Chương 23 CHÂU MỸ
Một buổi sáng tháng năm 1920, một phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh khảnh chân đi tập tễnh do một tai nạn từ bé bước vào Viện Ra-đi-om. Đó là bà Mê-lô-nây chủ bút một tờ thời báo lớn ở Niu-Yoóc. Nhìn thân hình bên ngoài khó mà đoán được đó là một phụ nữ hoạt động tháo vát. Tóc hoa râm, khuôn mặt xanh xao, rất đẹp, đôi mắt đen to, thơ mộng. Giọng run run, người khách hỏi chị thường trực không biết bà Qui-ri có nhớ buổi hẹn gặp mặt hôm nay không….
Buổi hẹn này, bà Mê-lô-nây mong đợi nó từ lâu. Bà là một trong những người khâm phục và ngưỡng mộ cuộc đời và sự nghiệp của Ma-ri Qui-ri. Và vì còn là một phóng viên nổi tiếng, bà đã tìm mọi cách để dến gần con người mà mình chiêm ngưỡng.
Sau rất nhiều lần xin phỏng vấn không kết quả, nhà báo Mỹ nhờ một bác sĩ quen thân, gửi Ma-ri bức thư khẩn khoản sau đây:
… “Cha tôi là một thầy thuốc, vẫn từng nói rằng không thể thổi phồng tầm quan trọng, chẳng có gì đáng kể của con người. Nhưng đối với tôi, từ hai mươi năm nay, bà là một nhân vật quan trọng. Và chỉ xin bà cho được gặp vài phút”…
Ngày hôm sau, bà được Ma-ri Qui-ri tiếp ở phòng thí nghiệm của nhà bác học.
Về sau, bà Mê-lô-nây viết:
“Cửa mở, một người đàn bà bước vào, xanh xao và nhút nhát. Tôi chưa từng thấy một vẻ mặt buồn đến vậy. Bà mặc một cái áo vải bông đen, khuôn mặt rất đẹp, dịu dàng và kiên nhẫn, biểu lộ một vẻ lơ đãng, thoát tục của những người suốt đời cống hiến cho khoa học. Tôi bỗng có cảm giác như mình đến quấy rầy.
Thế là tôi trở nên nhút nhát hơn cả bà Qui-ri nữa. Từ hơn hai chục năm, tôi là một nhà báo chuyên nghiệp. Nhưng đứng trước người đàn bà yếu ớt mặc đồ đen đó, tôi không hỏi được một câu nào. Tôi ấp úng, thanh minh rằng phụ nữ Mỹ rất chú ý đến sự nghiệp lớn lao của bà, như để xin lỗi vì sự tò mò của mình.
Muốn làm cho tôi ngạc nhiên, Ma-ri Qui-ri nói về chuyện châu Mỹ:
– Nước Mỹ có 50 gam Ra-đi – bà nói – Bốn ở Ban-ti-mo, sáu ở Đăng-ve, bảy ở Niu-Yoóc.
– Thế còn ở Pháp? – Tôi hỏi.
– Phòng thí nghiệm của tôi chỉ có hơn một gam Ra-đi thôi.
– Bà chỉ có một gam Ra-đi thôi à?
– Tôi ấy à? Tôi chẳng có gì cả. Gam Ra-đi ấy là của phòng thí nghiệm.
Tôi quay sang nói về bằng sáng chế, về những quyền lợi đáng ra đã làm cho bà trở thành rất giàu. Bà bình thản nói:
– Chất Ra-đi không được làm giàu ai cả. Nó thuộc sở hữu của mọi người.
– Nếu bà có thể nêu lên một vật gì mà bà muốn có trên thế giới này, bà sẽ chọn cái gì?
Câu hỏi thật ngớ ngẩn – nhưng có một hậu quả không ngờ… Trong tuần đó, tôi được biết là trên thị trường một gam Ra-đi có giá mười vạn đô-la. Tôi cũng biết phòng thí nghiệm của bà Qui-ri mới xây dựng, đang thiếu phương tiện và số Ra-đi dự trữ ở đó chỉ đủ để làm những ống khói tỏa Ra-đi dùng để chữa bệnh mà thôi”.
Bà Mê-lô-nây không khỏi ngạc nhiên sửng sốt. Bà đã đi thăm những phòng thí nghiệm đồ sộ của nước Mỹ, nhất là ở E-đi-sơn, giống như một lâu đài. Bên cạnh những công trình nguy nga ấy viện Ra-đi-om của nước Pháp, tuy mới làm nhưng trông thật thiểu não.
Người nữ phóng viên Mỹ cũng đã từng biết những nhà máy ở Pít-xbớc chế biến quặng Ra-đi, với những cột khói đen tỏa trên bầu trời và những đoàn xe lửa dài chuyên chở thứ quặng chứa đựng chất Ra-đi quý giá…
Giờ đây, bà đang ở Pa-ri, trong một gian phòng bày biện sơ sài, cũng giản dị như người đã khám phá ra chất Ra-đi. Bà hỏi Ma-ri:
– Bà có mong muốn gì không?
Bà Qui-ri dịu dàng đáp:
– Tôi cần một gam Ra-đi để tiếp tục nghiên cứu nhưng không mua được. Đối với tôi, chất Ra-đi đắt quá!
Bà Mê-lô-nây chợt nảy ra một ý định to lớn: làm thế nào cho nhân dân Mỹ biếu bà Ma-ri Qui-ri một gam Ra-đi.
Trở về Mỹ, thoạt tiên bà đi vận động mười phụ nữ triệu phú Mỹ mỗi người giúp một vạn đô-la để mua tặng phẩm đó. Không kết quả. Chỉ có ba nhà hảo tâm sẵn sàng giúp. Lúc này bà Mê-lô-nây tự hỏi: “Sao ta lại không mở ra một cuộc quyên góp trong tất cả những phụ nữ Mỹ?”.
Bà đứng ra lập một tiểu ban gồm nhiều nhà trí thức Mỹ và phát động trong các thành phố nước Mỹ một phong trào đóng góp vào Quỹ Ra-đi của Ma-ri Qui-ri. Và chỉ một năm sau, kể từ cuộc phỏng vấn với Ma-ri, bà đã có thể biên thư cho nhà nữ bác học: “Tiền đã có. Bà sẽ có Ra-đi!”
Phụ nữ Mỹ rất sốt sắng giúp Ma-ri Qui-ri, nhưng lại muốn mời bà sang thăm nước Mỹ.
Ma-ri do dự. Từ trước đến nay bà rất ngại ra mắt công chúng. Chỉ riêng việc nghĩ đến sự phô trương xa hoa của một cuộc đi thăm nước Mỹ, cái nước thèm khát quảng cáo nhất thế giới, cũng đủ làm cho Ma-ri phát hoảng.
Nhưng bên mời cứ nài mãi.
– Bà ngại xa rời hai cô con gái ư? Chúng tôi xin mời cả hai chị cùng đi. Ngại đón tiếp phiền phức? Sẽ có một chương trình hạn chế mọi nghi lễ long trọng đến mức vừa phải. Mời bà sang nước Mỹ? Chúng tôi hứa, bà sẽ có một chuyến đi thích thú.
Cảm kích, Ma-ri đành gạt lo ngại và lần đầu tiên trong đời mình, khi đã năm mươi lăm tuổi, bà nhận những ràng buộc của một cuộc đi thăm chính thức long trọng.
Nói đến du lịch thì I-ren và E-vơ rất hứng thú, tíu tít chuẩn bị. E-vơ nằng nặc bắt mẹ phải sắm một hoặc hai chiếc áo mới và để lại Pa-ri những chiếc áo mà Ma-ri ưng mặc nhất, đã cũ và bạc màu. Chung quanh Ma-ri ai nấy bận rộn, vội vã. Báo chí bắt đầu nói đến những cuộc đón tiếp và nghi lễ đang đợi Ma-ri ở bên kia Đại Tây Dương. Còn chính phủ Pháp thì lo đến vấn đề phải tặng nữ bác học những danh hiệu gì cho xứng đáng với tiếng tăm lừng lẫy của bà. Người Mỹ khó hiểu tại sao Ma-ri Qui-ri lại không có chân trong Hàn lâm học Pa-ri, lại không được Bắc đẩu Bội tinh… Người ta vội tặng bà danh hiệu này, nhưng một lần nữa, bà từ chối.
Cuối tháng tư 1921, Ma-ri cùng hai con gái đáp tàu O-lim-pích sang Mỹ. Ba mẹ con chỉ có một hòm hành lý, nhưng được ở gian phòng sang nhất của chiếc tàu hàng hải này. Trước những bàn ghế quá lộng lẫy, những bữa ăn quá thịnh soạn, Ma-ri dè dặt, ngượng ngùng như một nông dân. Để khỏi bị quấy rầy, bà ở miết trong phòng, khóa cửa để quên cuộc đi thăm chính thức này bằng cách nhớ lại những kỷ niệm êm đềm phẳng lặng trong cuộc sống bình thường của mình.
Ma-ri viết thư cho bà Giăng Pe-ranh, ngày 10 tháng 5 1921:
“Hăng-ri-ét thân! Xuống tàu thì được thư chị. Nó làm tôi vui thêm. Có đâu không lo ngại mà tôi từ giã nước Pháp mà đi một chuyến xa như vậy, nó không hợp tí nào với sở thích và nếp sống của tôi.
Trên tàu chẳng thú vị gì cả. Biển u ám, ồn ào. Không ốm, nhưng tôi cũng thấy hơi say sóng nên phần lớn thời gian chỉ ở trong buồng tàu. Hai cháu có vẻ thích lắm. Bà bạn Mỹ đi cùng chúng tôi, tìm mọi cách tranh thủ tình cảm của chúng. Bà ấy quả là khéo.
Tôi nhớ trại hè Lác-cu-ét (Larcouëst-NS) và những giờ phút đẹp đẽ mà rồi đây sẽ lại được sống ở đấy, nhớ khu vườn mà chị sẽ đến để được yên tĩnh, nhớ biển xanh và dịu, và đôi ta cùng thích, nó quả là niềm nở hơn cái đại dương lầm lì lạnh lẽo này. Tôi lại nghĩ đến đứa con mà cháu gái lớn của chị sẽ sinh, và sẽ là thành viên trẻ nhất của trại hè chúng ta – đại diện đầu tiên của thế hệ mới. Hy vọng rằng sau nó, nhiều đứa khác nữa ra đời, những con của con chúng ta…”.
Niu-Yoóc, cao vút và nguy nga, hiện ra trong sương mù ban mai của một ngày nắng ráo. Các nhà báo, nhiếp ảnh và điện ảnh, và rất nhiều công chúng đứng chờ ở bên để đón nhà nữ bác học. Có kẻ sẽ phải đợi năm, sáu tiếng đồng hồ mới thấy người mà các báo gọi là “Vị ân nhân của loài người”. Hàng đoàn hướng đạo gái và học sinh gái, và một phái đoàn ba trăm phụ nữ vẫy những bông hoa hồng, đỏ và trắng: đỏ là đại biểu nhân dân Ba Lan tại Mỹ. Cờ Mỹ, cờ Pháp, cờ Ba Lan, màu rực rỡ phấp phới trên hàng ngàn đôi vai chen chúc và khuôn mặt hồ hởi.
Trên boong hạng nhất tàu Ô-lim-pích, người ta mời gần như lôi kéo Ma-ri ngồi vào ghế bành to. Bốn mươi ống kính, máy ảnh và quay phim túm tụm chĩa vào chen chúc, khép mãi vòng vây quanh thân hình bé nhỏ và nét mặt mệt nhọc, ngỡ ngàng của nhà nữ bác học. Rồi tiếng phóng viên, tiếng nhà báo cứ rối lên bốn phía.
“Xin bà nhìn phía này cho”
“Xin bà ngẩng đầu lên một tí”
“Xin quay sang phải”
“Xin sang trái”
“Xin nhìn về đây”
Những cố gắng gay gắt của Ma-ri để đứng trong bóng tối, ở Pháp, phần nào đã có kết quả: bà đã làm cho người đương thời, và ngay đến họ hàng thân thuộc tin rằng một nhà bác học lớn chẳng phải một nhân vật quan trọng gì. Nhưng vừa đặt chân đến Niu-Yoóc, thì tấm màn bị kéo xuống và sự thật hiện ra. Lúc này I-ren và E-vơ mới thấy rõ người mẹ bấy lâu sống âm thầm, khiêm tốn, đối với thế giới là thế nào.
Mỗi bài diễn văn, mỗi dấy động trong lòng công chúng, mỗi cột báo đều nói lên một lòng mến phục sâu sắc. Các báo Mỹ ca ngợi với những đầu đề chữ to: “Vẻ đẹp đơn sơ của người khách quý mệt mỏi”, “Một phụ nữ nhút nhát”, “Một nhà nữ bác học ăn mặc quá xoàng xĩnh”…
Tôi không có ý định đánh giá ở đây tâm hồn của cả một dân tộc. Tôi sẽ không căn cứ vào những cột báo mà phê phán nước Mỹ – dù sao sự hào hứng của dân Mỹ biểu lộ trong sự đón tiếp Ma-ri Qui-ri chẳng có ý nghĩa sâu sắc ư? Châu Âu thường cho là người Mỹ có đầu óc thực tế; nhưng trong cuộc đón tiếp Ma-ri, một làn sóng lý tưởng đã tràn đến tận chân nhà bác học. Một bà Qui-ri kiêu kỳ, nhờ những phát minh khoa học của mình mà giàu sang phú quý có lẽ chỉ gây sự tò mò ở Mỹ mà thôi. Bà sẽ không được một sự mến thương rộng rãi như vậy. Qua nhà nữ bác học quá đỗi nhút nhát, nhân dân Mỹ hoan nghênh một thái độ trước cuộc sống làm cho họ cảm động: đó là lòng khinh miệt lợi nhuận, lòng tận tụy với một sự nghiệp trí tuệ, là nhiệt tình phục vụ.
Phòng của bà Mê-lô-nây tràn ngập hoa – có một người trồng hoa bị ung thư được chất Ra-đi chữa khỏi, đã ra sức vun trồng, từ hai tháng nay, mấy khóm hồng thật đẹp để tặng Ma-ri – người ta lui tới tấp nập để ấn định chương trình đi thăm nước Mỹ của Ma-ri. Các thành phố, các trường đại học đều mời nhà nữ bác học và tặng bà hàng chục huy chương cùng học vị danh dự…
– Bà có mang theo bộ y phục đại học chứ? – Bà Mê-lô-nây nói – Trong những buổi lễ đó cần ăn mặc đúng nghi thức đấy.
Nụ cười ngây thơ của Ma-ri làm mọi người sửng sốt. Thì ra, Ma-ri, từ khi vào dạy ở Xoóc-bon, chưa hề nghĩ đến may một bộ y phục đại học mà đáng ra mỗi giáo sư Xoóc-bon phải có.
Thế là người ta lại phải gọi thợ đến, cắt may ngay chiếc áo nghi lễ bằng lụa đen viền cổ nhung để rồi đây sẽ khoác thêm những áo choàng rực rỡ kèm theo học vị tiến sĩ.
Từng đoàn học sinh gái, mặc áo choàng trắng, đứng hai hàng dọc trên những con đường chói nắng. Hàng nghìn em gái, chạy ùa trên bãi cỏ, đón xe của Ma-ri, vẫy cờ, hoa, hoan hô và ca hát đồng thanh… Quả là ban tổ chức tiếp đón có sáng kiến tranh thủ tình cảm của Ma-ri bằng cách để bà tiếp xúc trước tiên với tầng lớp thanh niên và sinh viên hào hứng!
Cùng những học sinh các trường đó – một tuần lễ sau – lại tham gia cuộc mít tinh khổng lồ của các tổ chức phụ nữ đại học. Và liền hai hôm sau là cuộc tiếp đón của năm trăm bảy mươi ba đại biểu các hội khoa học Mỹ. Ma-ri lúc này đã mệt lử. Giữa đám đông công chúng, chen chúc, ồn ào, một người đàn bà mảnh khảnh vừa mới từ một cuộc đời ẩn dật đến đây, cuộc đọ sức quả là không đồng đều. Những lời hoan hô ầm ĩ làm cho Ma-ri bàng hoàng. Những cái nhìn chăm chú làm bà phát sợ. Nhất là cảnh xô đẩy chen lấn nhau trên đường đi qua, bà tưởng chừng như đám người chen chúc đó sắp nghiền nát mình. Và đây, một phụ nữ Mỹ, quá ngưỡng mộ Ma-ri, đã bắt tay chặt đến nỗi nhà bác học phải tiếp tục cuộc hành trình với một cổ tay bị xái, phải đeo tay lên cổ, một thương binh của danh vọng.
*“Nhà phát minh ra Ra-đi được những người Mỹ tặng một kho tàng vô giá”. Những nhà báo, đăng cái tin rất kêu đó sẽ ngạc nhiên biết bao nếu họ biết rằng Ma-ri không nhận cho mình cái gam Ra-đi do nước Mỹ tặng. Ngay buổi tối hôm trước, khi bà Mê-lô-nây đưa cho Ma-ri xem, để thông qua văn bản trao tặng. Ma-ri đã đọc rất cẩn thận rồi khoan thai nói:
– Cần thêm một chi tiết. Gam Ra-đi mà nước Mỹ biếu tôi sẽ mãi mãi thuộc về khoa học ngày nào tôi còn sống, đương nhiên tôi sẽ chỉ dùng nó vào công việc nghiên cứu khoa học. Nhưng nếu để thế này, thì sau khi tôi chết đi, chất Ra-đi đó sẽ trở thành tài sản tư nhân, nghĩa là của con gái tôi. Như thế không được. Tôi muốn tặng lại phòng thí nghiệm của tôi. Ta có thể mời trạng sư đến được không?
Hơi bị đột ngột, bà kia vội đáp;
– Thế nhưng… Được lắm chứ. Nếu ý bà như vậy. Chúng tôi sẽ làm các thủ tục đó vào tuần sau.
– Không để tuần sau, hoặc để ngày mai. Mà ngay chiều nay. Vì văn bản trao tặng sẽ có giá trị pháp lý ngay, biết đâu, vài giờ nữa, tôi có thể chết.
Tìm mãi mới được một trạng sư đến để cùng với Ma-ri thảo ra chứng từ bổ sung. Và Ma-ri đã ký ngay vào đó.
Trước sức khỏe sút kém của Ma-ri, chương trình đi các nơi phải rút ngắn, chỉ giữ lại những buổi đón tiếp quan trọng, không thể cắt được… nhưng riêng những buổi này cũng đủ làm mệt nhoài một lực sĩ vạm vỡ nhất! Ngày 28 tháng 5, ở Niu-Yoóc, Ma-ri được tặng học vị tiến sĩ danh dự trường đại học Cô-lôm-bi-a. Ở Si-ca-gô, bà được bầu làm ủy viên danh dự trường đại học thành phố này, được tặng nhiều học vị danh dự và dự mấy cuộc đón tiếp. Cảm động nhất là cuộc gặp mặt trong khu vực người Ba Lan ở Si-ca-gô, chỉ có dân Ba Lan đi dự. Họ không chỉ hoan nghênh nhà nữ bác học mà chính là hoan nghênh Tổ quốc xa xăm mà bà là tượng trưng sống. Đàn ông, đàn bà, nước mắt giàn giụa vây quanh Ma-ri, hôn tay, níu áo…
Ngày 17 tháng Sáu, Ma-ri một lần nữa phải cắt cuộc hành trình. Huyết áp xuống quá thấp làm các bác sĩ lo ngại. Ma-ri phải nghỉ ngơi, sau còn cố gắng đi thăm hai thành phố và năm trường đại học. Và đến 28 tháng 6, bà lại đáp tàu Ô-lim-pích trở về, buồng tàu tràn ngập hoa và những bức điện khắp nơi gửi đến…
Trong sổ tay của mình chính Ma-ri Qui-ri cũng tự đặt những câu hỏi. Và bà đã trả lời:
“Rất nhiều bạn tôi cho rằng nếu Pi-e và tôi cứ giữ lấy bản quyền phát minh, chúng tôi đã có những phương tiện tài chính cần thiết để xây dựng một viện Ra-đi-om đàng hoàng, mà không vấp phải trở ngại, đã cản trở chúng tôi, và ngày nay vẫn còn cản trở bản thân tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng chúng tôi đã làm đúng.
Nhân loại hẳn là cần có những người thực tế. Họ luôn luôn cố đạt được nhiều nhất, về công việc của họ và biết giữ gìn quyền lợi của bản thân mà không quên lợi ích chung. Nhưng, nhân loại cũng cần những người biết mơ mộng: Những người biết say sưa và vô tư theo đuổi một sự nghiệp lớn đến nỗi không thể bận tâm đến những quyền lợi vật chất của bản thân mình.
Rõ ràng là những người như vậy không thể giàu được, vì họ không muốn giàu. Tuy nhiên, một xã hội có tổ chức, đáng ra phải đảm bảo cho những người lao động đó, những phương tiện có hiệu quả để họ thực hiện nhiệm vụ, trong một cuộc sống không còn phải lo nghĩ về vật chất và hoàn toàn dành cho nghiên cứu khoa học”.