Chương 17 CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY
Tên tuổi Pierre và Marie nay đã lừng lẫy. Hai vợ chồng giàu tiền hơn nhưng kém đi những giờ hạnh phúc. Nhất là Marie hầu như mất những lúc dạt dào nhiệt tình và niềm vui của mình. Ma-ri không hoàn toàn bị thu hút như Pi-e vào những ý nghĩ khoa học. Cuộc sống hàng ngày luôn luôn kích động đến tâm hồn nhạy cảm và thần kinh của bà – mà bà không biết cách thích ứng.
Tuy bị căng thẳng về sự huyên náo do khám phá ra chất Ra-đi và giải Nô-ben (Nobel) mang lại, Ma-ri không một lúc nào quên được nỗi lo âu đang cào xé lòng mình: đó là bệnh của Pierre.
Thư của Pi-e viết cho bạn là Gioóc Guy nhắc luôn đến việc này:
31 tháng Giêng 1905:
“Hè vừa qua, một cơn đau thấp khớp dữ dội làm cho tôi phải bỏ ý định đi Thụy Điển. Thật ra tôi chỉ có thể giữ được không ốm bằng cách tránh mọi mệt nhọc về cơ thể. Ma-ri cũng đang trong trạng thái này và không thể nghĩ đến những ngày làm việc miệt mài như trước nữa”.
24 tháng Bảy 1905:
“Chúng tôi vẫn sống cuộc đời của những người rất bận rộn, mà không được việc gì có ích cả. Hơn một năm nay rồi, tôi chẳng được một công trình nào và không được yên tĩnh mà nghiên cứu. Tôi chưa biết làm thế nào để thì giờ khỏi bị xé lẻ, mà điều này lại rất cần trong lĩnh vực trí tuệ.
Những cơn đau của tôi hình như do suy nhược thần kinh hơn là do thấp khớp và đã đỡ dần từ khi tôi chú ý ăn uống có giờ giấc hơn”
19 tháng Chín 1905:
“Tôi đã lầm tưởng rằng sức khỏe của mình khá hơn. Mới đây lại bị nhiều cơn đau và cứ hơi mệt một tí là đau lại. Tình trạng này, chả biết sẽ còn có thể làm việc một cách nghiêm túc trong phòng thí nghiệm hay không”.
Còn đâu những ngày nghỉ hè năm xưa, tuyệt diệu vô tư, vui vẻ, hai vợ chồng đạp xe khắp các nẻo đường như những học sinh, giờ đây Ma-ri thuê một căn nhà nhỏ ở thôn quê gần Pa-ri, để chăm sóc chồng và con gái.
Ma-ri viết thư cho bà Giăng Pe-ranh (từ làng Xanh Rê-mi trong thung lũng Sơ-vrơi).
“Cháu I-ren vẫn chưa khỏi hẳn ho gà, làm tôi không yên tâm. Thỉnh thoảng lại ho. Tuy cháu ở thôn quê ba tháng nay rồi. Pi-e mệt lắm, không đi chơi được và chúng tôi dùng thì giờ để đọc những bản báo cáo về Vật lý – Toán.
I-ren mới có một xe đạp con và đi rất thạo. Nó lên xe, mặc quần áo con trai, nom thật ngộ nghĩnh”.
Do đau ốm luôn, đồng thời như cảm thấy một mối đe dọa nghiêm trọng, Pi-e cứ bị ám ảnh vì thời gian trôi quá nhanh. Con người còn rất trẻ ấy sợ sắp chết ư? Dường như Pi-e muốn chạy thi với một kẻ thù vô hình. Thấy Pi-e là thấy hăm hở, vội vã. Pi-e thúc giục vợ một cách trìu mến, truyền cho Ma-ri nỗi lo lắng của mình. Cần phải xúc tiến việc nghiên cứu, bằng mọi cách tăng số giờ có mặt ở phòng thí nghiệm.
Ma-ri lại cố gắng hơn, nhưng đã quá sức chịu đựng của mình.
Số phận Ma-ri thật là khắc nghiệt. Kể từ ngày một cô gái Ba Lan mười sáu tuổi, rời nông thôn ra Vác-xô-vi sinh sống, trong đầu còn say sưa bao kỷ niệm hội làng vui vẻ, cuộc đời của Ma-ri, đã hai mươi năm nay, chỉ biết có vất vả. Thời con gái, sống cô đơn, miệt mài với sách vật lý trong một gác xép lạnh lẽo. Đến lúc gặp tình yêu, thì đồng thời tình yêu lại gắn với công việc, không thể rời được.
Lòng yêu khoa học và tình yêu chồng con hòa lẫn thành một niềm thiết tha duy nhất là cho Ma-ri chịu khép mình vào một cuộc sống khắc khổ. Tình yêu của Pi-e và Ma-ri đều nồng thắm, hai người cùng chung một lý tưởng. Nhưng Pi-e trước kia đã từng qua một thời gian dài chểnh mảng, một tuổi niên thiếu nồng cháy, sống những phút say mê rạo rực. Còn Ma-ri khi trở thành vợ, thành mẹ, không một lúc nào ngơi công việc và đôi khi chỉ ao ước được biết cái thú vui đơn giản của cuộc sống. Là một người vợ, một người mẹ rất dịu dàng, Ma-ri mơ tưởng đến những giây phút thư thái êm đềm, những ngày thảnh thơi, thoải mái.
Về điều này, Ma-ri làm cho Pi-e ngạc nhiên. Rất sung sướng tìm được người bạn gái có thiên tài, Pi-e chỉ muốn Ma-ri hoàn toàn tự hy sinh cũng như mình đã hy sinh cho điều mà ông gọi là “lý tưởng chủ yếu của hai người”.
Ma-ri nghe theo lời Pi-e – từ trước đến nay bà vẫn nghe lời như vậy, – nhưng về thể xác lẫn tâm hồn bà thấy mệt mỏi. Bà tự trách mình là kém cỏi về trí tuệ, là “đần”. Sự thực thì đơn giản hơn: ở người đàn bà ba mươi sáu tuổi ấy, cuộc sống của thể xác bấy lâu bị kìm hãm, thiệt thòi, đang đòi hỏi chăm sóc. Điều mà Ma-ri cần lúc này, đó là trong một thời gian, không phải là “bà Qui-ri” nữa, là quên chất Ra-đi, – là ăn, là ngủ, và không nghĩ đến việc gì khác.
Nhưng nào có được, mỗi ngày cuộc sống mang đến những nhiệm vụ mới. Năm 1904 sẽ hết sức vất vả – nhất là đối với Ma-ri đang có mang – bà không yêu cầu một điều gì ngoài việc xin nghỉ phép ở trường nữ học Xe-vrơ. Và chiều chiều, mệt mỏi nặng nề, Ma-ri khoác tay Pi-e từ phòng thí nghiệm trở về nhà. Mỗi lần nhớ tới Vác-xô-vi, lại tìm mua một ít trứng cá Ca-vi-a ép, mà bà rất thèm, như người ăn dở.
Gần đến ngày sinh, Ma-ri mệt như muốn quỵ.
Brô-ni-a từ Ba Lan đến, đỡ đẻ cho em, rất kinh ngạc thấy tính tình Ma-ri khác hẳn.
Ngày 6 tháng Chạp 1904, bà sinh một em bé gái mập mạp, tóc đen, đặt tên là E-vơ.
Brô-ni-a cố gắng hết sức để giúp đỡ em. Vẻ mặt bình tĩnh của Brô-ni-a, trí phán định xác đáng của bà đánh tan phần nào nỗi buồn vơ vẩn của Ma-ri. Và khi Brô-ni-a trở về nước thì tư tưởng Ma-ri cũng thư thái hơn.
Như trước đây đối với I-ren, lần này Ma-ri cũng ghi vào một quyển vở màu tro để theo dõi, những cử chỉ đầu tiên, những cái răng nhú của E-vơ, và khi đứa trẻ lớn dần thì thần kinh của Ma-ri cũng khá hơn. Thời gian nghỉ đẻ, Ma-ri đỡ căng thẳng, lại thấy yêu đời, đến gần các dụng cụ lại thấy vui thích. Rồi người ta lại thấy bà đến trường nữ sinh Xe-vrơ. Mấy ngày đầu, còn chuệnh choạng, nhưng chỉ ít lâu sau, bước đi của bà lại vững vàng như xưa. Ma-ri lại tiếp tục con đường vất vả.
Một lần nữa, Marie lại yêu thích mọi thứ, từ nhà cửa đến thí nghiệm. Bà hồi hộp theo dõi các sự kiện đang lay chuyển đất nước quê hương. Bên Nga, cuộc cách mạng 1905 đang ác liệt, và những người Ba Lan khát khao được giải phóng, hết sức ủng hộ cuộc bạo động chống Sa hoàng.
Marie viết thư cho anh Dô-dếp, 23 tháng Ba 1905:
“Em biết là anh đang hy vọng cuộc thử thách gian nan này sẽ đem lại cho nước ta một vài lợi ích. Đó cũng là ý chị Brô-ni-a và anh Ca-di-mia. Mong sao hy vọng đó không tan vỡ! Em cũng mong mỏi như thế và luôn luôn nghĩ đến việc đó. Dầu sao, em nghĩ rằng cần ủng hộ cách mạng. Em sẽ gửi tiền cho anh Ca-di-mia, tiếc rằng em không thể tham gia trực tiếp được
Ở bên này, không có gì mới. Các cháu lớn đều. Bé E-vơ không chịu ngủ, và nó đã thức giấc mà cứ để nó trong nôi là nó kêu toáng lên. Em thiếu nghị lực nên cứ phải bế nó cho đến khi nó nín. Nó không giống I-ren. Tóc cháu đen và mắt xanh lơ, còn I-ren thì tóc sáng và mắt xanh nâu.
Chúng em vẫn ở chỗ cũ, và bây giờ sang xuân, bắt đầu có thể ra vườn chơi. Hôm nay trời tuyệt đẹp, chúng em thích lắm, nhất là vừa qua, mùa đông rất ẩm ướt và khó chịu.
Em tiếp tục dạy học từ mồng một tháng Hai. Chiều đến phòng thí nghiệm, sáng ở nhà, trừ hai sáng mỗi tuần dạy ở Xe-vrơ. Bận lắm, nào nhà cửa, nào con cái, dạy học và phòng thí nghiệm, em không biết làm thế nào nữa”...
*Trời đẹp, Pi-e thấy khỏe ra, Ma-ri tươi tỉnh hơn. Đã đến lúc làm cái nhiệm vụ đã hoãn quá nhiều lần: đi Xtốc-khôm, thuyết trình về phần thưởng Nô-ben. Hai vợ chồng tiến hành cuộc hành trình vinh quang, mà sau này trong gia đình chúng tôi sẽ trở thành một truyền thống.
Mồng sáu tháng Sáu năm 1905, nhân danh cả hai người, Pi-e nói chuyện trước Hàn lâm viện Khoa học Xtốc-khôm. Ông nhắc lại các kết quả của sự khám phá ra Ra-đi trong vật lý, đã thay đổi sâu sắc nhiều nguyên lý cơ bản. Về hóa học, nó gợi ra những giả thuyết táo bạo về nguồn năng lượng duy trì tính phóng xạ. Về địa chất học, khí tượng học, nó giải thích những hiện tượng cho đến nay chưa hiểu được. Về sinh vật học, tác dụng Ra-đi trên những tế bào ung thư tỏ ra có hiệu quả.
Chất Ra-đi đã làm giàu cho kiến thức và phục vụ việc thiện. Nhưng liệu nó có làm tay chân cho việc ác không?
Kết thúc bản báo cáo Pi-e nói: “... Người ta còn có dịp nhận thức rằng chất Ra-đi vào những bàn tay tội phạm, có thể trở thành nguy hiểm và ở đây câu hỏi đặt ra là: Nhân loại có lợi gì không trong việc khám phá những bí mật của thiên nhiên và đã chín muồi chưa để tận dụng những bí mật ấy hay sự hiểu biết ấy lại chẳng có hại. Khám phá của Nô-ben rất tiêu biểu về mặt này: Các chất nổ mạnh đã giúp loài người làm được những công trình vĩ đại, nhưng cũng là một công cụ phá hoại khủng khiếp trong tay bọn tội phạm chiến tranh xô đẩy các dân tộc vào cuộc chém giết lẫn nhau. Tôi cũng nghĩ như Nô-ben, rằng nhân loại sẽ rút được ở những phát minh mới nhiều điều tốt hơn là điều xấu”.
*Gian nhà ở đại lộ Kê-léc-man kín cổng cao tường, như một thành lũy che chở họ khỏi bị quấy rầy. Ở đây, Pi-e và Ma-ri tiếp tục sống cuộc đời đơn giản, ẩn dật. Việc nội trợ được giảm đến mức tối thiểu. Một bà giúp việc làm các việc, một chị làm bếp phục vụ các bữa ăn. Miệng há hốc, chị ngắm các khuôn mặt đăm chiêu của những người chủ lạ lùng và chờ đợi vài lời khen về món thịt rán hay món khoai tây hầm của chị.
Một hôm, chờ mãi không chịu được, con người chất phác ấy mạnh dạn hỏi Pi-e cho nhận xét về món thịt bò rán mà Pi-e vừa ăn một cách ngon lành. Nhưng câu trả lời làm cho chị phân vân:
– Tôi ăn thịt bò rán à? – Nhà bác học khẽ hỏi.
Rồi nói thêm như nhân nhượng: “Ừ, có thể!”
Ngay những thời gian bận việc nhất, Ma-ri vẫn dành thì giờ chăm sóc con cái. Nghề nghiệp bắt buộc bà phải giao phó con cho những người giúp việc, nhưng chừng nào chưa tự mình kiểm tra xem I-ren và E-vơ có ăn tốt, ngủ tốt không, có được chải đầu và tắm rửa không, có triệu chứng cảm lạnh hoặc đau ốm gì khác không, thì Ma-ri chưa yên tâm. Vả lại, ví thể bà có lơ là đi nữa thì I-ren cũng biết cách làm bà phải nhớ đến nó. Nó cũng không vừa. Nó muốn giữ riêng mẹ của nó và không thích mẹ nó chăm sóc đến em bé. Mùa đông, Ma-ri phải đi nhiều nơi ở Pa-ri để tìm mua táo và chuối thì I-ren mới chịu ăn, không mua được, bà chưa dám về nhà.
*Bà Qui-ri thỉnh thoảng cũng họp các em nhỏ lại để vui chơi với bé I-ren và tập cho nó tính mạnh dạn hơn. Sau này, thế hệ trẻ đó còn nhớ mãi những kỷ niệm sâu sắc về cây thông Nô-en, giăng hoa lá rực rỡ, với những hạt dẻ bọc giấy kim nhũ và những ngọn nến màu do Ma-ri trang trí.
Cũng có lần ngôi nhà còn được dùng làm khung cảnh cho một màu thần tiên gấp bao nhiêu lần cây thông thắp sáng. Thợ điện đến mắc ở buồng ăn những chiếc đèn chiếu sân khấu và một dãy đèn điện. Sau bữa tối, trước mặt ông bà Qui-ri và hai ba người bạn, ánh đèn chiếu ve vuốt những tà áo lụa mỏng bay bướm của một vũ nữ, lúc thì trông như ngọn lửa, cánh hoa, lúc thì như hóa thành chim hoặc mụ phù thủy.
Người phụ nữ ấy tên là Lôi Phu-lơ, “Nàng tiên của ánh sáng”, đã có những tiết mục huyền ảo làm cho cả Pa-ri bị quyến rũ một thời và đã nối một tình bạn rất đẹp với hai nhà vật lý. Đọc báo thấy nói chất Ra-đi tỏa sáng, ngôi sao ca vũ ấy có ý định làm một bộ áo có thể phát lân như là ảo thuật. Lôi viết thư hỏi, ý kiến ngây thơ làm cho Piere và Marie không khỏi nực cười. Hai nhà bác học đã trả lời rằng không thể làm được “cánh bướm có chất Ra-đi”.
Nữ nghệ sĩ người Mỹ ấy, tối biểu diễn nào cũng được hoan nghênh. Lôi Phu-lơ không nói với ai là đã trao đổi thư từ với hai nhà bác học, và cũng không mời đi xem ở rạp hát. Lôi viết cho Ma-ri:
“Để cảm ơn ông bà đã trả lời tôi: Cho phép tôi đến biểu diễn một tối dành riêng cho gia đình ta”.
Pi-e và Ma-ri nhận lời. Một người đàn bà kỳ lạ, ăn mặc sơ sài, mặt xương xương, không son phấn, đôi mắt xanh như trẻ sơ sinh, đến bấm chuông gọi cửa. Theo sau, một toán thợ điện mang nặng đồ lề. Hơi e ngại, hai vợ chồng để nhà cho tốp người này, và đi đến phòng thí nghiệm. Lôi miệt mài hằng giờ, điều chỉnh ánh sáng, sắp đặt các rèm cửa và các tấm thảm mà Lôi cho mang đến, biến phòng ăn chật hẹp thành một sân khấu cho màn biểu diễn quyến rũ mê hồn của mình.
“Nàng tiên nữ” đó có một tâm hồn cao nhã, rất ngưỡng mộ bà Qui-ri, không đòi hỏi gì về phần mình mà chỉ muốn giúp ích làm vui lòng người khác. Lôi trở lại biểu diễn ở đại lộ Kê-léc-man nhiều lần cũng ẩn danh như thế. Khi đã thân, Ma-ri và Pi-e đến chơi nhà Lôi. Và làm quen với nhà điêu khắc Rô-đanh[43] (August Rodin-NS). Những năm ấy, Pi-e, Ma-ri, Lôi Phu-lơ và Rô-đanh thường họp mặt trò chuyện thanh thản trong xưởng của nhà điêu khắc, giữa những đám đất thô và cẩm thạch.
Bảy tám người bạn thân thường lui tới ngôi nhà thuộc đại lộ Kê-léc-man: Ăng-đrê Đờ-biếc-nơ, Giăng Pe-ranh và vợ - là bạn thân của Ma-ri, Gioóc Uya-banh, Pôn Lăng-giơ-vanh, Ê-đê Cốt-tông, Gioóc-xa-nhắc, Sắc-lơ E-đu-a Guy-ôm, vài nữ sinh ở trường sư phạm Xe-vrơ... toàn là những nhà bác học!
Buổi trưa Chủ nhật, nếu đẹp trời, họ tụ tập ngoài vườn, Ma-ri ngồi khâu, dưới bóng mát, bênh cạnh cái xe đẩy đặt bé E-vơ, vẫn theo dõi câu chuyện chung, mà đối với chị em khác thì nó bí ẩn như một cuộc bàn cãi bằng tiếng Ả-rập.
Đây là giờ truyền miệng những tin mới nhất, những tiết lộ hồi hộp về các tia “an-pha”, “bê-ta”, “gam-ma” của Ra-đi, Pe-ranh, Uya-banh, Đờ-biếc-nơ hăng say bàn cãi về nguyên nhân của năng lượng do Ra-đi tỏa ra. Muốn giải thích hiện tượng ấy, phải từ bỏ hoặc nguyên lý Các-nô, hoặc nguyên lý bảo toàn nguyên tố. Pi-e nêu giả thuyết về sự thoát biến phóng xạ, nhưng Uya-banh khăng khăng phản đối, và ra sức bênh vực luận điểm của mình. Còn công trình của Xa-nhắc đến đâu rồi? Và có gì mới về các thí nghiệm của Ma-ri về trọng lượng nguyên tử của Ra-đi?
Ra-đi! Ra-đi! Ra-đi!... Tiếng nói màu nhiệm ấy lặp đi lặp lại như một điệp khúc, từ miệng người này qua miệng người nọ, đôi khi Ma-ri không khỏi băn khoăn, luyến tiếc: Sự tình cờ đã sắp đặt sai mọi việc, khi làm cho Ra-đi trở thành một chất kỳ diệu, còn Pô-lô-ni (có nghĩa là Ba Lan) – mà hai nhà vật lý khám phá ra đầu tiên – thì chỉ là một chất không “ổn định” và giá trị thứ yếu. Lòng yêu nước của người phụ nữ Ba Lan này mong mỏi biết bao cái chất “Pô-lô-ni” đó giành được vinh quang cho tên gọi tượng trưng của nó.
Thỉnh thoảng cũng có những lời thường tình xen lẫn vào các cuộc trao đổi cao siêu ấy. Cụ bác sĩ Qui-ri nói chuyện chính trị với Đờ-biếc-nơ và Lăng-giơ-vanh. Uya-banh thân mật bông đùa, chê cái áo dài của Ma-ri là khắc khổ quá, trách bà ít chịu làm dáng và Ma-ri ngồi nghe, hơi ngỡ ngàng trước lời phê bình bất ngờ đó. Giăng Pe-ranh đang bàn về nguyên tử và “thế giới vô cùng nhỏ”, ngẩng mặt hào hứng lên trời, và vốn là một người say mê âm nhạc Vác-ne[44] (Richard Vegner-NS) cất tiếng hát vang những trích đoạn trong các vở nhạc kịch “Vùng sông Ranh” hoặc “Những thầy dạy hát”. Ở cuối vườn, hơi xa một tí, ba đứa trẻ quây quần nghe bà Pe-ranh kể chuyện cổ tích – con gái A-lin, thằng Phrăng-xít, hai đứa con bà, và I-ren bạn của chúng.
Chẳng ngày nào hai gia đình Pe-ranh và Qui-ri lại không gặp nhau. Hai nhà chỉ cách một hàng rào trồng tầm xuân, ngăn hai vườn. Khi nào I-ren cần gặp bạn, nó ra bên rào gọi. Qua những then rào gỉ, chúng trao cho nhau từ thỏi sô-cô-la cho đến đồ chơi, hoặc thủ thỉ tâm sự - trong khi chờ đợi sau này cũng sẽ nói chuyện “vật lý”, như những người lớn.
Pi-e và Ma-ri bước vào một quãng đời mới: nước Pháp đã nhận ra họ và nghĩ đến cách nâng đỡ sự cố gắng của họ.
Giai đoạn đầu tiên không thể thiếu được là bầu Pi-e vào viện Hàn lâm Khoa học. Một lần nữa, nhà bác học lại phải ghép mình vào cuộc thử thách đi thăm hỏi. E rằng ông không chịu cư xử như một “ứng cử viên biết điều”, bạn bè lo lắng tìm hết lời cổ vũ.
Pi-e Qui-ri có viết thư cho Gioóc Guy, 24 tháng Bảy năm 1905:
“Thế là tôi đã vào viện Hàn lâm, tuy không hề mong muốn điều đó, mà viện Hàn lâm cũng chẳng muốn tôi vào...”
Pi-e Qui-ri viết cho Gioóc Guy tháng Mười 1905:
“Tôi cũng chưa tìm ra mục đích Hàn lâm viện để làm gì”
Thế nhưng Pi-e rất chú ý đến những quyết định mới của trường đại học vì nó liên quan trực tiếp đến công việc của mình. Năm 1904, hiệu trưởng Li-a xin mở được một lớp giảng dạy vật lý do Pi-e phụ trách. Đây là chức giáo sư thực thụ hằng ao ước! Trước khi nhận, Pi-e hỏi ngay phòng thí nghiệm đi kèm với trách nhiệm đó sẽ đặt ở đâu?
Một phòng thí nghiệm à? Phòng thí nghiệm nào? Làm gì có chuyện này cơ chứ?
Hai nhà bác học được giải Nô-ben, cha mẹ đẻ của Ra-đi nhận thấy ngay rằng, nếu Pi-e thôi giảng ở lớp lý-hóa-sinh để vào dạy ở Xoóc-bon thì không còn làm việc được nữa. Bổ nhiệm mới về Pi-e, không có khoản cấp phòng thí nghiệm, và hai cái buồng mà ông vẫn sử dụng ở lớp lý-hóa-sinh dĩ nhiên phải trao lại cho người đến thay. Chẳng lẽ ra ngoài đường mà làm các thí nghiệm.
Pi-e viết cho trên một cái thư lễ phép nhưng cương quyết. Ông không nhận chức vụ mới vì nó không kèm thêm phòng làm việc và dự chi nghiên cứu, như thế sẽ vẫn giữ được ở lớp lý-hóa-sinh cái buồng con mà mặc dầu bận rất nhiều thì giờ dạy, Ma-ri và ông còn làm được việc có ích.
Trường đại học đành đệ giấy lên Nghị viện xin lập một phòng thí nghiệm với tài khoản một trăm năm mươi nghìn phơ-răng. Đề án này được chấp thuận. Ở Xoóc-bon đã chật, nhưng một nhà hai gian sẽ được dựng ở phố Qui-vi-ê. Pi-e Qui-ri được cấp dự trù mười hai nghìn phơ-răng mỗi năm, không kể ba mươi tư nghìn phơ-răng dành cho trang bị.
Pi-e ngây thơ tưởng rằng với số tiền trên sẽ có thể mua thêm dụng cụ và bổ sung thiết bị của mình. Được – ông có thể làm như vậy – nhưng sau khi đã khấu trong khoản nhỏ đó mọi chi phí xây dựng căn nhà mới. Đối với nhà cầm quyền Pháp, xây dựng và trang bị chỉ là một!
Dự trù chi tiêu của Nhà nước. Khi được sử dụng thường co lại như vậy đó!
Pi-e Qui-ri viết cho Gioóc Guy, mồng 7 tháng Một 1905:
“Ngày mai tôi bắt đầu dạy, nhưng tôi phải làm thí nghiệm trong những điều kiện rất không thuận tiện chút nào. Giảng đường ở Xoóc-bon và phòng thí nghiệm thì ở phố Qui-vi-ê. Hơn nữa, giảng đường còn dùng cho nhiều lớp khác và tôi chỉ có một buổi sáng để chuẩn bị cho buổi dạy.
Tôi không khỏe lắm và cũng không ốm lắm. Nhưng hay mệt và chỉ còn một khả năng làm việc rất nhỏ. Trái lại, nhà tôi vẫn đảm đương những việc: con cái, trường nữ sinh, và phòng thí nghiệm. Ma-ri không để phí một chút nào và trông nom công việc phòng thí nghiệm đều hơn tôi, phần lớn thì giờ ở phòng thí nghiệm.”
Cò kè mãi, Nhà nước Pháp bủn xỉn mới dành cho Pi-e Qui-ri một chỗ trong biên chế. Ông phải giành giật từng mét vuông một mới có được đủ chỗ làm việc, mới xúc tiến được việc xây dựng ở một địa điểm không thuận tiện, hai căn phòng mà người ta biết trước là sẽ chật hẹp.
Có một nhà giàu, muốn giúp đỡ ông bà Qui-ri và hứa sẽ xây cho một học viện, ở một ngoại ô yên tĩnh. Tràn đầy hy vọng, Pi-e Qui-ri thổ lộ hết lòng mình.
Pi-e Qui-ri viết cho bà Đờ X., ngày 6 tháng Hai 1906:
“Thưa bà,
Xin gửi theo đây phần chú dẫn về đề án phòng thí nghiệm, chú dẫn này không có gì là tuyệt đối và có thể thay đổi theo tình thế, đất và tiền chúng tôi có được.
Đề án này sở dĩ nhấn nhiều về địa điểm ở nông thôn là vì đối với chúng tôi điều quan trọng bậc nhất là có thể sống với con cái ở ngay nơi làm việc. Trẻ em và phòng thí nghiệm đòi hỏi sự có mặt thường xuyên của những người được giao công việc đó. Nhất là đối với Ma-ri, sẽ rất khó khăn nếu nơi ở và nơi làm việc cách xa nhau. Có những lúc nhà tôi thấy hai phận sự đó vượt quá sức mình.
Ở ngoài Pa-ri yên tĩnh xem ra rất tiện cho nghiên cứu khoa học, và phòng thí nghiệm dọn đến đây thì chỉ có lợi. Trái lại sống ở trung tâm thành phố rất có hại cho trẻ em và nhà tôi không đang tâm nuôi chúng trong những điều kiện đó.
Xin bà nhận ở đây những lời cảm ơn của tôi”.
Kế hoạch hào hiệp ấy không thành – phải tám năm nữa, Ma-ri mới có thể thu xếp cho khoa Phóng xạ được dọn đến một ngôi nhà xứng đáng với nó – một ngôi nhà mà Pi-e sẽ không còn được trông thấy. Sau này, lúc nào lòng Ma-ri cũng đau như cắt với ý nghĩ rằng cho đến phút cuối cùng, người bạn đường của mình vẫn đợi mãi căn phòng thí nghiệm đó, ước vọng duy nhất trong đời Pi-e.
Sau này, khi nói đến hai gian buồng ở phố Qui-vi-ê mãi đến phút cuối cùng mới được cấp cho Pi-e, bà viết:
“Thật chua xót khi nghĩ rằng đó là sự nhượng bộ cuối cùng đối với Pi-e và rốt cuộc, một trong những nhà bác học đầu tiên của nước Pháp mà thiên tài đã xuất hiện từ năm hai mươi tuổi, chưa hề được sử dụng một phòng thí nghiệm thích đáng. Cố nhiên, giá có thể sống lâu thêm, sớm muộn Pi-e Qui-ri cũng sẽ có những điều kiện làm việc thỏa đáng – nhưng đến bốn mươi bảy tuổi, ông vẫn chưa được những điều kiện đó. Hãy thử tưởng tượng nỗi khổ tâm của một người thợ, hào hứng vô tư đang làm một công việc lớn, khi bị chậm trễ trong việc thực hiện ước mơ của mình chỉ vì luôn luôn thiếu phương tiện! Liệu chúng ta có thể nghĩ mà không buồn rầu sâu sắc đến sự phí phạm không thể nào hàn gắn được về cái của quí nhất của đất nước, là thiên tài, sức khỏe và lòng quả cảm của những người con ưu tú?
Đúng là chất Ra-đi đã được khám phá ra trong những điều kiện bấp bênh: cái nhà xe đã che chở cho nó ngày nay đã khoác cái áo yêu kiều của truyền thuyết. Những yếu tố lãng mạn đó chẳng hay ho gì, nó đã hủy hoại sức khỏe của chúng tôi và làm chậm trễ bao thực hiện. Giá được những phương tiện tốt hơn, biết đâu công việc năm đầu của chúng tôi đã chẳng giảm xuống hai năm và đỡ căng thẳng hơn!”
*Một quyết định làm cho Pi-e vui thích thật sự, là được ba người giúp việc: Một trưởng phòng thí nghiệm, một phụ tá và một lao công; trưởng phòng thí nghiệm là Ma-ri.
Từ trước đến nay, sự có mặt Ma-ri ở phòng thí nghiệm chỉ là chiếu cố. Bà đã thực hiện các việc nghiên cứu về Ra-đi, không dưới một danh nghĩa gì và cũng chẳng có lương. Kể từ tháng 11 năm 1904, Ma-ri có một chức vụ và được hai nghìn bốn trăm phơ-răng, một năm. Lần đầu tiên, bà vào làm việc chính thức trong phòng thí nghiệm của chồng.
“Trường đại học Pháp.
Bà Qui-ri, tiến sĩ khoa học, được bổ nhiệm, kể từ ngày mồng 1 tháng 11 năm 1904, làm trưởng phòng thí nghiệm Vật lý (khoa giảng của ông Qui-ri) ở khoa Đại học Khoa học trong trường Đại học Pa-ri.
Bà Qui-ri được hưởng hai nghìn bốn trăm phơ-răng một năm, kể từ ngày 1 tháng 11 năm 1904.”
Từ biệt nhà xe! Pi-e và Ma-ri mang nốt đến phố Qui-vi-ê những dụng cụ hãy còn lại ở cái lán gỗ điêu tàn. Nơi đây đã chứng kiến bao nhiêu ngày cố gắng và hạnh phúc. Pi-e và Ma-ri còn quay lại nhiều lần, tay khoác tay, quyến luyến những bức tường ẩm ướt, những mảnh ván nát mục.
Cuộc sống mới đi dần vào nếp. Pi-e chuẩn bị chương trình giảng dạy của mình. Ma-ri đi dạy ở Xe-vrơ như xưa. Hai vợ chồng lại gặp nhau trong phòng thí nghiệm chật hẹp ở phố Qui-vi-ê, ở đó Ăng-đrê Đờ-biếc-nơ, An-be La-boóc, một người Mỹ là giáo sư Đu-an, và một số phụ tá hoặc học trò tiếp tục nghiên cứu với những máy móc, dụng cụ mỏng manh.
Pi-e viết ngày 14 tháng Tư 1906:
“Ma-ri Qui-ri và tôi, chúng tôi đang nghiên cứu dựa vào khí tỏa của Ra-đi để đo chất này thật chính xác. Thoạt trông tưởng như không có gì, thế mà đã mấy tháng qua, mới chỉ bắt đầu thu được những kết quả đều đặn.”
“Ma-ri Qui-ri và tôi, chúng tôi đang nghiên cứu...”! Dòng chữ ấy, Pi-e viết năm ngày trước khi chết, đã nói lên cái chủ yếu và vẻ đẹp cao quý nhất của một sự hòa hợp không bao giờ ngơi giảm. Mỗi bước tiến của sự nghiệp chung, mỗi thất bại hay thắng lợi, đều làm hai vợ chồng gắn bó với nhau hơn nữa.
Nói sao hết những điều thú vị, lòng tin yêu và niềm vui tươi thân mật, chan hòa sự hợp tác thiên tài đó? Những ý kiến lớn-nhỏ, những câu hỏi, những nhận xét, lời khuyên, suốt ngày từng giờ, từng giờ cứ bay từ Pi-e sang Ma-ri rồi lại từ Ma-ri tới Pi-e. Có những câu khen hóm hỉnh và những lời trách nhân ái. Giữa hai tâm hồn bình đẳng mến phục nhau, cổ vũ lẫn nhau, tình đồng nghiệp tuyệt diệu, thanh cao, có lẽ là biểu lộ tế nhị nhất tình yêu nồng thắm của họ.
An-be La-boóc, phụ tá của hai ông bà gần đây, viết thư cho Eve:
“Một lần tại phòng thí nghiệm ở phố Qui-vi-ê, tôi đang làm việc với một loạt dụng cụ có thủy ngân. Pi-e Qui-ri cũng ở đấy. Ma-ri Qui-ri đến, chú ý đến một chi tiết về máy móc. Lúc đầu, bà không hiểu, mà chi tiết lại rất đơn giản. Tuy giảng giải rồi, bà vẫn hỏi vặn. Lúc đó Pi-e thốt lên, giọng vui vẻ, âu yếm nhưng hơi ngạc nhiên: “Ô! Sao thế hở? Ma-ri!”. Câu nói còn văng vẳng trong tai tôi với một sắc thái khó mà quên được.
Mấy hôm sau, một vài anh bạn đến hỏi giáo sư Qui-ri về một công thức toán. Ông khuyên họ chờ bà Qui-ri đến. Ông nói bà rất giỏi tính vi phân và sẽ giải quyết nhanh chóng vấn đề của họ. Và đúng như vậy,chỉ trong vài phút, bà Qui-ri đã tìm ra giải đáp cho bài toán hóc búa đó “.
Khi Pi-e và Ma-ri ở một mình bên nhau, sự cởi mở âu yếm làm cho nét mặt và cử chỉ của hai người càng thêm đắm đuối nồng nàn. Những nhân cách mạnh mẽ ấy, những cá tính khác nhau ấy, – Pi-e thì thư thái, mơ màng; Ma-ri thì chan hòa, sôi nổi – trong mười một năm trời họ không mấy khi cần đến “nhân nhượng lẫn nhau” mà người ta thường nói gia đình nào cũng phải trải qua thì mới êm ấm. Một cách tự nhiên, hai người luôn luôn nghĩ như một, đồng tâm nhất trí cả về những việc vụn vặt trong đời sống.
Một bà bạn – chẳng hạn như bà Pe-ranh muốn dắt I-ren đi chơi, giá có hỏi Pi-e thì ông thường trả lời với nụ cười dè dặt, gần như phục tùng “Tôi cũng không biết, Ma-ri chưa về. Cần đợi Ma-ri xem thế nào”. Hoặc giả trong cuộc họp về khoa học, Ma-ri vốn ít nói, nếu có lần quá say sưa tranh luận, người ta bỗng thấy bà đỏ mặt, ấp úng, và quay về phía chồng để nhường lời, như tin tưởng sâu sắc rằng ý kiến của Pi-e còn nghìn lần quý hơn ý kiến mình...