảo bước vào, đọc tên những người đỗ theo thứ tự tài năng. Trong một phút, cả giảng đường im phăng phắc. Bất thần cô nghe gọi tên mình đầu tiên: Ma-ri Xkhua-đốp-xka.
Khó mà biết được xúc động của Ma-ri lúc này. Cô phải cố lắm mới lách được ra khỏi đám đông vì bạn bè cứ vây xung quanh, không ngớt lời khen ngợi.
Nghỉ hè rồi đây! Đã đến lúc về Ba Lan quê nhà. Anh chị em sinh viên Ba Lan nghèo trở về quê quán thường có những thủ tục mà Ma-ri theo rất nghiêm chỉnh. Trước hết là mang gửi đồ đạc - giường, bếp, nồi xoong - ở chỗ một bạn đồng hương có khả năng giữ một buồng ở Paris-ri trong mấy tháng hè. Sau là giao trả cái gác xép sát nóc nhà mà trước khi đi, cô quét dọn sạch sẽ tinh tươm để rồi đến chào vĩnh biệt bà gác cổng sẽ không bao giờ gặp lại, sau nữa là mua một ít thức ăn đi đường. Cuối cùng, tính nhẩm tiền còn lại, cô vào một cửa hàng bách hóa lớn. Lần đầu tiên trong suốt một năm học, Ma-ri đến đây tìm mua mấy thứ lặt vặt, những khăn quàng…
Đáng hổ thẹn cho những kẻ xa nhà khi trở về lại còn tiền túi! Lịch sự nhất, đúng đắn nhất là có đồng nào tiêu bằng hết, mua quà tặng họ hàng, bạn hữu và đã bước lên tàu, ga Phương Bắc là phải sạch túi. Thế mới là khôn ngoan biết nghĩ. Đằng đầu bên kia con đường sắt này, cách đây hai nghìn cây số, bao hình ảnh thân yêu đang đợi ta, cụ Xhua-đốp-xki, anh Dô-dếp, chị Hê-la, không khí gia đình đầm ấm, những bữa ăn no nê, ngon lành, và chị thợ may quen biết, chỉ vài đồng công là cắt và may được cả áo lót, áo dài bằng vải hoặc len, những chiếc áo mà đến tháng 11 khi trở lại Xooc-bon, Ma-ri mặc vào năm học mới.
Cô trở lại Xooc-bon người đẫy ra, mặt mày nở nang, rạng rỡ. Chả là trong ba tháng hè ở Ba Lan, cô đã đi thăm khắp lượt tất cả các gia đình họ Xkhua-đốp-xki, đến đâu họ hàng cũng ái ngại về nước da kém tươi của Ma-ri, đến đâu cô cũng cứ bị ép ăn thật nhiều. Để rồi lại bắt đầu một năm học hăng say, làm việc, học tập không biết mệt mỏi, chuẩn bị một kì thi mới và lại gầy dần…
*Mỗi lần thu sang là một lần Ma-ri lo lắng day dứt. Tìm đâu ra tiền bây giờ? Trở lại Paris bằng cách nào đây? Vốn liếng dành dụm cứ cạn nên bốn mươi rúp này rồi bốn mươi rúp khác. Nghĩ đến bố phải bỏ cả những cái vui nhỏ để dành tiền cho mình, Ma-ri rất áy náy. Năm 1893, tình cảnh hầu như bế tắc, cô đương định thôi, không đi du học nữa thì một may mắn bất ngờ đã đến. Di-din-xka người bạn gái năm ngoái đã lấy cán ô bảo vệ cô, lúc này lại giúp đỡ Ma-ri thiết thực hơn nữa. Tin tưởng rằng Ma-ri sẽ có một tương lai rực rỡ, Di-din-xka đã ra sức vận động ở Vác-xô-vi cho Ma-ri được học bổng A-lếch-xăng-đro-vích, giành cho những sinh viên xuất sắc muốn ra học nước ngoài.
Sáu trăm rúp! Đủ sống mười lăm tháng! Ma-ri vốn chỉ biết xin cho người, có lẽ không hề nghĩ đến cầu khẩn khoản trợ cấp ấy cho mình, nhất là không bao giờ dám làm những việc giao dịch, chạy chọt cần thiết! Sung sướng, phấn khởi, cô bay bổng đến Paris.
Thư gửi anh Dô-dép ngày 15 tháng 9-1893 (từ Paris):
“Em đã thuê buồng ở tầng sáu tại một phố sạch sẽ, lịch sự. Anh thưa với cha là nơi em định thuê trước thì không còn chỗ nữa, và em rất ưng cái buồng hiện nay: Có một cửa sổ đóng được kín, và chữa thêm một tý thì có lẽ trong nhà không lạnh lắm, nhất là không lát gạch mà là sàn gỗ. So với cái buồng năm ngoái thì quả là một lâu đài! Mỗi năm 180 quan, nghĩa là rẻ hơn 60 quan chỗ mà cha nói chuyện với em.
Không nói, chắc anh cũng rõ em thích thú như thế nào khi được trở lại Paris! Hôm ra đi, em rất đau khổ vì lại phải xa cách cha, nhưng em thấy cha khỏe mạnh và còn lanh lẹn, không cần đến sự có mặt của em, nhất là nay anh lại về ở Vác-xô-vi. Còn em, cả cuộc đời em sắp được định đoạt… Vì vậy, em nghĩ có thể lưu lại một thời gian ở Paris mà không ân hận gì.
Em học toán, học gấp rút, để khi vào năm học mới khỏi bỡ ngỡ. Mỗi tuần dạy ba buổi sáng cho một bạn học người Pháp đang chuẩn bị thi cái bằng em vừa đỗ. Anh thưa hộ với cha là em quen việc này rồi, không thấy vất như ban đầu, và em định cứ tiếp tục.
Em bắt đầu dọn dẹp chỗ ở mới cho năm nay - còn sơ sài lắm, nhưng biết làm thế nào? Thứ gì cũng tự làm lấy nếu không thì tốn vô kể. Em sẽ sửa sang lại đồ đạc, nói vậy cho ra vẻ, vì tất cả chỉ đáng hai mươi quan.
Em sẽ biên thư cho anh Bô-gu-xki hỏi thêm về phòng thí nghiệm. Điều này quyết định công việc sắp tới của em”.
Thư gửi anh Dô-dép ngày 18 tháng 3 năm 1894:
“…Khó mà kể tỉ mỉ cho anh cuộc sống của em vì nó cứ đều đều, đơn điệu, và xét đến cùng chẳng có gì đáng nói. Song em không hề thấy khổ vì sự bằng phẳng đó, em chỉ thấy tiếc là ngày tháng sao ngắn ngủi và trôi nhanh quá!… Chỉ thấy bao việc còn phải làm và nếu không yêu công việc của mình thì rất có thể nản chí.
Em mong anh trở thành bác sỹ. Cuộc sống chẳng có vẻ dễ dàng đối với mỗi chúng ta. Nhưng sao phải kiên trì, nhất là phải tin ở mình chứ? Phải tin rằng ta có khiếu về một mặt nào đó và quyết đạt tới cho bằng được, có thể là mọi việc sẽ trơn tru ngay khi ta ít ngờ đến nhất.”
Cái học bổng A-léch-xăng-đro-vích đến đúng lúc biết chừng nào! Ma-ri vốn rất tằn tiện, cô kéo dài số tiền sáu trăm rúp để có thể ở lâu hơn nữa trong cái thế giới thần tiên của giảng đường và phòng thí nghiệm.
Và năm sau, cũng với tinh thần tằn tiện ấy, khi kiếm được tiền lần đầu tiên, do một công việc nghiên cứu cho Hội khuyến khích kỹ thuật quốc gia, Ma-ri đã lấy ra sáu trăm rúp mang đến cho Tổng thư kí của hội A-lếch-xăng-đro-vích (alexandre droviche), khiến ông sửng sốt về sự đền đáp có một không hai này trong lịch sử của Hội.
Ma-ri đã nhận học bổng đó như một món nợ danh dự, một biểu hiện tin cậy. Tâm hồn thẳng thắn của cô tự thấy không xứng đáng nếu cứ giữ lâu số tiền giờ đây lại có thể cứu giúp một người con gái nghèo khác.
*Đọc bài thơ ngắn của mẹ tôi viết bằng tiếng Ba Lan về thời kì ấy, sực nhớ những mẩu chuyện mẹ thường kể cho nghe, thỉnh thoảng lại điểm một nụ cười hoặc câu hài hước dí dỏm, nhìn ngắm tấm ảnh mà mẹ thích nhất: ảnh một nữ sinh có đôi mắt táo bạo, cái cằm cương quyết, tôi cảm thấy mẹ tôi suốt đời vẫn yêu thích hơn cả những ngày khó khăn và đầy nhiệt tình đó.
Tuổi thanh xuân ấy biết bao gian khổ
Lúa tuổi này người khác chỉ vui chơi
Mình cô, yên tĩnh, thảnh thơi
Say sưa học tập cuộc đời rộng thêm…
Sống bao ngày tháng êm đềm
Lòng yêu khoa học tự nhiên nồng nàn
Cảnh sao rõ thật gian truân
Những lo sinh sống muôn vàn khó khăn
…Nhiều khi tâm trí bần thần
Lại tìm về dưới mái trần đơn sơ
Nơi mãi mãi lòng cô yêu quí
Nơi đêm ngày lặng lẽ miệt mài
Nơi ấp ủ những ước mơ
Khắc sâu kỷ niệm bao giờ cho phai
Cố nhiên, sau này Ma-ri còn biết bao niềm vui khác, nhưng ngay trong những giờ phút ân ái mặn nồng nhất, ngay trong thắng lợi và vinh quang, không bao giờ nữ sinh viên muôn thủa ấy lại bằng lòng mình đến thế, tự hào đến thế giữa cảnh nghèo túng và quá trình rèn luyện, nỗ lực đó. Tự hào về cái nghèo của mình, tự hào vì sống một mình và tự lập giữa một thành phố xa lạ.
Những buổi tối làm việc dưới ngọn đèn dầu hiu hắt trong một chỗ ở tiêu điều làm Ma-ri cảm thấy số phận mình tuy còn thấp nhưng dường như được nối liền bằng những sợi dây vô hình với bao cuộc đời cao cả mà cô hằng khâm phục. Cô cảm thấy mình đang trở thành người bạn âm thầm vô danh của những nhà bác học tiền bối. Các vị đó cũng đã từng sống trong những buồng thiếu ánh sáng như thế này mà đã thoát được ra khỏi thế kỉ của mình, đã ra sức tư duy để đưa tầm mắt xa hơn tri thức của loài người đương thời.
Đúng vậy, bốn năm anh dũng đó không phải là những năm sung sướng nhất trong đời Ma-ri, nhưng là những năm mà cô cho là hoàn hảo nhất, tiến gần nhất đến đỉnh cao của sứ mệnh làm người cô vẫn hằng chiêm ngưỡng.
Tuổi trẻ son rỗi, miệt mài say sưa học tập, có thể “không có gì sống” mà vẫn sống nhiều nhất. Một niềm hào hứng tràn ngập làm cho cô gái Ba Lan hai mươi sáu tuổi đó quên tất cả những thiếu thốn đang chịu đựng, để nhìn cuộc đời khốn khổ của mình với đôi mắt đầy hoài bão.
Rồi đây, tình yêu, sự sinh nở, những lo âu của người vợ, người mẹ, khó khăn phức tạp của một công việc nặng nề sẽ lại đặt con người dạt dào lý tưởng đó vào cuộc sống thực tế. Nhưng trong giờ phút mầu nhiệm này, lúc nghèo túng hơn bao giờ hết, Ma-ri vẫn vô tư như một đứa trẻ. Tâm hồn cô bay bổng nhẹ nhàng đến một thế giới khác, thế giới mà tư duy của cô luôn luôn nhận thức là trong trắng, chân thật nhất.
Một cuộc sống bấp bênh như thế khó mà ngày nào cũng tốt đẹp. Biết bao ngẫu nhiên bất thần đến đảo lộn tất cả và như không phương cứu vãn: một sự mệt mỏi không tài nào gắng gượng được, mấy ngày ốm cần người trông nom. Còn nhiều tai họa khác thật gay go như có mỗi đôi giầy thủng đế, nay bung từng mảnh, phải lo mua đôi khác. Thế là ngân sách bị xáo lộn hàng tuần và khoản chi to lớn này phải khấu dần vào thức ăn, vào dầu đèn. Hoặc giả mùa đông kéo dài làm cho căn phòng sát nóc trên tầng sáu lạnh toát, lạnh đến nỗi Ma-ri không ngủ được, cô run bắn lên. Than trữ đột ngột hết rồi. Thế nào đây? Chẳng lẽ một cô gái Ba Lan lại chịu thua cái rét Paris-ri à? Ma-ri vùng dậy, thắp đèn dầu, nhìn khắp chung quanh, cô mở rương, còn bao nhiêu quần áo lôi ra hết mặc thật nhiều lên người, xong chui vội vào chăn rồi kéo nốt mấy manh áo còn lại đắp lên mình. Vẫn còn thấy rét, Ma-ri với tay kéo cái ghế độc nhất đặt lên lớp chăn áo để tạo một cảm giác nặng và ấm. Chỉ còn đợi giấc ngủ đến, cần nhất là nằm im không động đậy để khỏi làm đổ nhào cái giàn giáo mà cô là nền móng sống.
Trong cái bình, nước dần dần đóng băng.