Chương 22 HÒA BÌNH
Quan hệ được nối lại giữa những nhà bác học của các nước thắng trận và các nước bại trận. Bà Qui-ri tỏ ra thành thật muốn quên cuộc xô xát vừa qua. Tuy nhiên bà cũng dè dặt không có những biểu hiện vồn vã, như một số đồng nghiệp. Vì nước Đức là nước đã gây hấn, nên trước khi tiếp một nhà bác học người Đức, Ma-ri không quên hỏi: “Ông ta có ký Tuyên ngôn của 93 nhà trí thức không?” (tán thành những biện pháp khủng bố đối với nhân dân Pháp- ND). Nếu có, thì bà Qui-ri chỉ tỏ ra lịch sự. Còn không, thì bà thân ái hơn, và nói chuyện cởi mở hơn về khoa học.
Điều đó nói lên nhận thức rất cao của Ma-ri về trách nhiệm của người trí thức trong thời chiến. Bà không nghĩ rằng những nhà tư tưởng lớn có thể đứng “trên cuộc chiến đấu”: trong bốn năm chiến tranh, Ma-ri đã một lòng phục vụ nước Pháp. Và đã cứu sống bao nhiêu người. Nhưng có những việc mà bà cho rằng người trí thức không thể thỏa hiệp. Bà không đồng tình với những nhà văn và nhà bác học bên kia sông Ranh đã ký vào bản Tuyên ngôn. Đối với Ma-ri, người trí thức sẽ phản lại sứ mệnh của mình nếu không kiên trì bảo vệ cho văn minh và tự do tư tưởng.
Sau khi tham gia vào cuộc chiến đấu của nước Pháp, Ma-ri đã không trở thành hiếu chiến, hoặc bè phái. Năm 1919 chúng ta gặp lại một nhà bác học chân chính đứng đầu phòng thí nghiệm của mình.
Bà đã từng khao khát cái ngày mà những phòng thí nghiệm mới xây dựng ở phố Pi-e Qui-ri sẽ sôi nổi hoạt động. Ý nghĩ đầu tiên của Ma-ri là không để gián đoạn công việc đặc sắc đã làm được trong thời chiến. Việc sử dụng khí tỏa của Ra-đi và phân phối những ống thủy tinh có “hoạt tính” đến các bệnh viện được tiếp tục dưới sự điều khiển của bác sĩ Rơ-gô sau khi phục viên, đã trở về phụ trách khu Sinh vật học. Còn ở khu Vật lý, bà Qui-ri và những người cộng tác lại tiếp tục chương trình bỏ dở từ 1914, và bắt đầu những thí nghiệm mới.
Cuộc sống đều đặn hơn. Đã đến lúc nghĩ đến tương lai của hai con gái, giờ đây là hai thiếu nữ khỏe mạnh, lớn bằng mẹ. I-ren một nữ sinh viên hai mươi mốt tuổi, trầm lặng, thăng bằng, không hề do dự một chút về chí hướng của mình. I-ren muốn trở thành một nhà vật lý đi sâu nghiên cứu về Ra-đi. Cô noi theo con đường Pi-e và Ma-ri đã đi một cách giản đơn, tự nhiên, đáng khâm phục. Cô không hề băn khoăn là mình sẽ có thành tích đạt rực rỡ như mẹ mình hay không và cũng không hề để tư tưởng mình bị ảnh hưởng bởi một tên tuổi quá lừng lẫy. I-ren thực sự yêu khoa học, lại rất có khiếu và tham vọng duy nhất của cô là sẽ được làm việc mãi trong phòng thí nghiệm mà chính mắt cô thấy xây dựng lên. Từ năm 1918, I-ren chính thức được cử làm nhân viên pha chế.
Trường hợp tốt đẹp của I-ren làm cho Ma-ri quá dễ dàng nghĩ rằng thế hệ trẻ tìm hướng đi không khó gì trong bàn cờ ngoắt ngoéo của cuộc đời. Những nỗi băn khoăn và những sự thay đổi chiều hướng của E-vơ làm cho bà thất vọng. Do quá tôn trọng tự do tư tưởng của các con, đánh giá quá cao sự khôn ngoan của chúng, Ma-ri không hề lấy quyền làm mẹ buộc E-vơ phải nghe. Ma-ri vẫn muốn E-vơ sau này trở thành thầy thuốc và đi sâu nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của Ra-đi. Nhưng bà không hề ép con phải đi theo con đường đó. Với một sự nhẫn nại rất kiên trì, bà luôn luôn chiều ý và còn hưởng ứng những thay đổi bất thường của con gái. E-vơ muốn học nhạc, Ma-ri cũng mừng thấy con có ý thích đó, để E-vơ tự chọn thầy dạy, tự chọn cách học. Đối với một đứa con gái đầy do dự, đáng ra cần được dìu dắt một cách cương quyết, Ma-ri lại quá thả lỏng. Làm sao Ma-ri có thể thấy được sai lầm đó của mình trong khi cuộc đời của bản thân luôn luôn được linh tính và bản năng không thể lầm lẫn của thiên tài dắt dẫn đến hoàn thành sứ mệnh mặc cho bao trở ngại lớn lao?
Bà theo dõi, cho đến phút cuối cùng của sự phát triển của hai con gái, tính tình khác hẳn nhau, không hề tỏ ra yêu con nào hơn. I-ren và E-vơ luôn luôn thấy ở Ma-ri một người bạn nồng nhiệt, một bàn tay che chở trong mọi trường hợp khó khăn. Sau này, khi I-ren có con, Ma-ri lại trông nom săn sóc hai thế hệ.
Ma-ri viết cho I-ren và con rể là Phrê-đê-rích Giô-li-ô Qui-ri(Frédéric Joliot Curie) (2-12-1928):
“Các con yêu dấu,
Mẹ gởi tới các con những lời chúc mừng năm mới với một năm đầy sức khỏe vui vẻ, làm việc hăng say, một năm mà ngày nào các con cũng cảm thấy vui sướng, không phải đợi ngày qua đi rồi mới thấy hứng thú, mà không phải chỉ mong chờ hứng thú ở những ngày sẽ tới. Càng về già, người ta càng thấy rằng biết hướng cái hiện tại là một đức tính quý báu.
Mẹ đang nghĩ tới bé Hê-len (Hélène), và mẹ chúc cho hạnh phúc của cháu. Cảm động biết mấy khi nhìn con người nhỏ bé đó nảy nở và đợi chờ tất cả ở các con với một niềm tin cậy vô bờ bến, tưởng như các con có thể mãi mãi che chở và chống mọi đau đớn, bệnh hoạn.
Một ngày kia, cháu sẽ hiểu rằng khả năng bố mẹ nó không nhiều được như thế – tuy nhiên người ta ai cũng ước mơ làm được tất cả cho con cái mình. Ít ra ta cũng phải cố gắng để cho con trẻ có một sức khỏe tốt, một tuổi thơ êm đềm và trong sáng trong tình thương yêu làm cho lòng tin của chúng có thể kéo dài mãi mãi”.
Ma-ri viết thư cho các con gái 3-9-1919:
“Mẹ không lúc nào không nghĩ đến bao công việc mà mẹ cùng các con sẽ phải làm trong những năm tới, mẹ nghĩ đến mỗi con, đến những phút êm đềm, và cả những phút lo âu mà các con đã cho mẹ. Đối với mẹ, các con là nguồn của cải to lớn nhất, và mẹ mong rằng cuộc đời sẽ còn dành cho mẹ nhiều năm chung sống tốt lành với các con”.
Phải chăng sức khỏe của Ma-ri đã khá hơn sau những năm chiến tranh căng thẳng? Phải chăng tuổi già đã làm cho tâm hồn Ma-ri thư thái dần? Tang tóc và tật bệnh giờ đây không còn như một gọng kìm siết chặt vào cuộc đời bà như xưa nữa, thời gian đã làm nhạt dần mọi phiền muộn.
Thư cho chị Brô-ni-a, 1 tháng 8 năm 1921:
“… Đời em đã từng đau khổ đến nỗi không còn biết đau khổ hơn được nữa. Bây giờ chỉ một tai họa thực sự mới có thể làm cho em thấm thía. Em đã học tính chịu đựng và cố tìm ra những niềm vui nhỏ trong bức tranh xám xịt của cuộc sống hàng ngày.
Chị hãy tự nhủ rằng mình có thể làm nhà, trồng cây, tưới hoa, nhìn cây, nhìn hoa nở và không nghĩ đến gì nữa. Chúng ta chẳng còn sống được mấy tí, việc gì cứ phải làm khổ mình mãi?”
I-ren rất hăng say thể thao, thường khuyến khích mẹ theo mình, đi bộ cùng mẹ rất lâu, rủ mẹ đi trượt băng, cưỡi ngựa và cả trượt tuyết nữa.
Mùa hè đến, Ma-ri đã trở về với các con ở Brơ-ta-nhơ (Bretagne). Ở Lác-cu-ét, một vùng rất đẹp, không đông đúc, ồn ào. Ba mẹ con như ba chị em đã sống những ngày hè thần tiên.
Dân xóm này ở ngay bờ biển Măng-sơ, gần tỉnh Panh-pôn, toàn làm nghề đi biển, làm ruộng … và làm giáo sư ở Xoóc-bon.
Việc nhà sử học Xô-nhê-bôt và nhà sinh vật học Luy-La-pích tìm ra được thôn Lác-cu-ét này năm 1895, dưới con mắt giới giáo sư đại học cũng quan trọng như Crit-xtôp Cô-lôm tìm ra châu Mỹ. nó cũng trở thành một cái trại của những nhà bác học mà một nhà báo hóm hỉnh gọi là “Pháo đài khoa học”. Ma-ri đến sau, trước còn ở nhà dân, sau thuê và cuối cùng mua hẳn một cái nhà nhỏ ở đây. Bà đã chọn một nơi khuất nẻo nhất, một nơi hóng gió nhất nhìn ra một khoảng biển êm lặng có rất nhiều hòn đảo lớn nhỏ ngăn không cho sóng ngoài khơi vỗ tới bờ.
Ma-ri xưa nay vốn thích loại nhà “đầu sóng ngọn gió”. Những nơi nghỉ hè mà bà thường thuê hoặc sau này bà cho xây dựng thường đều chung một điểm: giữa một khoảnh đất rộng, một ngôi nhà nhỏ bé. Buồng ở có thể tiều tụy, với ít đồ đạc sơ sài, nhưng quang cảnh thì tuyệt đẹp.
Người qua lại thưa thớt mà Ma-ri thường gặp mỗi buổi sáng – bà lão lưng khom, bác nông dân cục mịch và trẻ con, cười để lộ mấy cái răng sún, đều niềm nở chào Ma-ri với giọng địa phương kéo dài từng tiếng chậm rãi: “chào bà Qui-ri”. Ma-ri cũng chào lại theo cách nói của vùng này: “chào cụ, chào ông”. Không phải ngẫu nhiên, và cũng không vì phát minh ra chất Ra-đi mà dân ở đây quý mến Ma-ri. Đó là vì họ đã nhận thấy về tính tình, nếp sống, bà không khác gì một chị em nông dân vậy.
Vùng nghỉ mát của Ma-ri và các bạn đồng nghiệp của bà gồm mười một nóc nhà.
Nơi tập họp, là một túp lều thấp lè tè; tầm xuân, lạc tiên và nho dại leo phủ kín cả nóc. Một cái vườn thoai thoải trồng hoa đủ màu sắc. Giáo sư đại học đến ở đây, là cụ Xê-nhô-bôt một ông già bảy mươi tuổi người bé nhỏ, rất nhanh nhẹn, hơi gù, lúc nào cũng khoác bộ com-lê trắng có vạch đen, vá nhiều chỗ và đã ngã màu vàng. Dân vùng này gọi là cụ “Xê-nhô”, còn bạn bè cùng đến đây nghỉ mát thì gọi đùa là “quan ba”. Suốt đời sống độc thân cụ được tất cả những người xung quanh quý mến.
Từ nhà Ma-ri đến nơi tập hợp phải xuống một cái dốc quanh co, ngoằn ngoèo. Mươi mười lăm người đã có mặt ở đây và đang đi lại đợi xuống thuyền chèo ra các cù lao. Trông họ chẳng khác gì một đoàn người di cư hoặc một đội nghệ sĩ dân gian sống lang thang, nay đây mai đó. Và Ma-ri như vào một môi trường hòa hợp, không làm ai ngạc nhiên gì cả.
Ma-ri đội cái mũ vải đã bạc màu, mặc một cái váy cũ, một cái áo choàng, kiểu rất xưa, đưa thợ may trong làng chữa lại, không ra áo nữ cũng chẳng thành áo nam, chân không tất chỉ đi đôi dép nhẹ. Bên cạnh một cái túi vải đựng áo tắm và áo may-ô, như mười lăm cái túi khác vất rải rác trên bãi bể.
Nếu là một nhà báo tình cờ đến đây bạn sẽ thích thú như thế nào! Cẩn thận đấy, để khỏi xéo lên một Viện sĩ hàn lâm – đúng như vậy, đang nằm kéo dài trên cỏ – hoặc va phải một giải Nô-ben đấy! Người ta ở đây không thiếu. Bạn muốn nói vật lý ư? Đã có Giăng Pe-ranh, Ma-ri Qui-ri, Ang-đrê Đờ-biếc-nơ, Vích-to O-giê. Toán cao cấp, toán vi phân ư? Mời bạn gặp E-min Bô-ren, cái người khoác áo tắm trông như vua La-mã trong bộ áo trào! Vật lý vũ trụ? Lu-y La-pic, Sác-lơ Mô-ranh, sẽ tiếp bạn, còn nhà sử học Xê-nhô-bôt trẻ em ở đây vẫn kháo nhau rằng đó quả là một ông thánh, thuộc sử như cháo.
Nhưng cái lạ là, tất cả các nhà đại học ấy không hề nói đến vật lý sinh vật, sử hay toán. Ở đây, không có tôn ti, trật tự và ngay đến những thường thức xã giao cũng không. Ở đây, xã hội không chia thành lão làng và môn đệ, đàn anh và đàn em, mà chỉ bốn hạng người: kẻ “ngoại đạo” chưa quen biết tập tục của bộ lạc này nếu lạc rong vào đây cần phải tống đi cho nhanh; những “con voi” gồm mấy bạn không có khiếu lắm về môn bơi lội: họ được thu nhận, nhưng thành cái bung xung cho mọi người chế giễu. Sau đến “thủy thủ” xứng đáng là dân Lác-cu-ét. Cuối cùng là những thủy thủ ưu tú, những chuyên gia về các luồng nước ở bãi biển này, những nghệ sĩ bơi sải và chèo thuyền, được mọi người tặng danh hiệu “cá sấu”. Ma-ri không hề bị coi là kẻ “ngoại đạo”, nhưng cũng không thể có tham vọng làm “cá sấu”, chỉ sau một thời gian ngắn làm “voi” coi như để tập sự đã trở thành một “thủy thủ”.
Hình ảnh Ma-ri bơi ở Rôc-Vrét, giữa dòng nước mát lạnh, trong vắt và sâu, là một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất mà tôi còn giữ được ở mẹ tôi. Được I-ren và tôi hướng dẫn theo đúng phương pháp, mẹ tôi bơi một kiểu “bướm” rất đẹp. Lúc này, người ta không còn nghĩ đến bộ tóc hoa râm lẩn trong chiếc mũ bơi, và những nét nhăn trên mặt, mà chỉ ngắm thân hình mảnh dẻ và mềm mại, đôi tay trắng muốt, cử chỉ thoăn thoắt và duyên dáng như con gái. Ma-ri tự hào về sự nhanh nhẹn, về tài bơi lội của mình. Giữa mấy vị giáo sư ở Xoóc-bon vẫn có ganh đua thể thao thầm lặng. Ma-ri đo thật chi ly các khoảng cách mà các đối thủ của mình bơi được và tuy không thách thức bơi thi công khai, bà vẫn ra sức để phá kỷ lục bơi nhanh và bơi xa của các giáo sư trường đại học. Hai con gái bà vừa là huấn luyện viên vừa là người tâm sự:
– Có lẽ mẹ còn bơi giỏi hơn bác Bô-ren, nhỉ?
– Cố nhiên rồi! Mẹ hơn xa, so sánh thế nào được!
– Bác Pe-ranh hôm nay bơi được xa đấy. Nhưng hôm qua, mẹ còn bơi xa hơn nữa, con còn nhớ không?
– Có, con trông thấy, mẹ bơi rất hay. So với năm ngoái thì mẹ đã tiến rất nhiều.
Ma-ri rất thích những lời khen đó mà bà biết là chân thật, ở lớp người cùng tuổi, bà quả là một trong những tay bơi giỏi nhất.
Tắm xong, bà ngồi phơi nắng, ăn một mẩu bánh mì khô đợi xuồng về, thỉnh thoảng lại thốt lên: “Thích thật!”
Khách du thuyền ai về nhà nấy nghỉ ngơi để ăn trưa. Đến khoảng hai giờ, họ lại tụ tập trước nhà ông xóm trưởng để đợi đi chiếc thuyền buồm trắng E-glăng-tin. Bà Qui-ri lần này không đi. Bà ngồi nhà sửa một vài bài viết về khoa học, hoặc cầm cái mai, cái kéo xén cây, ra vườn. Nhiều khi chân tay trầy da chảy máu. Thế còn khá. Có khi I-ren và E-vơ đi chơi về, thấy mẹ ngồi ôm chân vì bị sai khớp, hoặc ngón tay tím bầm do búa lỡ nện phải.
Sáu giờ chiều, Ma-ri lại ra biển tắm lần nữa, rồi quay về nhà ông xóm trưởng bằng cái cửa lúc nào cũng mở. Trên một ghế bành, sau cái cửa sổ to trông ra vịnh, có một bà cụ ngồi. Cụ rất già và rất đẹp lão, nói chuyện rất có duyên. Đó là cụ Ma-ri-li-ê. Chiều nào cụ cũng ngóng chiếc thuyền buồm trắng E-glăng-tin trở về. Ma-ri ngồi đợi bên cụ. Kìa, những cánh buồm, vàng chói dưới ánh nắng hoàng hôn, hiện trên mặt biển mờ nhạt. Thuyền cập đất liền, đoàn đi chơi biển, trên con đường độc đã về. I-ren và E-vơ hiện ra trước tiên, cánh tay trần xám nâu vì phơi nắng, tóc cài hoa cẩm chướng đỏ do bác Xê-nho-bốt hái ở vườn tặng, mỗi lần đi chơi như thế.
Cặp mắt sáng ngời của hai cô gái, nói lên sự say sưa của chúng trong chuyến đi chơi ở cửa sông Tri-ơ, hoặc cặp bến ở đảo Mô-đê. Ở đây cỏ mọc rất mịn, quyến rũ họ vào những cuộc thi chạy mệt lả, mà mọi người đều tham gia. Cả cụ già bảy mươi, không hề phân biệt bằng cấp hoặc giải Nô-ben. Ai chạy giỏi thì giữ được uy thế. Ai chạy chậm thì bị bắt làm tù, và phải chịu để cho các tướng lĩnh trao đổi như một lũ nô lệ.
Sau bữa cơm chiều, Ma-ri mặc một cái áo choàng cũ đã 20 năm, khoác tay hai con gái, lại đi bộ đến nhà họp. Đây là buổi họp thứ ba trong ngày, để chơi đố chữ, đánh cờ hoặc đọc sách. Ma-ri được xếp vào hạng vô địch trong môn xếp chữ, với những chữ cái xếp bằng bìa, rút từ một cái túi.
Những ngày đại hội, người ta đóng kịch, ca hát, ngâm thơ, ca ngợi những sự kiện đáng ghi nhớ trong mùa: một cuộc thi thuyền, việc vận chuyển một tảng đá lớn để mở lối cho thuyền cập bến, một chuyện suýt đắm thuyền nửa bi, nửa hài, hoặc kể tội một con mèo-già-hóa-cáo vẫn đến phá hoại vườn rau ông nhà trưởng xóm…
Nói sao hết niềm vui thích tuyệt diệu này, tết bằng ánh sáng, lời ca, nụ cười trong trẻo, tình bạn thẳng thắn và hồn nhiên giữa lớp trẻ với các đàn anh của họ. Cuộc sống đó để lại trong Ma-ri và hai con gái những kỷ niệm phong phú nhất, mà trước hết là sự giản dị.
Không nhà triệu phú nào có thể tìm thấy ở bất cứ bãi biển nào những niềm vui thích sâu sắc hơn, tế nhị hơn, thanh cao hơn các nhà thể thao sáng suốt của trường Xoóc-bon trên mảnh đất Brơ-ta-nhơ này. Mà khung cảnh cũng chỉ là một cái làng nhỏ xinh xắn – như rất nhiều làng khác – Thành công này rõ ràng có phần đóng góp của những nhà bác học hàng năm đến tụ tập ở đây….
Đến đây, bạn đọc chắc phải khẽ thốt lên: “Trời! Sao lại có những người thẳng thắn, thuần phục như vậy! Thân ái, tin yêu nhau như vậy!”. Bạn bè của Ma-ri, từ người đã thấy bà khi ra đời, đến người quen biết lúc bà tuổi già, có lẽ không ai là nhân vật hấp dẫn, đối với những nhà viết tiểu thuyết sính màu ảm đạm. Họ sẽ ngạc nhiên, khi thấy có những gia đình như gia đình Xkhua-đốp-xki hoặc Qui-ri, ở đây cha mẹ con cái không thù ghét nhau, ở đây con người chỉ có tình thương, không ai nghe trộm ở cửa, không ai nghĩ đến phản trắc, đến gia tài, không ai giết ai, mà người ta lại còn hoàn toàn trung thực! Và những môi trường như các nhóm giáo sư đại học người Pháp hoặc người Ba-Lan tuy cũng có những nhược điểm, chưa hoàn thiện như tất cả mọi người khác, nhưng đều tha thiết với một lý tưởng không bao giờ bị phai mờ vì đắng cay hoặc xảo trá.
Ở đây, con mắt tinh đời nhất cũng khó mà phân biệt được nhà bác học và người mới đi vào nghiên cứu, ai nghèo và ai giàu. Trong những ngày nắng ráo cũng như những hôm mưa rào vùng Brơ-ta-nhơ, tôi chưa hề một lần nào nghe nói đến tiền. Người cao tuổi nhất trong chúng tôi là cụ Xê-nhô-bôt đã nêu một tấm gương cao cả và kín đáo. Cụ không nói lý thuyết hoặc đạo đức, nhưng trong cư xử, cụ tỏ ra rộng rãi. Cái nhà của cụ luôn rộng mở, thuyền du lịch E-glăng-tin và mấy chiếc ca-nô của riêng cụ, cụ để mọi người dùng chung. Và vào những dịp dạ hội, trong ánh sáng tưng bừng của đèn lồng mỗi khi đàn ác-coóc cử lên một điệu nhảy pôn-ca dân vũ Ba Lan, hoặc một điệu múa hai đôi đối đáp theo dân vũ Anh… thì từ chủ nhà đến người giúp việc, từ viện sĩ Hàn lâm đến cô thôn nữ, từ người thủy thủ Brơ-ta-nhơ đến cô gái Pa-ri ai nấy đều tham gia hồn nhiên vui vẻ.