← Quay lại trang sách

Chương 14 CUỘC SỐNG KHẮC KHỔ

Có thể nói Pierre và Marie sẽ hoàn toàn hạnh phúc ngay trong cái nhà xe nghèo nàn, nếu như nơi đây, họ được dốc hết sức vào cuộc chiến đấu đầy quyến rũ để khám phá thiên nhiên.

Tiếc thay, còn nhiều thử thách đang chờ đợi mà hai người không thắng nổi.

Để được năm trăm phơ-răng mỗi tháng, Pi-e nhận dạy ở trường Vật lý một giáo trình một trăm hai mươi bài giảng và hướng dẫn cho sinh viên thực tập. Một việc nặng nhọc, thêm vào nhiệm vụ nghiên cứu. Chưa có con thì năm trăm phơ-răng cũng tạm đủ chi tiêu. Nhưng sau khi sinh I-ren, phải mướn một chị giúp việc và một người giữ trẻ. Khoản thu nhập trên thành ra eo hẹp. Hai vợ chồng phải tìm đủ mọi cách làm thêm.

Còn gì ái ngại bằng cảnh hai nhà bác học lớn chật vật như thế nào mà không kiếm ra nổi hai ba nghìn phơ-răng thiếu hụt hằng năm. Chuyện đâu đơn giản là chỉ cần tìm một việc phụ để lấp lỗ hổng của quỹ gia đình. Pierre Curie vốn coi việc nghiên cứu khoa học cũng cần thiết như cuộc sống. Đối với Pi-e, làm việc thí nghiệm – dù là trong một nhà xe – còn cần hơn ăn và ngủ. Nhưng nhiệm vụ ở trường Vật lý đã choán gần hết thời gian. Đáng lẽ nên giảm bớt việc cho Pi-e mới phải, nay lại thêm công việc. Mà tiền lại thiếu. Biết làm thế nào?

Giải pháp đơn giản, quá đơn giản. Chỉ cần bổ nhiệm nhà khoa học này làm giáo sư ở Sorbonne, chức vụ mà Pi-e rất xứng đáng, lương sẽ được một vạn phơ-răng mỗi năm, giờ dạy sẽ ít hơn ở trường Vật lý, học vấn của ông sẽ mở rộng kiến thức cho sinh viên và tăng thêm uy tín cho trường Đại học. Nếu với chức vụ đó, lại được sử dụng một phòng thí nghiệm thì có lẽ Pi-e không còn ao ước gì nữa. Tham vọng của ông chỉ là được dạy ở trường Đại học để đảm bảo đời sống và để đào tạo những nhà vật lý trẻ, và có một phòng thí nghiệm để làm việc. Một phòng thí nghiệm với mấy thứ mà cái nhà xe đang thiếu một cách tàn ác: điện và thiết bị kĩ thuật; có chỗ cho mấy người phụ tá; mùa đông có sưởi ấm chút ít.

Những đòi hỏi không tưởng! Ghế giáo sư, mãi đến năm 1904 khi mà cả thế giới đã biết đến chân giá trị của ông, Pi-e Qui-ri mới nhận được. Còn phòng thí nghiệm chẳng bao giờ đến với ông cả. Cái chết thường lôi kéo các bậc vĩ nhân hơn là chính quyền.

Đó là vì Pierre, khi giải thích các hiện tượng thiên nhiên hoặc tìm tòi khám phá bí ẩn của vật chất tài giỏi bao nhiêu thì đối với việc chạy đi xin chức vụ lại vụng về bấy nhiêu. Ông vốn có tài nên mỗi khi thi thố với đời không tránh khỏi bị ganh ghét, đố kị. Pi-e đâu hề biết đến mưu mô, thầy thợ. Ngay đến những học vị của ông cũng thành vô dụng vì ông không biết trưng giá trị của nó.

Sau này một nhà toán học lớn đương thời[38] nhắc tới Pi-e có nói:

- Với tính khiêm tốn lúc nào cũng nhún mình trước bạn bè, thậm chí ngay cả trước đối thủ của mình, Pi-e thuộc hạng người mà ta thường gọi là những “ứng cử viên xoàng” mà dưới nền dân chủ nước Pháp, ứng cử viên có thừa.

Năm 1898, môn hoá lý trường Đại học Xoóc-bon (Sorbonne) thiếu người dạy, Pi-e định xin vào chỗ đó. Kể công bằng ra thì ông đáng được bổ dụng. Nhưng vì không tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm và cũng chẳng học qua Đại học bách khoa, Pi-e không được sự nâng đỡ quyết định mà hai trường này dành cho nhưng học sinh cũ của mình. Vả lại một vài giáo sư cố chấp nói nếu trong vòng mười lăm năm qua, Pi-e đã có nhiều phát minh được đăng trên sách báo thì “nói cho đúng”, nó không thuộc lĩnh vực hoá- lý. Pi-e bị từ chối.

Một bạn thân cũng là giáo sư viết cho ông:

“Chúng ta đã thất bại, và có lẽ tôi sẽ hối mãi là đã xui anh ra ứng cử với kết quả thảm hại như vậy nếu như cuộc bình nghị về anh đã không rõ rệt tốt hơn cuộc bỏ phiếu. Các anh Líp-man, Bu-ti, Pê-la và tôi hết sức cố gắng, và ngay cả các đối thủ cũng ngợi khen những công trình tuyệt diệu của anh, nhưng làm sao mà đối địch với dân ở sư phạm ra, làm sao mà chống đối nổi với sự tây vị của bên toán học cơ chứ!”

Nói rằng cuộc bàn cãi đó có lợi cho Pi-e chỉ là một bù đắp suông! Sau đó hàng tháng trời không đâu thiếu người cả. Vợ chồng Qui-ri say sưa với công trình trọng đại của mình về chất Ra-đi, thà chịu sống chật vật còn hơn là đi chầu chực ở các phòng đợi,

Trong khó khăn họ vẫn lạc quan không một lời kêu ca. Với năm trăm phơ-răng, nào đã là cùng cực. Cuộc sống vẫn còn thu xếp được… trầy trật…

Ma-ri viết thư cho anh ruột là Dô-dếp, ngày 19 tháng ba 1899:

“Chúng em phải hết sức dè xẻn, lương nhà em không đủ chi tiêu, nhưng rồi hằng năm vẫn thường có những khoản thêm bất ngờ, nên cuối cùng chắc không đến nỗi vay nợ. Với lại, em cũng mong rằng rồi đây sẽ tìm được một việc ổn định. Lúc đó, không những sẽ đủ ăn, mà còn có thể dành dụm thêm để bảo đảm tương lai cho cháu. Nhưng em muốn bảo vệ xong luận án rồi mới đi làm. Những chất kim loại mới làm cho chúng em rất bận, đến nỗi em không còn thì giờ chuẩn bị thi tiến sĩ, kỳ thi này tất nhiên phải dựa vào những công trình ấy, nhưng cũng cần nghiên cứu thêm, việc đó hiện giờ chưa làm được.

Chúng em khoẻ cả: Pi-e không kêu nhức xương nữa. Em cũng khá hơn, không còn ho tí nào, phổi không sao cả. Khám nghiệm y học và thử đờm nhiều lần đều đi đến kết quả như vậy.

Cháu I-ren lớn bình thường. Em cho cháu cai sữa hồi mười tám tháng, nhưng cố nhiên em đã cho cháu ăn cháo sữa từ lâu. Độ này em vẫn cho cháu ăn cháo sữa, nhưng có thêm trứng gà tươi “thực sự là mới đẻ”.

Năm 1900. Trong quyển sổ chi tiêu, mục chi cứ tăng đều nhiều hơn thu. Cụ bác sĩ Qui-ri lúc này cũng đến ở đây, nhà có năm người – kể cả chị giúp việc. Nhà ở đại lộ Kê-lec-man. Một nghìn bốn trăm phơ-răng tiền thuê một năm. Vì cuộc sống thúc bách, Pi-e buộc lòng phải xin và nhận một chân ôn tập viên ở trường bách khoa, lương hai nghìn phơ-răng một năm. Bỗng nhiên, Pi-e nhận được đề nghị không ngờ tới, nhưng không phải là từ Pháp đưa lại. Sự phát minh ra chất Ra-đi, tuy chưa phổ biến rộng rãi đã được giới vật lý xác nhận, Trường Đại học Thuỵ Sĩ muốn tranh thủ sự cộng tác của hai nhà bác học mà họ xếp vào hạng nhất nhì ở châu Âu. Pi-e được mời làm giáo sư vật lý, lương một vạn phơ-răng một năm, có phụ cấp khu vực và được điều khiển một phòng thí nghiệm mà dự chi sẽ còn tăng sau khi đã thoả thuận với giáo sư Qui-ri, và còn thêm hai người phụ tá. Ma-ri cũng được mời vào làm việc chính thức ở phòng thí nghiệm.

Số phận thật là oái oăm, đã mang đến cho người ta điều mong ước nhất, nhưng lại kèm một chi tiết nhỏ làm cho nó tuyệt nhiên không thể thực hiện được. Giá trên đầu lá thư không đề “Nước cộng hoà Giê-ne-vơ” mà là “Trường đại học Pa-ri” thì vợ chồng Qui-ri sung sướng biết mấy!

Trước sự ân cần và trân trọng ấy, Pi-e nhận lời. Tháng bảy, hai vợ chồng đến Thuỵ Sĩ và được các bạn đồng nghiệp tiếp đón nồng nhiệt. Nhưng đến mùa hè, Pi-e bắt đầu suy nghĩ. Đây là một khóa giảng quan trọng sẽ phải nhiều tháng chuẩn bị? Làm sao có thể đành lòng bỏ dở công trình nghiên cứu dù trong chốc lát, vì không dễ gì mang theo được, làm sao có thể trì hoãn công việc làm tinh khiết hoá chất Ra-đi mới khám phá? Đối với hai nhà khoa học đang say mê, tin tưởng vào sự nghiệp của mình, đòi hỏi như vậy là quá đáng!

Tiếc thì tiếc, Piere đành gửi đến trường Đại học Giơ-ne-vơ (Genève) một bức thư cảm ơn, xin lỗi không nhận. Vì lòng yêu chất Ra-đi, Pi-e đã không chọn con đường dễ dàng, và quyết định ở lại Paris. Tháng mười, ông xin thôi việc ôn tập viên ở trường Bách khoa và nhận dạy lớp hóa sinh ở phố Qui-vi-ê (Quevier) gần trường Sorbonne, đằng nào cũng là làm thêm, nhưng ở chỗ mới, lương có hơn, Marie cũng muốn góp phần tăng thu nhập nên làm đơn xin dạy ở trường Nữ sư phạm Xe-vrơ, gần Véc-xây (Versailles). Bà nhận được thư của bà hiệu trưởng trường Nữ sư phạm:

“Thưa bà:

Tôi hân hạnh báo tin là trong niên học 1900-1901 bà được giao trách nhiệm giảng chương trình vật lý năm thứ nhất và năm thứ hai, trường Nữ sư phạm Xe-vrơ.

Mời bà đến gặp hiệu trưởng trường chúng tôi, từ thứ hai sau, ngày 29”

Đó là hai “thành công”. Quỹ gia đình được thăng bằng về lâu dài, nhưng ông bà Qui-ri phải gánh thêm một khối việc rất lớn, giữa lúc cần dồn tâm sức vào những thử nghiệm về phóng xạ. Thế là người ta từ chối điều duy nhất xứng đáng với Pi-e: một ghế giáo sư ở Xoóc-bon, nhưng lại tỏ ra quá đắc ý khi có thể dồn lên đầu nhà bác học có tài những việc nặng nhọc và thứ yếu.

Hai vợ chồng Qui-ri cắm cúi trên những sách giáo khoa, đặt thêm đầu đề toán cho học sinh, hoàn chỉnh các thí nghiệm làm trong lớp. Pi-e bây giờ dạy hai môn và hướng dẫn cho hai lớp sinh viên thực hành. Ma-ri mới vào nghề sư phạm ở Pháp, nên phải cố gắng hết sức để chuẩn bị giáo trình và sắp xếp cho các nữ sinh thực tập. Bà có những phương pháp mới và soạn những bài giảng độc đáo đến nỗi ông Luy-xiêng Poăng-ca-rê, hiệu trưởng trường đại học cũng phải ngạc nhiên và khen ngợi. Tính Ma-ri vẫn như vậy: đã làm gì thì phải đến nơi đến chốn.

Thật lãng phí bao nhiêu sức lực và thời giờ đáng lẽ phải dùng vào việc “chính”: mỗi tuần Ma-ri phải mấy chuyến vào Xe-vrơ, tay xách cặp dày cộm bài học sinh, tàu điện chậm đến sốt ruột lại còn phải đứng đợi trên vỉa hè hàng nửa giờ. Pi-e thì cứ như con thoi từ phố Lô-mông đến phố Qui-vi-ê, lên lớp lý-hoá-sinh rồi từ phố Qui-vi-ê về phố Lô-mông, nơi nhà xe. Vừa mới bắt đầu thí nghiệm lại phải bỏ đấy để đi hỏi bài những nhà vật lý trẻ.

Trước đây, Pi-e đã hy vọng đến đây sẽ có phòng thí nghiệm. Nó sẽ an ủi tất cả! Nhưng không… Lớp lý-hoá-sinh, chỉ được sử dụng hai phòng rất nhỏ. Lần này, Pi-e thất vọng đến nỗi, mặc dầu tính vốn không hay đòi hỏi, ông vẫn thử đề nghị được một nơi rộng hơn. Vô ích. Sau này Ma-ri viết:

“Ai đã từng qua cảnh chạy vạy như thế, đều biết những khó khăn tài chính và hành chính thường vấp và đều phải nhớ bao nhiêu đơn từ, bao nhiêu lượt thăm hỏi và khiếu nại mới giành được mối thuận lợi nhỏ bé. Những việc đó làm Pi-e Qui-ri rất mệt và nản”.

Hiệu suất làm việc và đến cả sức khoẻ của hai nhà bác học đều bị ảnh hưởng, Pi-e mệt mỏi đến nỗi thấy cần phải giảm ngay số giờ làm việc. Vừa đúng lúc đó thì nghề giáo sư khoáng vật học ở Xoóc-bon lại khuyết, Pi-e, tác giả của một số học thuyết có giá trị về tinh thể học, đương nhiên là người thích hợp hơn cả với nhiệm vụ ấy. Ông đưa đơn. Một người nữa cũng xin, và người ấy được bổ nhiệm. Xưa kia, Mông-te-nhơ (Montaigne) [39] đã từng nói:

“Với một tài năng lớn và một tính khiêm tốn lớn hơn nữa, người ta có thể một thời gian dài, không được ai biết đến!”

Bạn bè tìm hết cách giúp Pi-e tiến tới cái ghế giáo sư khó vời ấy. Năm 1902, giáo sư Mát-xca giục Pi-e tiến cử vào viện Hàn lâm khoa học. Chắc chắn ông sẽ trúng và đời sống vật chất sẽ ổn định thêm rất nhiều.

Pi-e do dự, sau ưng thuận mà không hào hứng lắm. Vì ông không thể cam tâm làm cái việc đến chào trình diện các nhà Hàn lâm theo tục lệ mà ông cho là “ngu xuẩn và mất phẩm giá con người”. Nhưng biết làm thế nào, phân khoa Vật lý ở Hàn lâm viện đã nhất trí giới thiệu, Pi-e đành ra ứng cử. Theo lời căn dặn của giáo sư Mát-xca, Pi-e lần lượt đến thăm từng vị Hàn lâm. Về sau, khi danh vọng đã đến với Pi-e Qui-ri và các báo muốn tìm những mẩu chuyện lý thú về nhà bác học, có người sẽ kể lại như sau chuyến đi thăm miễn cưỡng đó:

“Lên các tầng gác, bấm chuông tự giới thiệu, nói tại sao mình đến, đã làm người ứng cử gượng ấy[40] đỏ mặt tía tai lên rồi. Rồi lại phải trình bày các chức vị của mình, nói tốt cho mình, vốn khoa học và công trình của mình, tất cả những cái đó, đối với Pi-e thật là quá sức.

Thế là ông quay ra khen thành thật, tận tình đối thủ của mình, cho rằng ông A-ma-ga xứng đáng hơn, hơn ông rất nhiều để vào Hàn Lâm”.

Ngày 9-6, công bố kết quả bầu cử. Giữa Pi-e Qui-ri và A-ma-ga, các vị Hàn lâm đã chọn A-ma-ga.

Pi-e viết thư cho bạn thân Gioóc-Guy:

“Như anh đã đoán trước lần bầu cử này đã thuận lợi cho A-ma-ga với 23 phiếu, còn tôi được 20 phiếu và Giec-ne 6 phiếu.

Tôi tiếc đã mất thời giờ đi thăm hỏi để chỉ được cái kết quả ấy. Phần khoa Lý đã nhất trí đề cử tôi và tôi đã quá nể. Kể lại chuyện này để anh biết, xin đừng nghĩ là tôi để tâm vì những chuyện nhỏ nhặt ấy.

Piere Curie”

Chủ nhiệm mới của trường Đại học khoa học, Pôn A-pen vẫn người giáo sư ngày xưa đã từng làm cô nữ sinh Ba Lan say sưa thán phục – tìm cách khác giúp Pi-e. Biết tính không khoan nhượng của Pi-e, ông rào trước.

Pôn A-pen viết thư cho Pi-e Qui-ri:

“Bộ giáo dục có hỏi ý kiến tôi để lập danh sách tặng Bắc đẩu bội tinh. Vì danh nghĩa trường Đại học khoa học, cho phép tôi ghi tên ông. Đành rằng huân chương này chả có ý gì với một người như ông, nhưng tôi thấy cần phải giới thiệu những người xứng đáng nhất ở trường Đại học khoa học, những người tiêu biểu nhất do sáng kiến và công trình của họ. Cũng là để cho Bộ trưởng biết đến và giới thiệu cách làm ăn của chúng ta ở Xoóc-bon. Nếu được huân chương, ông đeo hay không tuỳ ý, nhưng xin cứ cho phép chúng tôi giới thiệu ông”.

Pô A-pen viết cho Ma-ri Qui-ri:

“Tôi đã nhiều lần nói với ông hiệu trưởng Li-a về những công trình tốt đẹp của ông Qui-ri, về thiết bị thiếu thốn của ông, về sự cần thiềt phải cho ông một phòng thí nghiệm rộng hơn. Ông hiệu trưởng đã nói về ông Qui-ri với ngài Bộ trưởng nhân dịp giới thiệu những người xứng đáng được tặng thưởng Bắc đẩu bội tinh ngày 14-7.

Ngài Bộ trưởng có vẻ chú ý đến ông Qui-ri lắm và có lẽ muốn biểu lộ sự chú ý đó bằng cách gắn huân chương cho ông Qui-ri, vì vậy, xin bà hết sức nói giúp để ông Qui-ri không từ chối. Việc ấy tự nó chẳng có ích lợi nhưng về hậu quả - phòng thí nghiệm, nguồn ngân sách… thì nó có tác dụng rất to lớn.

Vì khoa học và lợi ích cao cả của trường đại học xin bà nói giúp để ông Qui-ri đồng ý về việc này”.

Pi-e không “đồng ý”, Pi-e rất ghét danh vọng và riêng điều đó cũng đủ giải thích thái độ của ông. Nhưng còn một nguyên nhân tư tưởng nữa. Ông thấy thực nực cười khi người ta tiếc cho một nhà khoa học những phương tiện làm việc, và cùng lúc đó, như để vỗ về, người ta lại bày ra trò tặng một chữ thập tráng men treo bằng một mẩu lụa đỏ.

Pi-e Qui-ri đã trả lời:

“Nhờ ông cảm ơn Bộ trưởng giúp tôi và nói hộ rằng tôi không mảy may thấy cần được huân chương, nhưng bao giờ hết, tôi cần một phòng thí nghiệm”.

*

Thế là hết hy vòng vào một cuộc sống sáng sủa hơn. Chẳng được nơi làm việc như ý, Pi-e và Ma-ri đành bằng lòng với cái nhà xe để tiếp tục thí nghiệm. Và những giờ hăng say sống trong cái lán ấy đã an ủi họ bao nhiêu lỡ làng. Họ vẫn dạy học. Dạy với thiện chí, không chút miễn cưỡng. Sau này, nhiều học trò cũ còn nhớ với lòng biết ơn những bài giảng sinh động và mạch lạc của thầy Pi-e. Và nhiều nữ sinh trường sư phạm Xe-vrơ đầy ham thích khoa học cũng là nhờ Ma-ri, bà giáo có mớ tóc hung, giọng nói thuộc dân tộc Xla-vơ làm cho những bài chứng minh cao siêu của bà nghe như hát.

Bị giằng co giữa việc nghiên cứu khoa học và nhu cầu đời sống, Pi-e và Ma-ri quên cả ăn, cả ngủ. Cái nếp “sống bình thường” xưa kia Ma-ri đặt ra, những thành tích nội trợ, nấu nướng của người vợ trẻ nay hầu như bị lãng quên.

Họ làm việc đến kiệt sức mà không biết rằng đó là một sự liều lĩnh. Nhiều khi Pi-e, nhức nhối chân tay đến mức không thể chịu được, phải nằm liệt. Ma-ri, thần kinh có phần vững hơn; từ khi đẩy lùi được cái bệnh lao mới chớm đã làm cho cả nhà lo âu, bằng cách liều xem thường không cần kiêng khem gì thì Ma-ri tưởng mình sức vững như đá, khó mà ốm. Nhưng trên quyển sổ nhỏ ghi hàng tuần trọng lượng của mình, con số cứ thấp đều. Bốn năm ở nhà xe Ma-ri sút đi bảy cân. Bạn bè ai cũng ái ngại thấy Ma-ri như tàu lá. Một nhà vật lý trẻ phải viết thư cho Pi-e khẩn khoản mong ông chú ý sức khoẻ của Ma-ri và bản thân. Bức thư này đã phác họa một cách đáng lo ngại về cuộc sống, và sự hy sinh của hai nhà bác học.

Gioóc Xa-nhắc viết cho Pi-e Qui-ri:

“Gặp chị Qui-ri ở Hội vật lý, tôi sửng sốt trước thần sắc suy nhược của chị. Tôi biết rằng chị đã làm việc căng thẳng trong thời gian viết luận án. Nhưng chị không đủ sức để sống một cuộc đời hoàn toàn tinh thần, như cuộc đời anh chị đang sống, và điều này áp dụng cả với anh nữa. Một ví dụ cụ thể là hai anh chị không chịu cố gắng ăn để lấy sức. Nhiều lần tôi thấy chị Qui-ri chỉ ăn hai khoanh xúc-xích và uống một chén nước trà. Sức nào kham nổi ăn uống thiếu thốn như vậy? Nếu chị Qui-ri mất sức thì anh sẽ ra sao?

Dù chị có tỏ ra chểnh mảnh hoặc cố chấp thì đó cũng không phải là một lý do. Tôi đoán anh sẽ gặp trở ngại sau đây: Chị sẽ nói là chị không đói, là chị không còn là một đứa trẻ để ai đó bảo ban! Thế nhưng, chị hiện nay cư xử như một em bé vậy. Tôi nói điều này với tất cả lòng chân thật của tình bạn.

Anh chị không dành đủ thời giờ cho những bữa ăn. Giờ ăn quá tùy tiện. Bữa tối thường muộn đến nỗi dạ dày đợi mãi đâm ì không làm việc được nữa. Cố nhiên, một vấn đề đang nghiên cứu dở có thể làm chậm một bữa tối, nhưng đừng để thành thói quen. Cuộc sống của anh chị hiện nay, lúc nào cũng chỉ thấy lo ngại về nghiên cứu khoa học. Như vậy không nên. Hãy cho cơ thể nghỉ ngơi. Hãy ngồi vào bàn ăn một cách thư thái, tránh những chuyện buồn, thậm chí cả những chuyện mệt óc, không nên vừa ăn vừa đọc hoặc nói chuyện vật lý”.

*

Trước những lời báo động và trách móc đó, Pi-e và Ma-ri trả lời một cách ngây thơ “Chúng tôi vẫn nghỉ đấy chứ, hè nào chúng tôi chẳng đi nghỉ!”.

Đúng là họ vẫn thường đi nghỉ hè và họ tưởng như vậy. Những ngày hè đẹp trời hai vợ chồng vẫn thường đi chỗ này chỗ nọ như xưa. Đối với Pi-e và Ma-ri, nghỉ ngơi nghĩa là đi xe đạp, qua suốt rặng núi Xê-ven năm 1898. Hai năm sau đi dọc bờ biển Măng-sơ (Manche), từ Ha-vrơ (Havre) đến Xanh Va-lê-ri (Saint Valery) trên sông Xom (Somme), rồi ra đảo Noa-mu-chi-ê (ile noirmoutier). Năm 1901, người ta thấy hai người ở Phu-duy, 1902 ở A-rô-măng-sơ (Arromanches), 1903 ở Trê-po (Tréport )và Xanh Trô-giăng (Saint trojan )…

Cách nghỉ hè như thế có làm cho Pi-e và Ma-ri đỡ căng thẳng về tinh thần và thể xác không? Đáng ngờ lắm… Mà cũng chỉ tại Pierre nôn nóng, cứ đến đâu vài ba ngày, Pierre đã bàn chuyện về và nhắc vợ: “Đã lâu quá chúng mình chẳng làm được gì nhỉ!”

Năm 1899, một chuyền đi chơi xa đã đem lại cho hai vợ chồng một niềm vui lớn. Lần đầu tiên sau khi lập gia đình, Marie mới trở về Tổ quốc, không phải về Vác-xô-vi, mà về Ba Lan thuộc Áo, ở Da-cô-pan, nơi anh chị Du-xki đang dựng một nhà an dưỡng. Ngay sát bên cạnh cái công trường đang tấp nập thợ xây, nhà trẻ E-gie có thêm một đoàn người rất mực thương yêu trìu mến nhau. Ở đây có cả cụ Xkhua-đốp-xki, giáo sư trông còn rất tráng kiện và trẻ hẳn ra vì sung sướng gặp lại bốn con đến nay đã lập gia đình.

Năm tháng qua nhanh thật! Mới hồi nào anh con trai và ba cô gái cụ còn đi tìm việc ở Vác-xô-vi. Bây giờ, Dô-dếp, một bác sĩ có tín nhiệm, đã có vợ và mấy con. Brô-ni-a và Ca-di-mia mở một nhà điều dưỡng. Hê-la đang có nhiều triển vọng trong ngành giáo dục, chồng là Xra-nis-lítx Sa-lay mở một hiệu ảnh lớn. Còn cô út Ma-ni-a thì làm việc trong một phòng thí nghiệm, đã có công trình nghiên cứu được xuất bản, “cái con bé hóm hỉnh” như cụ vẫn thường gọi trước kia…

Chàng rể nước ngoài được cả nhà vồn vã. Họ hãnh diện giới thiệu cho Pi-e đất nước Ba Lan tươi đẹp. Thoạt đầu, cảnh tượng cằn cỗi với những ngọn tùng đen sẫm, chĩa lên bầu trời không làm Pi-e hào hứng lắm; rồi sau, trong một buổi đi chơi trên đỉnh núi “Ri-xi”, Pi-e rất cảm xúc trước cảnh nên thơ và tầm bao la của dãy núi hùng vĩ này. Buổi chiều, Pi-e nói với vợ trước mặt cả nhà:

- Đất nước Ba Lan đẹp lắm, nay tôi mới hiểu tại sao người ta có thể yêu nó đến thế.

Pi-e cố ý nói bằng những tiếng Ba Lan mới học được, tuy giọng sai nhưng cũng làm cho anh em nhà vợ rất thích thú và phục lăn. Và Pi-e nhận thấy nét mặt Marie rạng rỡ hẳn lên, với một nụ cười ngây thơ tự hào.

Ba năm sau, tháng năm 1902, Ma-ri lại đi tàu về Ba Lan. Nhiều thư báo tin là cụ giáo ốm nặng, phải mổ túi mật, lấy ra được nhiều sỏi to. Mới đầu, còn nhận được những tin tức an tâm, rồi bỗng nhiên, một bức điện. Thế là hết, Ma-ri muốn đi ngay. Nhưng thủ tục giấy thông hành rất phức tạp, phải mấy tiếng đồng hồ, giấy tờ mới hợp lệ. Sau hai ngày rưỡi đi đường tới Vác-xô-vi, đến nhà Dô-dếp nơi cụ Xkhua-đôp-xki ở. Chậm quá, Ma-ri không thể chịu đựng ý nghĩ là sẽ không được nhìn mặt bố lần cuối cùng, Trên đường đi, nhận được tin bố mất, bà đánh điện van nài anh chị hãy hoãn lễ an táng. Bước vào nhà tang, chỉ còn thấy quan tài và hoa. Bà khăng khăng yêu cầu mở nắp quan tài. Trước khuôn mặt vô tri vô giác và bình thản của bố, có một vết máu nhỏ đã khô đọng từ lỗ mũi ra. Ma-ri vĩnh biệt và xin lỗi người đã khuất. Bà vẫn thầm trách mình cứ ở mãi bên Pháp không đáp lại lời mong mỏi của người cha đã dự định sống ngày cuối cùng với con gái út. Trước quan tài đã mở nắp, Ma-ri cứ đứng lặng mãi cho đến lúc anh và chị phải chấm dứt cái cảnh đau lòng ấy.

Marie thật cẩn thận và nghiêm khắc với mình. Bà tự dằn vặt một cách bất công, cụ Xkhua-đốp-xki đã sống những năm cuối đời rất êm đềm – và nhờ có Ma-ri, lại càng êm đềm hơn. Tình mến thương của con cháu và niềm vui của người cha, người ông, làm cụ quên dần những nỗi gian truân của một cuộc đời thua thiệt. Những niềm vui cuối cùng, những niềm vui lớn nhất của cụ đều do Ma-ri. Sự khám phá ra hai chất Pô-lô-ni và Ra-đi, các bản thông báo của Viện Hàn lâm khoa học Pa-ri, các bản tin rạng rỡ kí tên con mình làm tràn ngập lòng tự hào của nhà giáo sư vật lý ấy, mà công việc vụn vặt hằng ngày không cho ông đi sâu nghiên cứu khoa học. Theo dõi công trình của con gái, từng giai đoạn một, cụ thấy rõ tầm quan trọng và đoán trước ảnh hưởng của nó. Mới đây Ma-ri đã báo tin cho cụ: sau bốn năm trời kiên trì đã có được Ra-đi nguyên chất. Và trong bức thư cuối cùng, viết sáu ngày trước khi chết, tay run nét chữ nguệch ngoạc làm cho Ma-ri lo lắng nhận thấy chữ viết của cụ không còn đều đặn, đẹp nét như xưa, cụ đã nói với con gái:

“Thế là con đã có được muối Ra-đi nguyên chất. Nếu tính tổng số công sức bỏ ra để có được chất ấy, thì chắc hẳn nó là một nguyên tố hoá học đắt nhất, chỉ tiếc là hình như vật ấy chỉ đáng chú ý về mặt lý thuyết mà thôi”.

Giá cụ sống thêm hai năm nữa, hẳn cụ sẽ sung sướng và tự hào biết bao khi thấy vinh quang đến với con gái và giải thưởng Nô-ben được tặng chung cho Hăng-ri Bếch-cơ-len, Pi-e và con bé út “An-chiu bé nhỏ” của cụ.

Xanh xao, gầy gò, Ma-ri từ giã Vác-xô-vi. Đến tháng 9 năm ấy, bà trở lại Ba Lan. Sau tang tóc, mấy anh em Xkhua-đốp-xki càng thấy gắn bó, để tỏ rõ cho nhau rằng tình anh em đùm bọc vẫn cứ còn sống mãi.

*

Tháng mười, Pi-e và Ma-ri trở lại phòng thí nghiệm. Cả hai đều mệt mỏi. Ma-ri vừa tham gia nghiên cứu về soạn lại kết quả làm tinh khiết chất Ra-đi. Nhưng cái hào hứng, ham thích năm xưa không còn nữa. Nếp sống căng thẳng kinh khủng mà từ bốn hôm nay thần kinh bà phải chịu đựng bắt đầu có triệu chứng không bình thường. Có đêm Ma-ri mê ngủ, trở dậy đi đi lại lại trong phòng.

Năm sau, xẩy ra mấy việc đau thương, Ma-ri có mang, rồi đẻ non, coi đó là một việc bi thảm Ma-ri viết cho Brô-ni-a, ngày 20 tháng Tám 1903:

“Em sửng sốt đến nỗi chả có can đảm để viết cho ai cả. Em đã đinh ninh sẽ có đứa con đó, nên không tự an ủi được. Chị xem có phải là do suy nhược không. Vì phải thú nhận rằng em không biết giữ sức. Em quá tin ở cơ thể mình và bấy giờ mới hối, vì đã phải trả giá quá đắt điều đó. Một đứa bé gái, lanh lẹn và đáng lẽ có thể sống mà em thì đang mong mỏi biết chừng nào!”

Ít lâu sau, lại có tin buồn từ Ba Lan. Đứa con trai thứ hai của Brô-ni-a đau màng óc, chỉ vài ngày là chết.

Ma-ri viết thư cho anh Dô-dếp:

“Tai hoạ xảy ra đến với anh chị Du-xki làm em hết sức đau xót. Cháu thật hồng hào khoẻ mạnh. Chăm sóc hết mức mà còn không giữ được một đứa bé như thế thì mong gì giữ được đứa khác và nuôi chúng? Em không thể nhìn thấy đứa con gái em mà không run lên vì sợ. Nỗi đau đớn của chị Brô-ni-a như cắt xé lòng em”.

Những đau buồn đó làm tăm tối cuộc đời của Ma-ri đang bị xâu xé bởi một mối lo âu nghiêm trọng nhất: Pierre không khoẻ. Pierre bị những cơn đau quằn quại, làm cho ông ủ rũ đáng sợ. Vì thiếu triệu chứng cụ thể, thầy thuốc cứ cho là thấp khớp. Nhiều lần đau dữ dội quá, Pi-e rên suốt đêm, Ma-ri hoảng sợ, cũng thức trắng để chăm sóc. Thế mà Ma-ri vẫn dạy học ở Xe-vrơ, Pi-e cần phải hỏi bài sinh viên và trông coi họ thực tập, và hai nhà vật lý vẫn tiếp tục những thí nghiệm tinh vi, dù thiếu nơi làm việc như ý.

Một lần, một lần thôi, Pi-e thốt ra một lời than vãn. Ông nói rất nhỏ:

- Kể ra thì con đường chúng ta chọn vất vả thật đấy!

Ma-ri định nói lại nhưng không giấu nỗi lo ngại của mình. Pi-e mà nản đến thế phải chăng vì quá suy nhược? Biết đâu chẳng do một bệnh hiểm nghèo không hòng cứu chữa? Còn bản thân mình, không biết sẽ khắc phục nổi những sự mệt mỏi ghê gớm của mình không? Hàng mấy tháng nay, ý nghĩ về cái chết cứ lởn vởn trong đầu Ma-ri và ám ảnh bà.

Ma-ri gọi:

- Pierre.

Giọng lo âu, nghẹn ngào của Ma-ri làm nhà bác học ngạc nhiên quay lại:

- Gì thế, Ma-ri, em sao thế?

- Pi-e…, nếu một ngày một trong hai chúng ta chết… thì chắc người còn lại khó mà sống nổi. Chúng ta không thể sống không có nhau, phải không anh?

Pi-e chậm chạp lắc đầu. Ma-ri đã nói những lời của một người vợ và một người yêu, nhưng trong giây phút đã quên sứ mệnh của mình, làm cho Pi-e sực nhớ rằng một nhà bác học không có quyền bỏ khoa học, lẽ sống của mình.

Pi-e nhìn ngắm bộ mặt đăm chiêu buồn rầu của Ma-ri, và nói với một giọng cương quyết:

- Em nhầm. Dù sao đi nữa, dù có như cái xác không hồn, người còn lại vẫn cứ phải làm việc.

Chú thích:

[38] Henri Poincera (1854 -1912) nhà toán học Pháp

[39] Montaigne, một nhà luân lý học Pháp vào thế kỷ XVI (1533 – 1592)

[40] Chỉ Pierre Curie