Chương 13 BỐN NĂM TRỜI TRONG NHÀ XE
Đọc thông báo về sự khám phá ra chất Ra-đi, một quần chúng bình thường tin ngay rằng chất Ra-đi có thật, không chút nghi ngờ. Những người mà trí phán đoán chưa được mài sắc và lại bị méo mó nghề nghiệp thường giữ được một sức tưởng tượng mới mẻ. Họ sẵn sáng thừa nhận và ngưỡng mộ bất cứ sự kiện bất ngờ gì, dù kì lạ mấy đi nữa.
Nhưng thái độ của nhà vật lý, người đồng nghiệp với ông bàCurie, đứng trước tin này, lại khác. Mấy đặc tính của hai chất Ra-đi và Pô-lô-ni làm đảo lộn cả những thuyết căn bản từ bao thế kỷ nay vẫn được các nhà bác học tin tưởng. Giải thích thế nào đây sự tỏa quang tự phát của những chất phóng xạ? Khám phá này làm lay chuyển cả một loại khái niệm quen thuộc và trái với nhiều ý kiến xưa nay vẫn được coi là vững chắc về thành phần vật chất. Chính vì vậy mà thái độ của những nhà vật lý tỏ ra thận trọng. Tuy rất lưu ý đến công trình của Pierre và Marie Curie, biết rằng lĩnh vực này sẽ còn phát triển vô tận, nhà vật lý vẫn chờ đợi những kết quả quyết định rồi mới có ý kiến.
Nhà hóa học lại còn dứt khoát hơn nữa. Theo định nghĩa, nhà bác học chỉ công nhận một chất mới sau khi đã có thể trông thấy, sờ mó, cân đo, thí nghiệm với các a-xít, đựng trong lọ, và tính được trọng lượng nguyên tử của chất đó.
Song cho đến nay, chưa ai trông thấy chất Ra-đi. Chưa ai biết trọng lượng nguyên tử của Ra-đi và các nhà bác học, trung thành với nguyên tắc của họ, kết luận: “Phi trọng lượng nguyên tử, không có Ra-đi. Hãy cho chúng tôi xem chất Ra-đi, chúng tôi sẽ tin”.
Muốn chỉ rõ chất Ra-đi và Pô-lô-ni cho những ai còn hoài nghi, muốn chứng minh cho thế giới biết “con đẻ” của họ và cũng để tự củng cố thêm lòng tin, ông bà Qui-ri sẽ phải làm việc bốn năm trời nữa.
*Phải lấy được Ra-di và Pô-lô-ni nguyên chất. Trong các chất có tính phóng xạ mạnh nhất mà hai nhà bác học chế ra được, Ra-di và Pô-lô-ni chỉ ở dạng những dấu vết không thể nắm được. Muốn tách rời hai kim loại mới này, cần đến rất nhiều nguyên liệu.
Ba vấn đề nan giải là:
Làm thế nào có đủ quặng?
Chế biến quặng ở chỗ nào?
Tiền đâu trả chi phí?
Lúc này ở một vùng Bô-hêm (thời đó còn thuộc nước Áo – ND) người ta khai thác pêch-blen để lấy muối u-ra-ni cần cho kĩ nghệ pha-lê. Đó là một loại quặng quý giá. Hàng tấn pêch-blen rất đắt tiền, quá đắt đối với Pierre và Marie.
Thiếu tiền sẽ có tài tháo vát thay thế. Hai nhà bác học có một dự đoán sáng suốt: sau khi u-ra-ni được chiết ra để làm pha-lê, trong quặng vẫn cón lại nguyên vẹn hai chất Pô-lô-ni và Ra-đi. Và nếu pêch-blen nguyên chất rất đắt, khi lấy hết muối u-ra-ni ra rồi, có thể rất rẻ.
Pierre và Marie nhờ một người bạn đồng nghiệp người Áo giới thiệu để mua một khối lượng lớn xỉ thừa với giá phải chăng.
Thật là đơn giản, nhưng vấn đề là phải nghĩ tới…
Để mua nguyên liệu và trả tiền chuyên chở tới Paris, Pierre và Marie lấy trong tiết kiệm ít ỏi của mình. Họ chẳng ngây thơ gì mà xin nhà nước Pháp trợ cấp. Tuy hai nhà vật lý đang ở thời kì sắp có một khám phá trọng đại, nếu yêu cầu trường Đại học hay Nhà nước cấp tiền để mua xỉ pêch-blen, người ta sẽ cười cho. Dù sao, đơn của họ sẽ lẫn trong những hồ sơ của một bàn giấy nào đó, và phải hàng tháng mới được trả lời, chắc chắn là bị từ chối. Trong bao nhiêu truyền thống, bao nhiêu nguyên tắc mà cuộc cách mạng Pháp đã để lại, và trong nhiều trường hợp, đã từng khuyến khích khoa học, nhà nước Pháp hình như chỉ còn giữ lại, sau hơn một thế kỷ, những lời nói đáng tiếc của Phu-ki-ê Tanh Vin trong phiên toà đã kết án tử hình La-voa-di-ê (Lavoisier) [37].
“Chính phủ cộng hoà không cần đến những nhà bác học”.
Hoặc giả ít ra cũng có thể cho ông bà Curie mượn một phòng làm việc thích hợp trong bấy nhiêu tòa nhà thuộc trường Sorbonne? Nghe chừng không được. Sau nhiều lần chạy vạy vô ích, Pi- Pierre và Marie lại trở về điểm khởi đầu, nghĩa là về trường Vật lý nơi Pierre đang dạy và cái xưởng nhỏ mà Marie đã từng làm những thí nghiệm đầu tiên. Xưởng trông ra một cái sân, bên kia sân có một cái lồng bằng gỗ, một cái nhà xe bỏ trống, mái lồng kính đã trong tình trạng tồi tàn đến nỗi nước mưa giột vào nhà y như ngoài sân. Khi xưa, trường đại học Y khoa dùng nơi này làm phòng mổ xác nhưng đã lâu rồi, ngay dùng để tử thi cũng không đáng. Không có sàn. Nền đất chỉ phủ một lớp nhựa đường mỏng. Đồ đạc vỏn vẹn vài chiếc bàn làm bếp ọp ẹp, một cái bảng đen không hiểu tại sao lại lạc đến đây, một cái lò gang cũ, ống thông hơi đã gỉ.
Một người thợ có lẽ cũng không thèm làm ở đây. Vậy mà Pi- Pierre và Marie vẫn thản nhiên chịu đựng. Cái nhà xe ấy có một ưu điểm, trông nó tiều tuỵ quá, đổ nát quá nên chẳng ai nghĩ đến việc từ chối cho hai vợ chồng hoàn toàn sử dụng.
Hiệu trưởng trường Vật lý xưa nay vẫn lưu ý đến Pierre chắc cũng ân hận là không có gì hơn để cho Pierre mượn cả. Dù sao, nhà trường cũng không giao cho hai nhà bác học một nơi nào khác. Pierre và Marie quá mừng vì không phải ra đứng đường với những dụng cụ của mình, cám ơn nói:
“Thế là được rồi. Chúng tôi sẽ thu xếp sau”.
Giữa lúc họ tiếp nhận cái nhà xe thì có thư trả lời từ nước Áo. Những tin vui. Thật may, xỉ quặng đã lọc hết muối U-ra-ni chưa bị phân tán mà vẫn còn chất đống ở ven mỏ Gio-Khin-xthan, trên một khoảnh đất bỏ không, trồng đầy thông.
Nhờ có giáo sư Xu-ét và Viện hàn lâm khoa học Viên xin hộ, Pierre và Marie được chính phủ Áo tặng một tấn xỉ, “cho hai người từ cung trăng xuống hay sao mà lại cần cái của đó”. Sau này, nếu họ cần nhiều hơn nữa, mỏ sẽ nhượng thêm cho họ với những điều kiện hời nhất.
Một buổi sáng, một cái xe ngựa thồ nặng y như loại xe chở than dừng lại ở phố Lô-mông, trước cửa trường Vật lý. Được tin, Pierre và Marie chạy vội ra ngoài, đầu trần, mặc áo choàng phòng thí nghiệm. Pierre còn giữ được vẻ bình tĩnh thường ngày, nhưng Marie không kìm nổi niềm vui sướng trước những bao tải do anh em lao công vác vào. Quặng pêch-blen đây rồi, pêch-blen của Marie đây, đã có giấy báo của nhà ga hàng hoá đến từ mấy hôm trước. Không nén nổi nôn nóng, tò mò và sốt ruột, Marie muốn mở ngay một bao tải ra xem để ngắm nghía cái kho tàng quý báu của mình. Cắt dây gai, bao tải vừa tung ra, bà đã vục hai tay vào quặng nâu và xám xịt, còn lẫn lá thông vùng Bô-hêm.
Chất Ra-đi trốn ở đây. Dù có phải dùng hàng núi cái chất vô dụng, giống như bụi đường này, nhất định Ma-ri sẽ rút bằng được Ra-đi ở đó ra.
Trông một buồng xép sát nóc, Ma-ri Xkhua-đốp-xka đã sống những giờ phút say sưa nhất của đời sinh viên. Giờ đây, trong một lán gỗ tiêu điều, Ma-ri Qui-ri lại được biết những niềm vui kỳ diệu. Lạ lùng thay sự khởi đầu trở lại đó, khi một hạnh phúc khắc khổ và tinh tế (mà có lẽ chưa một người đàn bà nào đã cảm thấy trước Ma-ri) lại hai lần chọn cái khung cảnh nghèo nàn nhất.
Cái nhà xe phố Lô-mông thật là một điển hình về mặt thiếu tiện nghi. Mùa hè thì cái mái lắp kính làm cho nóng như thiêu như đốt. Mùa đông, chẳng biết nên mong băng giá hay mưa. Nếu trời mưa, nước giột cứ thánh thót rơi xuống đất hoặc trên bàn, nghe rất khó chịu. Những chỗ này hai nhà vật lý đã đánh dấu để tránh không đặt dụng cụ. Gặp tiết trời băng giá thì người cũng lạnh cóng, không có cách nào khác. Có chất đầy than củi vào lò cũng bằng không. Phải áp người thật sát lò mới thấy ấm đôi chút, nhưng chỉ rời một bước thì đã rét buốt rồi!
Vả lại, Pierre và Marie cũng cần làm quen với thời tiết bên ngoài chứ! Thiếu trang bị kĩ thuật, không có ống thoát hơi độc, phần đông công việc phải làm giữa sân ở ngoài trời. Mỗi khi mưa rào, hai vợ chồng phải tất tả chuyển dụng cụ vào nhà xe. Để tiếp tục công việc mà không bị ngạt, họ thường mở hết cửa cho thoáng gió.
Nhà nữ bác học bị bệnh lao mới chớm, chắc không dám khoe với bác sĩ về cách điều trị của mình.
Về sau, Marie viết:
“Dạo đó, chúng tôi không có tiền, không có phòng thí nghiệm và không có người giúp việc trong công trình quan trọng và khó khăn ấy. Hầu như chúng tôi đã làm tất cả với hai bàn tay không. Nếu xưa kia anh Ca-di-mia Du-xki đã từng gọi những năm tôi còn là sinh viên, là “những năm trời anh dũng của cô em vợ” thì nay cũng có thể nói không quá rằng thời gian ấy đối với Pierre và tôi “cũng là thời gian anh dũng trong cuộc sống chung của hai người”.
Chính trong cái nhà xe tiêu điều ấy mà chúng tôi đã sống những năm tháng tốt đẹp, hạnh phúc nhất, hoàn toàn dốc vào công việc. Nhiều khi tôi nấu ăn tại đây để khỏi phải dừng một vài thao tác đặc biệt quan trọng. Có khi suốt ngày đứng quấy một chất đang sôi với một thanh sắt cao ngang tầm người, tối về cứ là mệt rã ra”.
Đó là điều kiện làm việc của hai vợ chồng nhà bác học Qui-ri, những năm từ 1898 đến 1902.
Năm đầu, Pi-e và Ma-ri cùng tiến hành việc tách riêng hai chất Pô-lô-ni và Ra-đi và nghiên cứu sự phóng xạ của hai kim loại này.
Sau đó, hai người thấy cần phải phân công. Pi-e cố đi sâu vào những đặc tính của Ra-đi, làm quen với kim loại mới này. Ma-ri tiếp tục lấy từ trong quặng ra muối Ra-đi nguyên chất. Thế là Ma-ri nhận phần việc nặng nhọc hơn. Trong nhà xe, Pi-e say sưa làm các thí nghiệm tinh vi. Ngoài sân, Ma-ri choàng cái tạp dề cũ, mắt cay sè vì khói, một mình làm công việc của cả một nhà máy.
Bà viết:
“Dần dà, tôi nhận thấy phải chế biến mỗi lần 20kg nguyên liệu. Nhà xe bày đầy những lọ to đựng chất kết tủa và chất lỏng. Khuân những lọ ấy, đổ từ cái này sang cái kia, rồi đứng hàng giờ quấy các chất đang sôi trong một chảo gang thật là một việc nặng nhọc”.
Song chất Ra-đi vẫn muốn giữ bí mật. Nó chưa muốn để loài người biết nó. Còn đâu thời mà Ma-ri dự tính lấy được từ xỉ pêch-blen một phần trăm chất Ra-đi. Sức phóng xạ của kim loại mới này mạnh đến nỗi một lượng Ra-đi rất nhỏ, phân tán trong quặng, đã gây ra những hiện tượng đập vào mắt, rất dễ quan sát và đo lường. Làm sao tách một lượng Ra-đi vô cùng nhỏ bé ấy ra khỏi xỉ quặng mà nó đã quyện vào rất chặt. Đó là vấn đề khó, hầu như không làm được.
Những chuỗi ngày làm việc kéo dài hàng tháng, hàng năm. Pi-e và Ma-ri không nản. Cái chất bí mật kia càng không chịu xuất hiện, càng quyến rũ hai nhà vật lý mà tình yêu và lòng hâm mộ khoa học đã gắn bó trong một cái lán gỗ, vào một cuộc sống “khác thường”.
Ma-ri viết:
“Thời gian đó, chúng tôi dốc hết tâm trí vào cái lĩnh vực mà một khám phá không lường được mới mở ra trước mắt mình. Bao khó khăn trở ngại về điều kiện làm việc mặc lòng, chúng tôi vẫn cảm thấy rất sung sướng. Hai người suốt ngày ở phòng thí nghiệm. Trong cái nhà xe tiều tuỵ, có một sự yên tĩnh lạ thường. Thỉnh thoảng trong khi theo dõi một chế biến đang tiến hành, tôi hoặc Pi-e đi đi, lại lại, hết nói chuyện hiện tại lại bàn đến tương lai. Ấm lòng biết bao chiếc ấm nước trà uống bên cạnh lò, những khi trời lạnh. Cuộc sống chúng tôi hướng vào một mục đích duy nhất, như trong mơ…
Khách khứa rất ít. Trong các nhà vật lý và hoá học, thỉnh thoảng có người đến xem chúng tôi làm thí nghiệm, hoặc đến hỏi ý kiến Pierre, anh có tiếng là thông thạo nhiều bộ môn Vật lý. Và mỗi lần, thường có những cuộc đàm thoại trước bảng đen, sau này ai nấy còn ghi nhớ mãi. Nó kích thích sự chăm chú đến khoa học và hăng say làm việc, mà không làm gián đoạn dòng suy nghĩ và bầu không khí yên lặng và tĩnh tâm của phòng thí nghiệm”.
Những lúc Pierre và Marie rời dụng cụ trong chốc lát và thư thái trò chuyện bên nhau, những lời trao đổi về chất Ra-đi mà họ say mê, chuyển từ siêu việt thành ngây thơ.
- Chẳng hiểu “nó” sẽ ra sao nhỉ? Trông nó như thế nào? – Ma-ri hỏi với vẻ tò mò, nôn nóng của một đứa trẻ được người lớn hứa cho một đồ chơi – Pi-e, anh có thể mường tượng hình dung của nó không?
- Nào ai biết được – Pi-e nhẹ nhàng nói – Anh muốn nó có một màu thật đẹp!
*Rất lạ là trong thư từ của Ma-ri Qui-ri, không thấy bà nhắc đến bao nỗ lực phi thường của mình, bằng những lời bóng bẩy, nhạy cảm mà xưa kia, chốc chốc lại xuất hiện trong những lá thư tấm tình thân mật. Phải chăng những năm tha hương đã làm phai nhạt tình thân thiết giữa người thiếu phụ trẻ với họ hàng? Phải chăng vì nhiệm vụ thúc bách và thiếu thì giờ mà Ma-ri không còn hay thổ lộ như xưa nữa?
Lý do chính có thể ở chỗ khác. Chẳng phải ngẫu nhiên mà thư của bà Qui-ri mất dần tính độc đáo giữa lúc mà lịch sử cuộc đời của nhà bác học trở thành xuất chúng. Khi còn là học trò, là cô giáo, là sinh viên hoặc là người vợ mới cưới, Ma-ri có thể tâm sự được… Nhưng ngày nay chí hướng bí mật và chưa nói ra được khiến bà thành đơn độc. Trong đám người thân, không còn ai hiểu được bà, thấu được điều lo nghĩ và băn khoăn nan giải của bà. Giờ đây, Ma-ri chỉ còn có thể đem những nhận xét của mình trao đổi với một người duy nhất, một bạn đường: đó là Pi-e Qui-ri. Chỉ riêng với Pi-e, Ma-ri mới nói những tư tưởng hiếm có và những ước mơ của mình. Còn với tất cả họ hàng, dù thân thiết mấy chăng nữa, từ nay Ma-ri chỉ có thể phô bày một hình ảnh gần như tẻ nhạt về bản thân. Bà sẽ chỉ kể mặt sinh hoạt của đời mình, đôi khi tìm ra những lời cảm động để khoe nỗi niềm sung sướng của người vợ. Còn công việc, thì chỉ nói qua vài câu vắn tắt, không biểu lộ gì, theo kiểu báo tin ba dòng…
Chúng ta nhận thấy ở đây một quyết tâm rất mực, Ma-ri không muốn tô điểm con đường mình đã chọn.
Do khiêm tốn, tế nhị, ghét những lời rỗng và thừa, Ma-ri tự che dấu, hay nói cho đúng, chỉ cho biết một khía cạnh của đời mình. Nhà bác học thiên tài chủ tâm muốn tỏ rõ mình cũng chỉ là “một người đàn bà như trăm nghìn người khác”.
Ma-ri viết thư cho Brô-ni-a năm 1899:
“Cuộc sống của hai chúng em cũng đều đều như thế. Làm việc nhiều, nhưng ngủ được, nên sức khoẻ không bị ảnh hưởng. Buổi tối, em chăm sóc I-ren. Sáng ra, mặc cho cháu, cho nó ăn, rồi em có thể đến trường vào lúc chín giờ. Cả năm chúng em không đi xem hát hoặc đi nghe hòa nhạc. Chúng em không đến chơi một ai. Vả lại cũng chẳng thấy cần… Em chỉ cảm thấy da diết nhớ nhà, nhớ anh chị và cha. Lắm lúc em cứ nghĩ buồn về cảnh tha hương của mình. Ngoài ra em không có gì than phiền cả. I-ren lớn đều, sức khoẻ của em và Pi-e vẫn tốt. Em có một người chồng tốt không thể tưởng tượng được. Thật là trời cho, chúng em càng sống với nhau, càng thấy yêu nhau hơn.
Còn công việc vẫn cứ tiến. Em sắp làm thuyết trình về vấn đề này. Đáng lẽ làm thứ bảy tuần trước, nhưng rồi bận, định cố đến thứ Bảy này, bằng không thì phải mười lăm hôm nữa.”
Công việc mà trong thư chỉ nhắc đến một cách khô khan đang tiến triển rất tốt đẹp. Trong hai năm 1899 và 1900, Pi-e và Ma-ri đăng báo cáo về “Tính phóng xạ cảm ứng” do Ra-đi gây ra, một bài nữa về “điện tích của các tia phóng xạ”. Cuối cùng, năm 1900, là một bản tổng quát về các chất phóng xạ, gửi tới Hội vật lý, được giới khoa học hết sức chú ý.
Ngày khoa học mới về phóng xạ phát triển dồn dập như vũ bão. Ông bà Qui-ri cần người cộng tác. Cho đến nay, hai nhà bác học chỉ nhận được sự giúp đỡ thất thường của một công nhân ở phòng thí nghiệm tên là Pơ-ti, một con người chân thật, sốt sắng, hầu như giấu giếm đến giúp ngoài giờ. Nay cần phải có những người biết kĩ thuật. Khám phá của Ma-ri và Pi-e có nhiều phát triển quan trọng trong lĩnh vực hoá học cần được đặc biệt chú ý. Họ tìm sự cộng tác của người nghiên cứu có năng lực.
Ma-ri viết:
“Việc nghiên cứu về phóng xạ khởi đầu trong tình trạng đơn độc nhưng về sau phát triển rộng, ngày càng đòi hỏi sự cộng tác. Từ 1898, một trưởng phòng thí nghiệm là Gioóc Bê-mông đã đến giúp chúng tôi chút ít. Năm 1900, Pi-e gặp một nhà hoá học trẻ An-đrê Đơ-biếc, trợ tá của giáo sư Phơ-ri-đen, được giáo sư rất tin cậy. Do lời mời của Pi-e, An-đrê Đơ-biếc, nhận trông coi công việc phóng xạ. Anh cũng tìm được một nguyên tố phóng xạ mới, đặt tên là Ac-ti-ni. Tuy làm việc ở phòng thí nghiệm hoá lý ở Xoóc-bon do giáo sư Pa-ranh trông nom, anh hay đến thăm chúng tôi tại nhà xe, và trở thành một người bạn rất thân của chúng tôi, với bác sĩ Qui-ri và sau này với các con chúng tôi.”
“… Cũng thời gian này, một nhà vật lý trẻ tên là Gioóc Xa-nhắc đang nghiên cứu về tia X thường đến trao đổi với Pi-e Qui-ri về những điểm giống nhau giữa tia X, với tia thứ cấp và sự tỏa quang của các chất phóng xạ. Hai người có chung một công trình về điện tích do các tia thứ cấp chuyển vận.”
Hàng tấn xỉ pêch-blen tiếp tục từ nước Áo chuyển đến và được Ma-ri khai thác với một sự nhẫn nại đáng sợ. Suốt bốn năm ròng rã, mỗi ngày bà vừa là nhà bác học, thợ chuyên môn, kĩ sư và lao công. Đôi bàn tay và khối óc của bà đã tạo ra được những chất ngày càng cô đặc, ngày càng chứa nhiều Ra-đi, giờ đây đặt hết lên mấy cái bàn cũ trong nhà xe điều khiển.
Đã gần tới đích rồi. Nay không còn là lúc phải đứng suốt ngày giữa sân, mắt cay sè vỉ khói, canh từng chảo nặng đầy quặng đang sôi. Nay đã đến thời kì tinh khiết và “kết tinh từng phần những dung dịch phóng xạ rất cô đọng”. Cần có một gian nhà sạch, với những dụng cụ hoàn toàn được chống rét, chống nóng, chống bụi. Trong nhà xe đổ nát, bốn bề gió thổi, hắt cả bụi sắt, bụi than vào cái chất đã tốn bao công phu mới tinh khiết được. Trước các tai họa xảy ra hàng ngày, mất bao nhiêu thì giờ và sức khoẻ, lòng Ma-ri se lại.
Còn Pi-e thì đã chán cái cảnh phải đấu tranh mãi và gần muốn bỏ cuộc. Nói cho đúng, Pi-e không hề nghĩ bỏ hẳn việc nghiên cứu chất Ra-đi và hiện tượng phóng xạ. Trong giờ phút này, Pi-e định hãy tạm ngừng cái thao tác đặc biệt là chế ra Ra-đi nguyên chất vì có những trở ngại hầu như không vượt được. Đợi khi nào có điều kiện sẽ làm, chẳng hơn sao? Ý nghĩ của hiện tượng tự nhiên được Pi-e chú trọng hơn là thực tế vật chất. Pi-e bực dọc thấy Ma-ri vất vả như vậy mà kết quả không có gì. Pi-e khuyên Ma-ri hãy dừng ở đây.
Song nhà bác học đã hiểu rõ tính tình của vợ. Ma-ri đã định làm việc gì thì nhất quyết làm bằng được. Đã muốn chiết suất Ra-đi nguyên chất thì khó mấy cũng sẽ có được chất này. Ma-ri chẳng quản mệt nhọc, khó khăn mà ngay kiến thức hạn chế của bà càng làm tăng thêm. Dù sao, Ma-ri còn là một nhà vật lý trẻ tuổi, đâu có sự chín chắn, và kiến thức rộng lớn của Pi-e – một người đã hai mươi năm trong ngành. Chốc chốc, Ma-ri lại vấp những hiện tượng, những phương pháp mà bà còn bỡ ngỡ, thế là lại tất tả chạy đi tìm tài liệu.
Có hề chi! Vầng trán rộng và cái nhìn kiên nghị kia vẫn cứ cặm cụi, bám lấy các dụng cụ bát sứ dùng để nghiên cứu.
Năm 1902, bốn mươi nhăm tháng sau cái ngày mà vợ chồng bác học báo tin rằng chất Ra-đi có thể có trong tạo hoá, Ma-ri cuối cùng cũng giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh tiêu hao ấy. Bà đã chế ra được một đề-xi-gam Ra-đi nguyên chất và lần đầu tiên, tìm ra trọng lượng nguyên tử của chất mới đó là 225.
Những nhà bác học hoài nghi – đến nay lúc này vẫn hãy còn một vài người – chỉ cúi đầu trước sự việc trước quyết tâm phi thường của một phụ nữ.
Chất Ra-đi chính thức được xác nhận.
*Đã chín giờ tối, Pi-e và Ma-ri lúc này đang ở nhà đằng đại lộ Kê-léc-man. Nơi đây thật hợp với hai nhà bác học. Từ ngoài đường nhìn vào, qua ba hàng cây che mất nửa ngôi nhà, chỉ còn trông thấy một bức tường buồn tẻ, một cửa ra vào nhỏ bé. Nhưng sau căn nhà một tầng gác ấy có một mảnh vườn xinh xắn rất tĩnh mịch. Và vượt khỏi “hàng rào” ở cổng Giăng-ti-I là có thể đạp xe ra ngoại ô, đến với rừng thưa.
Cụ Qui-ri quay về phòng riêng, Ma-ri tắm rửa cho con gái xong đã đưa nó đi ngủ và ngồi một lúc lâu bên chiếc giường nhỏ. Tối nào cũng vậy, đã thành lệ, I-ren không thấy mẹ bên cạnh, cứ luôn tiếng gọi “mẹ”, thế là Ma-ri đành chiều theo ý của đứa bé mới bốn tuổi, lên gác đến ngồi ở đầu giường con, trong bóng tối, cho tới khi tiếng đứa bé nhường dần cho nhịp thở đều đều. Lúc này Ma-ri mới xuống dưới nhà, Pi-e đang sốt ruột đợi.
Pi-e đi bước một trong phòng, Ma-ri đem cái yếm đang khâu dở cho I-ren, ngồi viền tiếp. Từ khi sinh I-ren, Ma-ri không bao giờ mua quần áo may sẵn cho con gái. Đối với bà, đó gần như một nguyên tắc. Ma-ri thấy các quần áo ấy quá diêm dúa và bất tiện. Hồi Brô-ni-a còn ở Pa-ri chị đã cùng với em cắt áo cho cháu bé, theo mẫu do hai người nghĩ ra. Giờ đây, Ma-ri vẫn còn dùng những mẫu đó.
Nhưng tối nay, Ma-ri không tài nào chú ý được. Ma-ri sốt ruột, đứng dậy, bỏ đồ khâu xuống. Rồi bất chợt, bà nói:
- Chúng ta đến đó một lát đi!
Giọng khẩn khoản của Ma-ri cũng hơi thừa. Lúc này, bản thân Pi-e cũng muốn quay lại nhà xe họ vừa mới ra khỏi cách đây hai giờ. Chất Ra-đi quyến rũ như thần ái tình gọi hai người đến nơi ở của nó.
Sau suốt một ngày làm việc căng thẳng, đáng lẽ hai nhà bác học phải nghỉ ngơi. Song Pi-e và Ma-ri nào có thể làm theo như thế. Hai nhà vật lý đã vào xứ sở của mình, nơi họ vẫn hằng mơ ước.
Ma-ri lên tiếng:
- Đừng thấp đèn – Rồi khẽ cười nói thêm – Anh có nhớ ngày nào anh bảo em: Anh muốn có một “màu thật đẹp” không?
Nhưng cái sự thật làm cho Pi-e và Ma-ri náo nức, hoan hỉ từ mấy tháng nay còn đáng yêu gấp mấy điều mơ ước chất phác năm xưa. Chất Ra-đi có cái gì khác hơn là một màu “thật đẹp”. Nó tự tỏa sáng. Trong gian nhà xe tối om, những lọ thủy tinh tí tẹo đựng các mảnh vụn quý báu ấy, đặt la liệt trên bàn, trên các miếng ván bắt vào tường - vì không có tủ - trông như có lân tinh, màu xanh lơ, sáng rực, treo lơ lửng trong bóng tối.
- Piere, anh nhìn xem này,…- người vợ trẻ thì thầm.
Maiẻ rón rén, thận trọng bước lại gần, quơ tay sờ thấy một cái ghế rơm và ngồi xuống. Trong đêm tối, nguồn quang tuyến bí mật do chất Ra-đi tỏa ra, chất Ra-đi của họ. Nghiêng mình về phía trước, lặng lẽ, nghe ngóng, Ma-ri lại có tư thế như một giờ mới đây, ngồi bên đầu giường đứa con gái bé đang yên giấc.
Tay Pi-e khẽ vuốt lên mái tóc vợ.
Ma-ri sẽ nhớ mãi buổi tối lung linh ấy, nhớ mãi cảnh thần tiên ấy.
Chú thích:
[37] Lavoisier (1753 - 1794) nhà hoá học Pháp, một trong những người sáng lập ra ngành hoá học hiện đại