← Quay lại trang sách

Chương 24 NẢY NỞ

Đối với Ma-ri Qui-ri, chuyến đi thăm nước Mỹ là một bài học. Nó chứng minh cho bà thấy rằng: cách sống ẩn dật của bà quả là bất lợi. Một nữ sinh viên có thể ngồi nhà với mấy quyển sách. Một người nghiên cứu vô danh có thể tự tách mình ra khỏi cuộc đời, và để hết tâm trí vào công việc đang làm. Nhưng một bà Qui-ri năm mươi lăm tuổi khác với một sinh viên hay là một nhà nghiên cứu. Bà có trách nhiệm về một khoa học mới, về một phương pháp chữa bệnh mới. Uy tín của Ma-ri Qui-ri to lớn, đến nỗi chỉ bằng cử chỉ hoặc chỉ bằng sự có mặt, bà cũng có thể đem lại thành công cho một dự án có ích chung nào đó. Từ nay, bà sẽ dành một chỗ trống đời mình cho những cuộc trao đổi ấy, cho sứ mạng ấy.

Những chuyến đi của Ma-ri Qui-ri đều giống nhau. Đến nhiều thủ đô, dự những hội nghị khoa học, những cuộc nói chuyện, những buổi lễ trọng thể của các trường đại học, những cuộc đi thăm các phòng thí nghiệm. Đến đâu cũng được hoan nghênh, mừng đón. Đến đâu, cũng muốn giúp ích tận tình. Mà thường phải chống lại sự suy nhược của sức khỏe.

Và mỗi lần hoàn thành nhiệm vụ chính thức của mình, phần thưởng quý nhất của Ma-ri là được biết thêm cảnh đẹp thiên nhiên. Ba mươi năm, cặm cụi trên một công việc khô khan càng làm cho Ma-ri thêm yêu vẻ đẹp của tạo hóa. Một lần đi trên chiếc tàu nhỏ của Ý qua miền Nam Đại Tây Dương, bà đã vui thích, hồn nhiên như một đứa trẻ. Bà viết thư cho E-vơ:

“Mẹ đã trông thấy cá bay! Mẹ cũng nghiệm thấy như là mình không có bóng khi mặt trời chiếu thẳng xuống đầu. Rồi lại thấy những hành tinh quen thuộc lặn xuống biển: sao Bắc đẩu, Đại hùng tinh. Ở phía nam, có hiện ra sao ThậpPhương Nam, rất đẹp. Mẹ hầu như không biết gì về những ngôi sao ở phương trời nầy”.

Bốn tuần lễ ở Ri-ô Đờ Gia-nây-rô, cùng đi với I-ren để nói chuyện về khoa học là bốn tuần lễ nghỉ ngơi dễ chịu.

Đi Ý, Hà Lan, Anh nhiều lần. Năm 1931, cùng với E-vơ sang Tây Ban Nha.

Không còn nơi nào trên thế giới mà người ta không biết tên tuổi Ma-ri Qui-ri. Người ta thấy một bức chân dung của Ma-ri treo trong một đền thờ Khổng Phu Tử tại một thành phố nhỏ của Trung Quốc. Những bậc hiền ở đây đã xếp ảnh bà bên cạnh những “ân nhân của loài người”: Nhà triết học Pháp Đề-các, nhà vật lý học Anh Niu-tơn, Đức Phật và những vua chúa trong lịch sử Trung Quốc.

*

Ngày 15 tháng 5 năm 1922 ở Giơ-ne-vơ, Hội Quốc liên nhất trí bầu bà “Qui-ri Xkhua-đốp-xka” làm hội viên Hội đồng Quốc tế hợp tác Trí thức.

Trong đời của Ma-ri đây là một sự kiện quan trọng. Từ khi bà lừng danh, có hàng trăm hội ái hữu, hội lên hiệp, đoàn thể mời bà gia nhập, để có thể dựa vào tên tuổi của bà. Ma-ri đều từ chối. Bà không muốn chỉ có tên trong những tổ chức mà mình không có thì giờ tham gia. Vì vậy, việc bà gia nhập vào hội Quốc liên có một ý nghĩa đặc biệt. Về sau, bà được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Quốc tế hợp tác trí thức và tham gia nhiều tiểu ban chuyên môn cũng như ban lãnh đạo Viện hợp tác trí thức ở Pa-ri.

Sẽ không hiểu đúng con người lý tưởng nhưng cũng thực tế đó, nếu nghĩ rằng bà ưa thích các trò làm xiếc vô ích với những ý kiến chung chung. Ở Giơ-ne-vơ, Ma-ri Qui-ri cũng làm việc – và một lần nữa bà đã phục vụ được khoa học.

Trước tình trạng mà bà gọi là sự “hỗn loạn trong công việc khoa học trên thế giới”, bà muốn làm cho các bạn đồng nghiệp nhất trí về một số vấn đề cụ thể: thoạt trông tưởng như nhỏ bé nhưng có ảnh hưởng quyết định đến bước tiến của khoa học; đó là, tổ chức cho hợp lý khoa Tu thư; thống nhất các ký hiệu và thuật ngữ khoa học; các khuôn khổ sách xuất bản; các bản tóm tắt các công trình đăng trên các tạp chí; thiết lập các bản Hằng số để giúp cho người nghiên cứu có thể tham khảo nhanh chóng những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu của mình.

Ma-ri Qui-ri còn lưu tâm rất nhiều đến việc giảng dạy trong các trường đại học và các phòng thí nghiệm. Bà muốn cải tiến phương pháp nghiên cứu, và chủ trương phải có một “phương hướng chung” để phối hợp những cố gắng của các nhà nghiên cứu. Bà gợi ý nên có thông báo hội ý giữa các nhà bác học, đứng đầu từng ngành, như một ban tham mưu, để hướng dẫn công tác khoa học ở châu Âu.

Suốt đời mình, Ma-ri Qui-ri bị một ý nghĩa day dứt. Đó là vấn đề có những tài năng không được biết đến, không được sử dụng, trong những tầng lớp xã hội ít được nâng đỡ. Một nông dân, một công nhân biết đâu chẳng có mầm mống một nhà văn, nhà bác học, họa sĩ, nhạc sĩ? Ma-ri ra sức phát triển các học bổng quốc tế về nghiên cứu khoa học.

Trong một bản báo cáo, bà viết:

“Ích lợi của xã hội là gì? Phải chăng là sự cổ vũ nảy nở của chí hướng khoa học? Xã hội đâu đã giàu đến nỗi có thể hy sinh tài năng tự đến cống hiến? Tôi nghĩ rằng một năng khiếu cần cho một chí hướng khoa học thật sự là một cái gì vô cùng quý giá, mỏng manh, một kho tàng hiếm mà để mai một đi là có tội vô lý; phải hết sức chăm sóc đến nó, tạo mọi cơ hội cho nó nẩy nở…”

Và đây là một trái ngược. Nhà nữ vật lý vẫn hằng thoái thác quyền lợi vật chất, lại tích cực bênh vực “quyền sở hữu khoa học” cho các đồng nghiệp mình. Bà muốn lập ra một “bản quyền tác giả” của các nhà bác học nhằm khen thưởng những công trình đã được dùng làm cơ sở cho những áp dụng công nghiệp. Ước mơ của bà là làm thế nào khắc phục tình trạng nghèo nàn của các phòng thí nghiệm, bằng một khoản trợ cấp cho nghiên cứu trích trong những lời lãi về thương mại.

Chỉ một lần bà gác lại một bên những vấn đề thực tế và đến chủ tọa ở Ma-đrit năm 1933 một cuộc họp về “Tương lai của văn hóa”, có các nhà văn, các nghệ sĩ của nhiều nước đến tham dự. Như lời của Pôn Va-lê-ri nhà thơ Pháp đã có sáng kiến triệu tập cuộc họp, đó là “Cuộc gặp mặt của những Đông Ki-sốt của trí tuệ đang chiến đấu với những cối xay gió của mình”. Do uy tín và những tham luận độc đáo của mình, Ma-ri làm hội nghị ngạc nhiên. Các đại biểu lên tiếng báo động, vạch rõ nguy cơ của sự “chuyên môn hóa”, sự “tiêu chuẩn hóa” và cho rằng khoa học chịu một phần trách nhiệm về cuộc “khủng hoảng văn hóa” trên thế giới. Lúc này, mới thấy một hình ảnh rất đẹp, có lẽ còn Đông Ki-sốt hơn tất cả những Đông Ki-sốt[52] có mặt – bênh vực, với một niềm tin tưởng như xưa, lòng ham mê tìm tòi, sự ưa thích khám phá và phát minh. Tóm lại, những ham mê vẫn hằng chi phối cuộc đời mình.

Bà nói:

– Tôi nghĩ rằng khoa học có một vẻ đẹp lớn lắm. Nhà bác học trong phòng thí nghiệm, đâu chỉ là một người có kỹ thuật – đó cũng như là một đứa trẻ, xúc động trước các hiện tượng thiên nhiên như khi đọc một chuyện thần thoại,...chúng ta không nên để cho ai lầm tưởng rằng: mỗi tiến bộ về khoa học rút cục cũng chỉ là động cơ, là máy móc, là bánh xe răng cưa ăn khớp với nhau, mà những thứ đó cũng mang vẻ đẹp của nó. Trong thế giới của chúng ta óc phiêu lưu chưa mất hẳn. Nếu tôi thấy xung quanh tôi có một cái gì đó sinh động, đó chính là óc phiêu lưu mạo hiểm dường như không thể bật rễ được, nó gắn liền với lòng ham muốn hiểu biết...

Đấu tranh cho một nền văn hóa quốc tế vẫn tôn trọng các nền văn hóa dân tộc. Bảo vệ nhân cách và tài năng bất cứ ở đâu. Đấu tranh để “củng cố sức mạnh tinh thần lớn lao của khoa học trên thế giới”, cho một sự “giảm vũ khí trên lĩnh vực tinh thần”, cho hòa bình. Đó là những cuộc chiến đấu mà bà Qui-ri đã tiến hành mà không hề dám nghĩ đến một thắng lợi nhanh chóng.

*

Ba bốn lần về thăm quê hương Ba Lan…

Không phải về để nghỉ ngơi, để bớt căng thẳng vì công việc mà bà Qui-ri về thăm xứ sở, họ hàng. Từ khi nước Ba Lan lại được độc lập, Ma-ri lại nuôi thêm một hoài bão: lập ở Vác-xô-vi một viện Ra-đi-om, trung tâm nghiên cứu khoa học và điều trị ung thư, để phục vụ nhân dân mình.

Vừa mới thoát khỏi ách đô hộ lâu năm, nước Ba Lan rất nghèo, nghèo tiền, nghèo cả người chuyên môn. Ma-ri không có thì giờ tự đi giao dịch, gây vốn. Người đầu tiên sát cánh với Ma-ri là chị ruột. Tuy đã già nhưng vẫn hăng hái nhiệt tình như ba mươi năm về trước, Brô-ni-a lao ngay vào công việc, vừa là kiến trúc sư, vừa đi giao dịch, vừa giữ quỹ.

Đất nước Ba Lan tràn ngập áp phích và tem có in chân dung bà Qui-ri. Người ta quyên tiền, hoặc nói đúng hơn là quyên gạch “Hãy mua một viên gạch để xây dựng Viện Ma-ri Xkhua-đốp-xka Qui-ri!”. Lời kêu gọi in trên hàng ngàn bưu ảnh có kèm một câu viết tay của nhà nữ bác học: “Mong muốn sâu sắc nhất của tôi là lập một viện Ra-đi-om ở Vác-xô-vi”. Cuộc vận động này được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhà nước Ba Lan, thành phố Vác-xô-vi và nhiều tổ chức quan trọng ở Ba Lan.

Gạch quyên được ngày càng nhiều… Và đến năm 1925, Ma-ri lại đến Vác-xô-vi đặt nền móng cho viện Ra-đi-om. Một cuộc về thăm thắng lợi: hồi tưởng lại quá khứ, hứa hẹn về tương lai… Cả dân tộc thắm thiết đón người phụ nữ mà báo chí gọi là “Vị phu nhân thứ nhất của nước Cộng hòa Ba Lan”. Các trường đại học, các viện Hàn lâm, các thành phố Ba Lan đều tặng Ma-ri những danh hiệu cao quý nhất.

Một buổi sáng nắng ráo, tổng thống nước cộng hòa Ba Lan đặt viên gạch đầu tiên, xây Viện Ra-đi-om, bà Qui-ri đặt viên thứ hai, và chủ tịch thành phố đặt viên thứ ba…

Không một chút gì nghi thức cứng rắn trong những buổi lễ đó! Chẳng phải vì lịch thiệp hay xã giao mà tổng thống Xta-ni-xoap Vôi-trê-khốp-xki (Stanislav Wojciechowski-NS) khen Ma-ri nói tiếng mẹ đẻ rất sõi sau bấy nhiêu năm xa đất nước. Vì chính ông cũng đã từng ở Pa-ri, và là bạn của cô sinh viên Xkhua-đốp-xca. Bạn cũ gặp nhau, bao nhiêu kỷ niệm xưa được nhắc lại. Xta-ni-xoáp hỏi:

– Bà còn nhớ cái gối du lịch nhỏ mà bà cho tôi mượn, cách đây ba mươi năm, khi tôi trở về Ba Lan với một sứ mệnh chính trị bí mật? Nó đã giúp ích cho tôi rất nhiều!

– Nhớ lắm chứ – Ma-ri vừa cười vừa đáp lại – Tôi còn nhớ là ông còn chưa trả lại cái gối ấy cho tôi!

*

Năm tháng trôi qua, gạch ngày nay đã được xây thành tường. Nhưng nào Ma-ri và Brô-ni-a đã hết long đong, vất vả. Tuy hai chị em đã đem một phần lớn vốn liếng dành dụm của mình vào sự nghiệp này, tiền vẫn chưa đủ để mua số lượng Ra-đi cần thiết cho công cuộc điều trị bệnh ung thư.

Viện Ra-đi-om Vác-xô-vi được khánh thành ngày 29 tháng 5 năm 1932 đánh dấu thành công mỹ mãn về sự nghiệp chung của Ma-ri, Brô-ni-a và nhà nước Ba Lan. Từ mấy tháng trước, viện đã nhận bệnh nhân đến điều trị theo phương pháp Qui-ri.

Đó là lần cuối cùng Ma-ri về Ba Lan, thăm lại những phố cũ của thành phố quê hương, dòng sông Vít-xtuyn mà mỗi lần Ma-ri đều ngắm với lòng dạt dào nhớ nhung, hầu như hối hận.

Những lá thư gửi cho E-vơ, đã tả lại dòng nước ấy, mặt đất ấy, những mảnh đá ấy, với một tình cảm quyến luyến mãnh liệt.

“Sáng hôm sau, mẹ đi chơi một mình trên bờ Vít-xtuyn. Dòng sông lững lờ, uốn khúc trong lòng sông rộng. Ở gần, nước màu xanh lá cây; xa xa, có ánh mặt trời, nước màu xanh da trời. Những cồn cát đáng yêu lấp lánh dưới ánh nắng, thường nổi lên nhấp nhô, khiến cho nước chảy ngoằn ngoèo. Mẹ cảm thấy một nhu cầu không thể cưỡng nổi cần ra chơi trên những bãi cát chan hòa ánh nắng tuyệt vời ấy.

Một bài hát vùng Cra-cô-vi ngợi ca sông Vít-xtuyn như sau: dòng sông Ba Lan có một vẻ đẹp quyến rũ đến nỗi ai đã đem lòng say mê đều sẽ yêu đến trọn đời. Cái đó rất đúng với mẹ”.

Năm 1920, một viện Qui-ri được thành lập ở Pháp để thu thập những tặng vật, những trợ cấp và nâng đỡ công tác khoa học và y học của viện Ra-đi-om.

Năm 1922, ba mươi nhăm viện sĩ Viện Hàn lâm Y học gửi kiến nghị cho các bạn đồng nghiệp đề nghị mời bà Qui-ri vào Viện Hàn lâm Y học, làm viện sĩ tự do vì sự đóng góp của bà vào việc phát minh ra chất Ra-đi và một phương pháp chữa bệnh mới. Không những sáu mươi tư viện sĩ y học đã bầu một phụ nữ, mà lại bầu một người không ứng cử. Thật là một bài học cho Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.

Ngày 7 tháng 2 1922, sau cuộc bỏ phiếu thắng lợi rực rỡ, chủ tịch Viện Hàn lâm Y học nói:

– Chúng tôi chào bà, một nữ bác học lớn, suốt đời tận tụy với công tác khoa học, đầy hy sinh gian khổ, một người yêu nước, luôn luôn làm hơn cả nhiệm vụ của mình, trong thời chiến cũng như trong thời bình. Sự có mặt của bà đem lại cho chúng tôi ảnh hưởng tốt đẹp của tấm gương sáng và vinh dự của một danh tiếng lừng lẫy, làm chúng tôi rất đỗi tự hào. Bà là người phụ nữ đầu tiên ở Pháp được bầu vào viện Hàn lâm mà không phụ nữ nào xứng đáng hơn.

Năm 1923, Viện Qui-ri quyết định kỷ niệm trọng thể hai mươi nhăm năm phát minh ra Ra-đi – Chính phủ Pháp tặng bà Qui-ri một khoản trợ cấp hàng năm là bốn mươi nghìn phơ-răng, sau này khi bà chết sẽ chuyển cho hai con gái hưởng.

Ma-ri trong buổi chiều tà của đời mình, được nhân dân ngưỡng mộ trên khắp năm châu, đến đâu cũng là khách quý của các chủ tịch nước, các đại sứ, các vua chúa.

Một hình ảnh luôn luôn nổi lên giữa kỷ niệm mỗi buổi lễ tân, mỗi buổi đón tiếp ấy là khuôn mặt nhợt nhạt, không sắc thái, hầu như thờ ơ, của mẹ tôi.

Xưa kia mẹ tôi thường nói:

– Trong khoa học ta nên chú ý đến sự việc mà không nên chú ý đến con người.

Cuộc đời đã cho Ma-ri thấy rằng các dân tộc và các chính phủ đều chú ý đến sự việc qua con người. Dù muốn hay không, bà đã chịu để cho các câu chuyện truyền thuyết về đời mình tôn thêm giá trị của khoa học và giúp cho các viện khoa học thêm phong phú. Bà đã trở thành người tuyên truyền cổ vũ cho một sự nghiệp mà lòng mình vẫn hằng tha thiết.

Còn bản thân nhà nữ bác học, không có gì thay đổi: vẫn cái tính sợ sệt trước công chúng, vẫn tính nhút nhát, làm đôi tay lạnh toát, cổ họng rất khô. Cố gắng đến thế nào, Ma-ri Qui-ri vẫn không thể thỏa hiệp với danh vọng và không bao giờ tán thành điều mà bà gọi là những dấu hiệu của sự sùng bái mê tín.