Chương 16 DANH VỌNG, KẺ THÙ SỐ MỘT
Nước đầu tiên công nhận tài năng của ông bà Qui-ri là Thụy Sĩ. – Chúng ta nhớ lại lời mời của trường đại học Giơ-ne-vơ – Và mang đến cho hai nhà bác học những vinh dự sớm nhất là nước Anh.
Ở Pháp, Pierre và Marie cũng được tặng một vài giải thưởng khoa học. Năm 1895, Pi-e được giải Plăng-tê (Planté), 1901 giải La-ca-dơ (Lacaze). Ma-ri được tặng giải Ghếch-nơ (Gegner) ba lần. Nhưng chưa có một giải thưởng nào xuất sắc làm rạng rỡ tên ông bà Qui-ri. Cho đến tháng sáu 1903, học viện Hoàng gia Anh chính thức mời Pi-e sang thuyết trình về Ra-đi. Nhà vật lý nhận lời và cùng đi với Ma-ri sang Lơn-đơn[42] (London).
Hai nhà bác học được công tước Ke-vin thân thiết, niềm nở đón tiếp. Cụ già đáng kính ấy coi thành công chuyến đi này của Pi-e và Ma-ri như của bản thân, và cũng tự hào về những công trình của hai đồng nghiệp dường như cũng có phần tham gia của mình. Cụ thân mật quàng tay lên vai Pi-e, dẫn hai vợ chồng thăm phòng thí nghiệm của cụ. Cụ sung sướng và cảm động, khoe với mọi người tặng phẩm của Pi-e mang từ Pa-ri tới. Đúng là tặng phẩm của một nhà vật lý: Một ít tinh thể Ra-đi để trong ống nghiệm bằng thủy tinh.
Trong cuộc thuyết trình chiều hôm đó, công tước Ke-vin ngồi cạnh Ma-ri, người phụ nữ đầu tiên được dự buổi họp của viện Hoàng gia. Tất cả giới khoa học Anh đều có mặt. Pi-e nói tiếng Pháp chậm rãi mô tả những tính chất của Ra-đi. Rồi Pi-e đề nghị tắt hết ánh sáng để làm vài thí nghiệm lý thú: do tác động của Ra-đi, một điện nghiệm bỗng phóng điện từ xa, một tấm chắn bằng sun-phua kẽm phát lân, kính ảnh đã bọc giấy đen cũng bị ảnh hưởng; Ra-đi còn tỏa nhiệt tự phát v.v...
Buổi nói chuyện chiều hôm đó rất hào hứng. Ngay ngày hôm sau đã có tiếng vang. Cả thủ đô nước Anh nô nức muốn xem mặt “Cha mẹ” của chất Ra-đi. Khắp nơi mời giáo sư và bà Qui-ri dự tiệc tại các buổi tiếp long trọng và người ta không ngớt lời ca ngợi chúc tụng.
Pi-e hết sức lịch sự trong bộ lễ phục đen, hơi bóng mà ông thường mặc để dạy lớp lý hóa sinh, nhưng vẫn làm cho người ta cảm thấy tâm trí ông đang ở đâu đâu, dường như những lời chúc tụng dành cho ai chứ không phải cho ông. Ma-ri rất ngượng ngùng, vì bao con mắt đang dồn về mình, như nhìn một con vật kỳ lạ: một nhà vật lý đàn bà.
Ma-ri mặc một chiếc áo màu xẫm, chỉ hơi hở cổ, đôi bàn tay bị a-xít ăn không mang găng, ngay cả đến chiếc nhẫn cưới cũng không có. Xung quanh bà những chuỗi kim cương đẹp nhất của Đế quốc Anh lấp lánh trên các cổ để trần. Ma-ri nhìn ngắm các đồ trang sức ấy một cách thích thú thật sự và ngạc nhiên nhận thấy Pi-e xưa nay vẫn lơ đãng, mắt cũng không rời những chuỗi kim cương.
Chiều về, khi thay áo, Ma-ri nói
– Em không ngờ lại có những trang sức như thế, thật là đẹp!
Nhà vật lý cười và nói:
– Em biết không, trong bữa tiệc, ngồi rỗi anh tìm ra một trò chơi. Thử tính xem số kim cương đeo trên cổ mỗi bà khách có thể xây dựng bao nhiêu phòng thí nghiệm. Đến lúc đọc diễn văn, kết quả đã thành một con số kinh khủng.
Vài ngày sau, ông bà Qui-ri trở lại Pa-ri, về với cái nhà xe ghép ván. Chuyến đi Lơn-đơn đã đem lại cho hai nhà bác học nhiều quan hệ kết giao chặt chẽ và cộng tác thiết thực. Pi-e sắp sửa cho in cùng với một đồng nghiệp người Anh – một công trình về các khí tỏa ra do muối Ra-đi Brô-mua.
Dân tộc Ăng-lô Xác-xông thường trung thành với những ai đã làm cho họ khâm phục! Tháng 11-1903 đến lượt Học viện Hoàng gia Anh công bố tặng Pi-e và Ma-ri Qui-ri huân chương Đê-vi là một trong những phần thưởng cao quí nhất của học viện này.
Ma-ri không khỏe nên Pi-e đi dự lễ một mình. Pi-e mang từ nước Anh về một huân chương nặng bằng vàng, có khắc tên hai vợ chồng. Thoạt tiên, Pi-e còn tìm chỗ để cất trong gian nhà ở đại lộ Kê-léc-man, vụng về nâng lên đặt xuống, để thất lạc rồi lại tìm thấy rồi bỗng nghĩ ra một cách: Pi-e giao chiếc huân chương ấy cho con gái là I-ren giữ, lúc này I-ren mới sáu tuổi, chưa khi nào cô bé vui thích bằng được giữ cái đó.
Mỗi lần bạn bè đến thăm, nhà bác học chỉ đứa bé đang mải mê với cái đồ chơi mới đó.
– I-ren thích “đồng xu to” của nó lắm – ông kết luận.
Hai cuộc hành trình ngắn ngủi rạng rỡ, một cô bé chơi với một đĩa nhỏ bằng vàng... Đây là đoạn nhạc mở đầu của bản giao hưởng mà cao trào đang tới gần.
*Lần này người nhạc trưởng đã bắt nhịp từ Thụy Điển.
Ngày mồng mười tháng Chạp 1903, Hàn lâm viện Khoa học Xtốc-khôm (Stockholm-NS) họp trịnh trọng toàn thể, công bố giải thưởng Nô-ben (Nobel-NS) về vật lý năm ấy, tặng một nửa cho Hăng-ri Bếch-cơ-ren (Henri Becquerel-NS) và một nửa cho ông bà Qui-ri về việc khám phá ra phóng xạ.
Cả Pi-e và Ma-ri đều không đến dự buổi lễ. Đại sứ Pháp thay mặt họ nhận bằng và huy chương vàng tự tay Vua Thụy Điển trao.
Pi-e và Ma-ri không đi lần này vì đường xa, lại vào giữa mùa đông, hai người đang yếu mệt và bận nhiều việc.
Giáo sư O-ri-vi-li-uýt viết cho ông bà Qui-ri ngày 14 tháng một năm 1903:
“Kính gửi ông bà Qui-ri,
Hân hạnh báo cho ông bà bằng điện tín, Hàn lâm viện Khoa học Thụy Điển họp ngày 12 tháng Một đã quyết định tặng ông bà một nửa giải thưởng Nô-ben về Vật lý năm nay để tỏ lòng tán thưởng công trình đặc biệt của ông bà về tia Bếch-cơ-ren.
Mười tháng Chạp vào buổi họp toàn thể rất long trọng sẽ công bố nghị quyết ấy.
Hàn lâm viện Khoa học kính mời ông bà đến dự buổi họp đó, để tự tay nhận phần thưởng.
Theo khoản 9 điều lệ thành lập giải thưởng Nô-ben, trong vòng 6 tháng sau cuộc họp này, ông bà cần làm một bản thuyết trình về công trình được tặng thưởng ở Xtốc-khôm. Nếu ông bà đến Xtốc-khôm vào dịp đó, tốt hơn hết là ông bà hãy làm ngay thủ tục này vào mấy ngày đầu sau cuộc họp.
Hàn lâm viện sẽ rất hân hạnh được đón tiếp ông bà ở Xtốc-khôm, xin nhận ở đây những lời chúc mừng thành thật nhất của tôi”.
Ngày 19 tháng Một 1903, Pi-e viết thư trả lời sau đây:
“Kính gửi ngài Tổng thư ký vĩnh viễn,
Hàn lâm viện Khoa học Xtốc-khôm đã dành cho chúng tôi vinh dự lớn, được một nửa giải thưởng Nô-ben Vật lý. Chúng tôi nhờ ngài chuyển tới Hàn lâm viện lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn hết sức chân thật của chúng tôi.
Thời gian đó trong năm, chúng tôi không thể nào vắng mặt mà không ảnh hưởng đến khóa học mà nhà trường đã giao phó. Chúng tôi cũng chỉ ở được vài ngày, và sẽ rất ít thời gian để làm quen với các nhà bác học Thụy Điển.
Hơn nữa, bà Qui-ri vừa bị ốm đến nay chưa khỏi hẳn.
Vậy xin ngài cho hoãn lại cuộc hội nghị này, có thể đến lễ Phục sinh, hoặc tiện hơn nữa vào giữa tháng Sáu.
Xin ngài tin tưởng ở sự kính trọng của chúng tôi.”
Sau những câu xã giao ấy, chúng ta hãy kể đến một bức thư khác. Một bức thư trung thực, do Ma-ri viết bằng tiếng Ba Lan cho anh ruột. Ngày tháng cũng đáng chú ý: 11 tháng Chạp 1903. Một ngày sau buổi họp long trọng ở Xtốc-khôm. Ngày danh vọng đầu tiên! Giữa lúc ấy Ma-ri có thể say sưa với thắng lợi của mình: Cuộc đời của bà chả khác thường là gì? Chưa có một người đàn bà nào nổi tiếng đến như thế trong lĩnh vực khắt khe của khoa học. Bà là người đầu tiên và cho đến nay là nữ bác học duy nhất có danh tiếng trên thế giới.
Đây là bức thư đề ngày 11 tháng Chạp 1903:
“Anh Dô-dếp thân mến,
Em âu yếm cảm ơn anh chị về những lời tốt đẹp của anh chị. Anh đừng quên hộ em cảm ơn cháu gái Ma-ni-u-sa về thư của cháu; cháu viết hay lắm, làm cho em vui thích. Hễ có thời giờ, em sẽ trả lời cháu.
Đầu tháng Một em như bị cúm rồi ho. Bác sĩ Lăng-đri-ơ khám phổi cho em không thấy gì đáng lo ngại. Thế nhưng bác sĩ chê em xanh. Em vẫn cảm thấy khỏe và độ này em có thể làm việc hơn mùa thu, không mệt lắm.
Pi-e sang Lơn-đơn nhận huân chương Đê-vi. Em không đi theo vì sợ mệt.
Người ta cho chúng em một nửa giải Nô-ben. Không rõ như thế là bao nhiêu, em chắc là độ bảy mươi nghìn phơ-răng. Đối với chúng em đó là một món tiền lớn. Em cũng không rõ bao giờ thì được lĩnh tiền. Có lẽ chỉ khi nào chúng em đi Xtốc-khôm mà thôi. Theo lệ thì trong vòng sáu tháng sau ngày 10 tháng Chạp, chúng em phải có một buổi thuyết trình.
Chúng em không đến dự buổi họp trọng thể, bởi vì thu xếp khó quá. Em cảm thấy không đủ sức đi một chặng đường dài như thế (48 giờ không nghỉ và lâu hơn nữa nếu nghỉ dọc đường) vào lúc thời tiết không thuận tiện, ở một xứ lạnh, và không thể ở lại quá ba hay bốn ngày. Không thể bỏ dở việc giảng dạy quá lâu. Có lẽ đến Phục sinh chúng em mới đi được và lúc đó mới lãnh được tiền.
Chúng em bị ngập trong thư từ, suốt ngày lại phải tiếp các nhà nhiếp ảnh và nhà báo. Những lúc ấy chỉ muốn trốn xuống đất để được yên. Rồi ở Mỹ cũng mời sang thuyết trình một số buổi. Họ hỏi chúng em muốn bao nhiêu tiền. Dầu điều kiện thế nào đi nữa chúng em cũng định từ chối. Chúng em hết sức tránh những bữa tiệc mà người ta muốn tổ chức mừng chúng em. Đôi khi phải từ chối một cách quyết liệt, họ mới hiểu cho là không thể ép được.
Cháu I-ren khỏe. Cháu học tại một trường nhỏ khá xa nhà. Ở Pa-ri rất khó tìm được một trường tốt cho trẻ em.
Âu yếm ôm hôn cả nhà và xin anh chị đừng quên em”.
Những dòng trên đây của một phụ nữ đã tự nguyện bỏ giàu sang, có một ý nghĩa khác thường. Tiếng tăm lừng lẫy, lòng ngưỡng mộ cảm phục của báo chí và công chúng, những cuộc tiếp đón, chiêu đãi long trọng của chính quyền, nhịp cầu bằng vàng bắc qua nước Mỹ…, tất cả những cái đó, chỉ làm cho Ma-ri thấy phiền phức, bực bội. Đối với bà, giải Nô-ben chỉ là một phần thưởng bảy mươi nghìn phơ-răng vàng, do các nhà bác học Thụy Điển tặng cho công trình của hai đồng nghiệp và như thế thì nhận cái đó “không trái với tinh thần khoa học”. Một dịp may hiếm có để Pi-e đỡ phải dạy thêm, giữ được sức khỏe.
Ngày mồng hai tháng Giêng 1904, cái ngân phiếu may mắn đã chuyển đến chi nhánh ngân hàng, mọi khi vẫn giữ số tiền tiết kiệm mỏng manh của gia đình. Pi-e bây giờ có thể thôi không dạy ở trường Vật lý, để học trò cũ là Pôn Lăng-giơ-vanh dạy thay. Hai nhà vật lý thuê một phụ tá riêng, như thế đơn giản và nhanh hơn là đợi những người cộng tác tưởng tượng mà trường đại học hứa hẹn mãi. Ma-ri gửi cho anh chị Du-xki vay hai mươi nghìn cu-ron (tiền Áo), để mở nhà an dưỡng. Phần còn lại, thêm năm vạn phơ-răng là tiền giải thưởng O-di-rít, tặng một nửa cho Ma-ri Qui-ri và một nửa cho E-đu-a Bran-li, được chia đều mua quốc trái Pháp và trái khoản của thành phố Vác-xô-vi.
Sổ chi tiêu còn ghi vài khoản khác: quà tặng và tiền cho vay gửi anh của Pi-e và các chị của Ma-ri, tiền góp chung vào các hội khoa học…
Giúp cũng nhiều: giúp một số học sinh Ba Lan, một bạn gái lúc thiếu thời của Ma-ri, anh em lao công ở phòng thí nghiệm, một nữ sinh túng thiếu ở Xe-vrơ… Chợt nhớ đến một bà rất nghèo ngày xưa đã tận tụy dạy Ma-ri tiếng Pháp, bây giờ là bà Kô-dơ-lốp-xca, vốn gốc Pháp sinh ở tỉnh Đi-ép, lấy chồng Ba Lan nay chỉ ước mơ về thăm quê hương xứ sở. Ma-ri biên thư mời bà sang Pháp, đón bà về nhà và trả tiền tàu từ Vác-xô-vi đến Pa-ri, rồi từ Pa-ri đến Đi-ép. Bà ta cảm động đến ứa nước mắt.
Tuy rộng rãi, Ma-ri rất kín đáo, đúng mức. Suốt đời bà quyết tâm giúp đỡ những người cần đến mình, và muốn làm việc đó theo khả năng của mình để có thể giúp được lâu dài.
Còn đối với bản thân thì sao? Ngôi nhà ở đại lộ Kê-léc-man, có thêm một buồng tắm “tối tân” và một căn phòng mà giấy chăng trên tường đã phai nhạt cũng được tu sửa lại. Nhưng trong dịp nhận tiền thưởng Nô-ben, Ma-ri chưa hề nghĩ đến sắm một cái mũ mới. Và nếu bà cứ muốn Pi-e thôi dạy học ở trường Vật lý, thì bà vẫn dạy ở Xe-vrơ vì mến học trò và cũng vì cảm thấy còn có sức tiếp tục để kiếm thêm thu nhập cho gia đình.
Giữa lúc vinh quang đang chờ đón hai nhà bác học, mà lại kể tỉ mỉ những chi tiêu vụn vặt trên đây thì thật nực cười.
Pi-e và Ma-ri rất sung sướng thấy phát minh của mình được Hàn lâm Thụy Điển đánh giá đúng mức. Niềm vui của những người thân làm cho hai vợ chồng cảm động, và số tiền bảy mươi nghìn phơ-răng đến đúng lúc, nó đỡ được gánh nặng nhu cầu hằng ngày.
Còn những cái khác – những cái thường là nguyên nhân thúc đẩy thiên hạ cố gắng, và đôi khi có những hành động thấp hèn – chỉ làm ông bà ngượng nghịu và thấp hèn.
Một sự hiểu lầm kéo dài đã tách biệt Pi-e và Ma-ri với công chúng giàu lòng ngưỡng mộ. Năm 1903 là năm mở đầu một giai đoạn hồi hộp nhất trong cuộc đời hai nhà bác học. Họ đã đến tuổi mà thiên tư, được kinh nghiệm bổ sung có thể phát huy đến mức cao nhất. Trong một gian nhà xe lụp xụp, dột nát, họ đã thành công trong việc khám phá ra chất Ra-đi làm cho thế giới kinh ngạc. Nhưng sứ mệnh chưa xong. Trí óc họ còn chứa đựng bao nhiêu cái tiềm tàng: Họ muốn làm việc, họ phải làm việc!
Danh vọng có chú ý gì đến tương lai mà Pi-e và Ma-ri hướng tới đâu. Danh vọng xâm nhập vào cuộc đời những vĩ nhân, bám lấy họ với tất cả sức mạnh của nó, hòng cản đường họ tiến. Giải thưởng Nô-ben làm cho hàng triệu người chăm chú tới cặp vợ chồng bác học ấy: Đàn ông, đàn bà, nhà triết học, người thợ, giáo sư, trưởng giả, thân sĩ v.v…Hàng triệu người ấy dâng lên ông bà Qui-ri lòng ngưỡng mộ của họ. Nhưng họ đòi hỏi lại cũng nhiều! Những lợi ích mà Pi-e và Ma-ri đã tặng họ từ trước – cái vốn tri thức về một phát minh mới, sức cứu chữa của nó đối với một căn bệnh hiểm nghèo – chưa đủ. Hiện tượng phóng xạ tuy còn mới mẻ nhưng thuộc về những thành tựu đã biết rồi, và điều làm họ chú ý lúc này, không phải là giúp sức cho khoa học đó phát triển mà là thưởng thức những giai đoạn hứng thú về sự ra đời của nó. Họ muốn đi vào các ngõ ngách thầm kín của gia đình lạ lùng ấy, của đôi vợ chồng thiên tài mà cuộc đời trong sáng và rất đỗi liêm khiết đang được truyền tụng như một câu chuyện thần thoại. Lòng khâm phục khao khát tìm hiểu đẩy họ đào sâu vào cuộc đời hai nhân vật mà họ tôn sùng. Hay nói cho đúng, hai nạn nhân của họ – và tước đoạt của Pi-e và Ma-ri những vật quý duy nhất mà ông bà muốn giữ – sự tĩnh tâm và yên lặng.
Những tờ báo thời bấy giờ, đăng ảnh của Pi-e và Ma-ri “Một thiếu phụ tóc hung, tao nhã, mảnh dẻ”, “một bà mẹ duyên dáng, nhạy cảm tuyệt vời luôn luôn ham mê tìm hiểu những vấn đề cao siêu” – ảnh “đứa bé gái đáng yêu của họ”, cả ảnh con mèo nằm cuộn tròn bên lò sưởi buồng ăn. Còn có những phóng sự hùng hồn về phòng thí nghiệm ở nhà xe, nơi ẩn dật mà gia đình Qui-ri muốn chỉ có mình mới hiểu biết hết vẻ đẹp duyên dáng, chỉ có mình mới thấy hết cảnh nghèo túng thanh tao; về căn nhà ở đại lộ Kê-léc-man, “nơi ở của người hiền”, một “căn nhà xinh xắn, hẻo lánh giữa Pa-ri xa lạ và hiu quạnh, dưới bóng các thành lũy”, một căn nhà “của hai nhà bác học sống hạnh phúc đầm ấm”.
Mặc cho ông bà Qui-ri hết sức thoái thác các cuộc phỏng vấn, đóng cửa không tiếp ai, và tự giam mình trong gian phòng thí nghiệm sơ sài – giờ đây đã đi vào lịch sử – từ công việc đến đời sống riêng tư không còn là của họ nữa. Ngay cả đức tính khiêm tốn, mà các nhà báo kém tế nhị nhất, đều phải ngạc nhiên và kính trọng, cũng thành nổi tiếng, thành một vấn đề công cộng, một vấn đề hấp dẫn để viết báo.
Ma-ri viết cho Dô-dếp Xkhua-đốp-xki:
“Pi-e và em vừa gặp một tai họa lớn. Một cuộc thí nghiệm tinh tế với Ra-đi làm tiêu hao một phần quan trọng trữ lượng Ra-đi của chúng em, nguyên nhân vì đâu chưa rõ. Do đó, bắt buộc em phải hoãn lại việc nghiên cứu về trọng lượng nguyên tử của Ra-đi mà em tính bắt đầu từ lễ Phục sinh – Cả hai người đều tiếc đứt ruột”.
Trong một thư khác, nói đến chất Ra-đi là mối lo duy nhất của mình, Ma-ri viết:
“Chúng em muốn chế tạo một khối lượng Ra-đi quan trọng hơn. Phải có quặng và tiền. Tiền đã có rồi, nhưng đến nay không làm sao có được quặng. Hiện giờ người ta hứa là thế nào cũng có. Chúng em sẽ có thể mua một trữ lượng cần thiết, mà trước đây họ vẫn từ chối. Công việc chế hóa sẽ phát triển. Nếu anh biết được phải mất bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu kiên nhẫn và tiền của mới lọc được một tí chút Ra-đi từ mấy tấn nguyên liệu!”
Mười ba hôm sau khi lĩnh giải thưởng Nô-ben, những băn khoăn của Ma-ri là như thế. Trong mười ba ngày ấy, thế giới đã phát hiện ra gia đình Qui-ri: Một cặp vợ chồng vĩ đại! Nhưng Pi-e và Ma-ri không tài nào nhập được những vai mới đó.
Ma-ri viết thư cho anh ruột Dô-dếp, 14 tháng Hai 1904:
“Suốt ngày ồn ào. Chúng em không còn làm việc được nữa. Không. Bây giờ em đã quyết định phải can đảm và không tiếp một ai cả, thế mà vẫn bị quấy rầy. Danh vọng và vinh quang, chẳng tốt lành cho cuộc sống của chúng em”.
Và trong một bức thư khác ngày 19 tháng Ba 1904:
“Anh Dô-dếp thân mến, về ngày lễ của anh. Chúc anh mạnh khỏe, chúc thắng lợi cho cả nhà và mong anh không bao giờ bị tràn ngập trong thư từ như chúng em lúc này, hoặc gặp những cuộc tấn công mà chúng em đang chịu đựng
Em hơi tiếc là đã hủy tất cả các thư từ gửi đến chúng em: kể cũng khá bổ ích. Có những bài thơ Ra-đi, những lá thư của một số nhà sáng chế, của các thầy gọi hồn rất triết lý. Vừa hôm qua, một người Mỹ biên thư xin phép lấy tên em đặt tên cho con ngựa thi của hắn, hàng trăm lá thư xin thư viết và ảnh. Em chẳng trả lời cái thư nào cả, nhưng chỉ đọc cũng mất thì giờ rồi”.
Viết cho cô em họ Hăng-ri-ét, xuân 1904:
“Cuộc sống yên tĩnh và cần cù của anh chị bị xáo động hoàn toàn, không biết đến bao giờ mới ổn định lại được”.
Nỗi bực bội, buồn chán, – tôi dám nói là sự chua chát toát ra từ những bức thư đó của Ma-ri đã nói rõ một điều: hai nhà vật lý đã mất sự yên tĩnh nội tâm của họ.
Sau này Ma-ri viết:
“Sự mệt nhọc do cố gắng quá sức và do những điều kiện làm việc quá thiếu thốn về vật chất, lại càng tăng thêm do sự xâm nhập của danh tiếng. Cuộc sống ẩn lánh tự nguyện của chúng tôi bị phá vỡ, làm chúng tôi đau khổ thực sự, và xét về hậu quả của nó, có thể coi như một tai họa”.
Đáng ra, vinh quang phải mang đến cho gia đình Qui-ri một vài thắng lợi để đền bù như ghế giáo sư, phòng thí nghiệm, những phụ tá và những tài khoản hằng mong ước. Nhưng bao giờ thì những ân huệ ấy mới đến? Sự mong đợi hồi hộp còn kéo dài.
Thật là mỉa mai khi nước Pháp lại là nước thừa nhận sau cùng chân giá trị của Pi-e và Ma-ri. Và phải đợi có huân chương Đê-vi và giải thưởng Nô-ben, trường đại học Pa-ri cuối cùng mới mời Pi-e Qui-ri vào làm giáo sư Vật lý. Hai nhà bác học rất băn khoăn suy nghĩ về việc đó. Những phần thưởng do nước ngoài mang lại càng làm nổi bật những điều kiện tồi tệ mà họ phải làm việc để đưa cuộc phát minh đến thành công, những điều kiện mà cho đến lúc này vẫn chưa có chiều hướng thay đổi.
Nghĩ đến bao lần bị thoái thác từ bốn năm qua, Pi-e thấy cần phải trung thực cảm ơn cơ sở duy nhất đã cổ vũ và nâng đỡ những cố gắng của ông với phương tiện eo hẹp của nó: đó là Trường Vật lý và Hóa học. Một lần nói chuyện ở Xoóc-bon, nhắc tới sự trơ trọi, sự diệu kỳ của nhà xe, Pi-e nói:
“Trong mọi hoạt động khoa học, ảnh hưởng của môi trường làm việc có một tầm quan trọng rất lớn, và một phần kết quả đạt được cũng do đó. Tôi làm việc ở trường Vật lý hơn hai mươi năm. Hiệu trưởng đầu tiên của trường, một nhà khoa học lỗi lạc đã tạo điều kiện cho tôi làm việc, ngay từ khi tôi còn là phụ tá. Sau này, ông cho phép bà Qui-ri đến làm việc gần tôi, và trong thời kỳ ấy đó là một sáng kiến không bình thường... Ban giám hiệu hiện nay cũng đều có tinh thần giúp đỡ như vậy.
Các giáo sư ở trường, các học sinh tốt nghiệp tạo thành một môi trường tốt và rất có ích cho tôi. Chính trong những hàng ngũ những học trò của trường, chúng tôi đã tìm được nhiều người cộng tác và nhiều bạn đồng nghiệp”.
Không chỉ vì đam mê làm việc hoặc quá sợ mất thì giờ mà ông bà Qui-ri ghét danh vọng. Còn có những duyên cớ khác.
Pi-e vốn tính tình phóng khoáng, không dung hòa được với danh vọng vì những nguyên tắc muôn thuở. Rất ghét ngôi thứ hoặc cấp bậc, Pi-e cho rằng thật vô lý cứ phải loại “nhất lớp” và đối với ông, những huân chương mà người lớn thèm muốn cũng thừa như những huy hiệu vẫn cấp cho học sinh các trường vậy. Thái độ từ chối Bắc đẩu Bội tinh cũng là thái độ của ông trong lĩnh vực khoa học. Pi-e không hề biết ganh đua và trong cuộc “thi khám phá” nếu một đồng nghiệp tiến trước mình, ông không lấy đó làm buồn bực. Pi-e thường nói “Tôi không cho ra được công trình ấy, nào đã can chi, nếu có người khác in rồi”.
Sự dửng dưng hầu như vô tình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Ma-ri. Nhưng chẳng phải để bắt chước Pi-e, hay để vâng lời Pi-e, mà suốt đời mình bà luôn luôn tìm cách trốn tránh những sự biểu dương khâm phục. Ma-ri ghét danh vọng không vì nguyên tắc cơ bản. Cứ đứng trước đám đông là bà cảm thấy nhút nhát, ngượng nghịu đến thiểu não, cả người như bị co rúm lại, thậm chí bị hỗn loạn đến choáng váng, đến đau đớn về thể xác, không sao khắc phục được.
Cuộc đời Ma-ri lại quá bận rộn để có thể hao phí sức về mặt này. Phải gánh vác nào là chuyên môn, nào là gia đình. Rồi nhiệm vụ làm mẹ, làm thầy, bước đi của Ma-ri khó khăn như làm xiếc trên dây. Chỉ thêm một vai nữa là mất thăng bằng, là sẽ ngã từ trên dây căng thẳng. Là vợ, là mẹ, là nhà bác học, là giáo sư, Ma-ri không còn một khoảnh khắc nào rỗi để đóng vai các bà lớn.
Thế là Pi-e và Ma-ri cùng đến một thái độ khước từ bằng hai con đường khác nhau. Những con người đã cùng hoàn thành một sự nghiệp lớn có thể đón nhận vinh quang mỗi người một cách. Pi-e có thể thành xa vời, Ma-ri thành kiêu kỳ. Nhưng không! Hai tâm hồn cũng như hai khối óc đều có một phẩm chất tương xứng. Qua cuộc thử thách này, hai vợ chồng lại thắng, và trong khi xa lánh vinh dự, càng gắn bó với nhau hơn lúc nào hết.
Chú thích:
[42] Thủ đô nước Anh