MẶT TRỜI XANH
Equateur, châu Mỹ, đầu năm 1925. Nắng khủng khiếp, không khí ẩm thấp. Río Napo, dòng sông đầy bùn, chảy xuyên qua khu rừng Oriente. Dọc dòng sông, cứ cách quãng dăm bảy trăm mét là nơi những người châu Âu có thể sinh sống, nhưng không quá xa cũng không quá gần mặt nước.
Xa dòng sông, đó là rừng già, rậm rạp, đầy những cạm bẫy, chỉ có vài bộ lạc người da đỏ, hậu duệ của thổ dân Incas. Người ta hiếm khi nhìn thấy họ đến nỗi họ hầu như trở thành huyền thoại.
Còn gần sông là lãnh địa của bọn cá sấu, nhiều con dài đến sáu-bảy mét. Chúng ngủ gà gật trong những hố nước bẩn, nhưng nếu bạn tới gần, chúng lao vào bạn nhanh như chớp.
Giữa bức tường dây leo của rừng già và bờ sông của bọn cá sấu, là nơi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha dựng trại, nửa là giáo đường, nửa là bệnh viện và… nửa là tiệm tạp hoá. “Ba phần chẳng phải là quá nhiều trong xứ sở kỳ dị này” – theo cha Esteban, người chịu trách nhiệm tại đây.
— Cha Esteban! Cha Esteban! Lại đây nhanh lên!
Trong khoảnh đất trống trước giáo đường, cha Horatio vừa la lớn, vừa hoa đôi tay gầy ra hiệu, vừa chạy về phía dòng sông.
Cha Esteban chạy theo Horatio, khi cả hai tới một mô đất cao nhô ra phía ngoài bờ sông, cha Horatio đưa ngón tay chỉ:
— Đằng kia kìa!
Đằng kia, trên những tảng đá phía bờ sông đối diện, có một bóng người, nằm duỗi tay duỗi chân, xanh xao, gầy gò, với màu da tái nhợt. Một người da trắng. Cha Horatio thì thầm:
— Anh ta… anh ta trần như nhộng, cha Esteban!
— Phải, anh ta có vẻ không được khoẻ.
Thật vậy, người đàn ông nằm chúc đầu xuống phía dưới sông, chân cao hơn đầu. Cha Esteban chụm hai tay làm loa:
— Hô! Anh chàng đằng kia, có nghe tôi kêu không?
Bóng người động đậy. Anh ta ngồi dậy. Anh ta đã nghe tiếng kêu, và nhận ra người gọi. Anh ta đứng dậy. Cha Esteban giật mình, la lớn:
— Đứng yên đó! Chúng tôi sẽ đem thuyền qua!
Nhưng anh chàng trần truồng cứ lừng lững tiến ra dòng sông.
— Chúa ơi! Anh ta không hiểu!
Người kia đã xuống nước, bắt đầu bơi. Và ngay lập tức, những con cá sấu hiện ra lúc nhúc trên bờ sông. Chúng trườn những chiếc mũi dài về phía người đang cố chống chỏi với dòng chảy. Chúng lao tới anh ta đúng lúc anh ra tới giữa sông. Cha Horatio đưa cả hai bàn tay lên che mắt để khỏi nhìn thấy cảnh tượng xé thịt dã man. Cha Esteban đặt tay lên vai ông ta, ấn mạnh để ông ta quỳ gối:
— Hãy cầu nguyện! Cố hết sức để cầu nguyện!
Cả cha cũng quỳ gối, hai tay chắp lại, nhưng mắt vẫn theo dõi cảnh tượng trên sông. Và với cặp mắt mở to hết cỡ, cha đã thấy cảnh tượng không thể tin nổi: Những con cá sấu do dự, lướt qua người da trắng, và rồi… bỏ đi. Không một cú đớp, không một giọt máu, bọn cá sấu dường như muốn hộ tống con người trần như nhộng nọ! Anh ta đã cập bờ sông bên này. Tiếng hoan hô vang dậy khu rừng già. Cả hai linh mục run rẩy vì xúc động, đứng như trời trồng. Bây giờ người lạ mặt nằm sấp trong bùn, bò bằng cả tay lẫn chân. Khi anh ta đứng dậy, các nhà truyền giáo mới lấy lại bình tĩnh, chạy lại phía kẻ lạ mặt. Cha Horatio vừa cười vừa khóc:
— Một phép lạ, cha Esteban! Phép lạ nhờ cầu nguyện!
Người lạ tóc vàng, râu tóc xồm xoàm. Quả là anh ta trần trùng trục, chỉ có một chiếc sáo tre lớn và một chiếc ví da – cả hai thứ đều có dây quàng quanh cổ. Anh ta cười, thốt lên bằng tiếng Tây Ban Nha với âm sắc Mỹ đặc sệt:
— Một phép lạ? Ồ, không! Tôi đâu dại dột liều thân!
Và anh ta đang rộng hai tay, ngước mặt lên trời ra vẻ thách thức:
— Ta là kẻ không thể đụng tới! Ta là Baruna, Chúa tể của dòng sông!
Bỗng nụ cười tắt ngấm, mắt trợn ngược, anh ta sụm xuống, nằm sấp bất động.
Chuyện trở về với thế giới văn minh của con người trần truồng này là khởi đầu cho một câu chuyện ly kỳ, mà mãi tới nay vẫn còn ẩn giấu nhiều bí mật…
* * *
Anh ta không chết, chỉ bị kiệt sức, gây ảnh hưởng tới tâm thần đến nỗi không nhớ được gì trong một thời gian dài. Các nhà truyền giáo mang anh vào trong phòng dùng làm “bệnh viện”, và lập tức họ ngửi thấy một mùi hết sức khó chịu. Mùi thoạt đầu họ nghĩ thoang thoảng trong không khí, nhưng khi đã ở giữa bốn bức tường thì mùi chua khó chịu ấy bốc lên nồng nặc. Cha Horatio mở cửa sổ:
— Hôi quá! Phép lạ ấy! Ồ, xin lỗi cha Esteban!
— Cha Horatio, vào lúc khác, cha phải dùng xà-bông rửa lưỡi… nhưng trong trường hợp này cha nói đúng. Chúng ta nên dùng xà-bông tắm rửa anh chàng này!
Trong khi cha Horatio cọ rửa người bệnh, cha Esteban coi kỹ hai thứ anh ta mang trên cổ: Đúng là một cây sáo rất to, còn chiếc ví da, cha vừa đụng tới, kẻ lạ mặt đang bất tỉnh bỗng bật dậy như chiếc lò-xo, nắm chặt tay người vừa đụng tới, không mở mắt nhưng nghiến răng:
— Đừng đụng tới! Tôi sẽ giết…
Rồi anh ta lại rơi vào trạng thái mê man.
Được tắm rửa sạch sẽ, cho ăn bằng muỗng như em bé, người trần như nhộng bên bờ sông bất tỉnh trong đúng mười ngày mười đêm. Cơn sốt nhẹ khiến anh ta đôi lúc mê sảng, toàn thân run rẩy, nhưng anh cắn chặt hàm răng, không thốt lên một tiếng nào. Cuối cùng, anh ta kêu lên ba tiếng:
— Mặt trời… Mặt trời xanh!
Cha Esteban, luôn ở bên chăm sóc anh ta, hơi mỉm cười. Cha biết anh ta sẽ bình phục, sẽ tiết lộ nhiều điều thú vị. Nhưng phải chăng bây giờ là lúc anh ta tiết lộ?
Rất chậm, kéo dài nhiều ngày, kẻ lạ dần dần khôi phục sức lực. Nhưng anh ta vẫn nằm bất động. Hẳn anh đang lắng nghe, phân tích, đoán thử mình đang nằm tại đâu, có nên tin cậy những người đang chăm sóc mình hay không. Cha Esteban ra dấu cho mọi người vẫn cứ sinh hoạt bình thường, cho anh ta ăn nhiều chất bổ dưỡng hơn. Quả thật, rốt cuộc người lạ tóc vàng hiểu ra rằng anh đang ở một nơi rất an toàn và có thể tín nhiệm những người đang chăm sóc mình. Khi quyết định ngồi nhổm dậy trên giường, câu hỏi đầu tiên của anh ta không như thông lệ “Tôi đang ở đâu?” mà là:
— Tôi nằm đây đã bao lâu?
— Mười hai ngày. Con nằm trên giường này đúng mười hai ngày. Ta là linh mục Esteban.
— Cám ơn cha. Cám ơn về tất cả những gì cha đã làm. Cám ơn tận đáy lòng.
Và, làm như đã suy nghĩ kỹ, anh ta gỡ chiếc ví da ra khỏi cổ, chiếc ví mà anh ta từng cấm đụng tới.
— Xin cha xoè tay ra.
Và, một viên ngọc nằm trong lòng bàn tay cha Esteban. Viên ngọc bích, xanh biếc chưa đẽo gọt, mà một khi tạo dáng xong, nặng ít nhất 50 carat. Cha Esteban kêu lên:
— Mặt trời xanh! Chính là Mặt trời xanh mà con từng nhắc đến?
— Quà tặng. Về những gì cha đã giúp con.
— Quá hậu hĩnh… Quá…
— Hãy nhận đi, con xin cha. Đối với con, nó chẳng đáng là bao. Con còn có hàng ngàn viên như thế. Phải, thưa cha, con có vẻ điên điên, nhưng con sẽ kể cha nghe. Như vầy…
Và sau đây là câu chuyện của người trần như nhộng bên dòng sông cá sấu.
* * *
Anh ta tên Stewart Connelly, người Mỹ ở Illinois. Đối với mọi người, anh đã chết và đó cũng là điều anh muốn người ta nghĩ về anh.
Anh tốt nghiệp đại học và gia nhập bộ binh năm 1917. Kết thúc Thế chiến 1, anh đang ở châu Âu. Và với số tiền kiếm được khi xuất ngũ, anh đi du lịch, nhất là thăm các viện bảo tàng, thư viện. Nhưng sau những chuyển biến dữ dội của cuộc chiến, anh mơ mộng bắt đầu lại từ con số không, là một con người khác.
Chính tại Madrid anh tìm thấy lối thoát ra khỏi cuộc sống sáo mòn này: tại thư viện quốc gia, anh vớ được một bản thảo đã bị lãng quên. Đó là bản viết tay của tu sĩ Sanchez, bạn đồng hành của nhà chinh phục châu Mỹ Pizarre.
Tu sĩ viết về Atahualpa, vị hoàng đế cuối cùng của người Incas. Ông ta là kẻ, khi tiếp đón người Tây Ban Nha, đã tặng họ mấy viên ngọc bích với kích thước đáng ngạc nhiên. Nhưng thay vì cảm ơn, Pizarre lại ra lệnh cho thuộc hạ tra tấn nhiều người Incas để tìm cho ra mỏ đá quí này. Người Incas nhận ra rằng họ đã lầm lẫn về lòng tốt của những vị khách lạ, và chẳng ai chịu hé môi.
Stewart Connelly bắt đầu tham khảo tất cả mọi tài liệu liên quan đến những chuyến thám hiểm, bởi vì, hiển nhiên, sau nhiều thế kỷ, anh không phải là người đầu tiên mơ mộng đến “Mặt trời Xanh của người Incas”.
Anh dựa vào hai sự kiện chủ yếu: Trước hết, loại trừ những điểm đã được các nhà thám hiểm khác lục soát, anh khoanh vòng gần đúng vùng đất có kho tàng. Nó nằm trong một phần của khu rừng già nổi tiếng khó thâm nhập, rừng Oriente. Thứ nhì: Tất cả những ai đi trước anh đều đã bị tàn sát bởi người da đỏ – họ vốn có những tiêu chuẩn sống hoàn toàn xa lạ với người da trắng.
Tuy nhiên, người da đỏ phần nào mê tín dị đoan, họ đặc biệt tôn trọng bệnh điên. Đối với họ, người điên được thần thánh ban ơn, nên trở thành thiêng liêng.
Cho nên Stewart Connelly sẽ thực hiện điều khó có thể tin được: Anh sẽ trở thành một người điên.
Với số tiền ít ỏi còn lại, anh xuống thuyền đến Quito, thuộc Equateur. Tại đây, anh đổi những đồng đô-la cuối cùng lấy đường, được coi là tiền tệ địa phương vào thời gian ấy. Từ đó, anh mang cuộc sống tâm thần phân lập, tự chia mình làm hai phần, nửa này biệt lập với nửa kia.
Ban ngày, nhà thông thái trẻ tuổi say sưa đọc địa lý, dịch sách, nghiên cứu những tấm bản đồ trong văn phòng đô sảnh. Tất cả những gì cần ghi chú, vẽ vời thuộc về khu rừng Oriente, anh đều coi tới coi lui, cho tới khi khắc hoạ vào đầu óc đến từng chi tiết nhỏ.
Đêm rời thành phố, anh mặc bộ đồ rách rưới, đến khu những người da đỏ thuộc ngoại ô thành phố, lang thang trong những túp lều làm bằng đá. Tại đây, anh qua nhiều giờ thổi cây sáo theo một nhịp điệu chẳng đâu vào đâu, luôn là những nốt nhạc rời rạc, ngẫu hứng. Dần dần, mọi người trong khu vực da đỏ có thói quen nói chuyện với anh như với một đứa trẻ, và gọi anh bằng biệt danh El Loco, tức thằng điên. Đến lúc ấy anh tin chắc mình đã có vẻ điên thật và bắt đầu chuyến thám hiểm thật sự: anh quyết định rời thế giới văn minh.
* * *
Anh tới bìa khu rừng già, cởi hết quần áo, chỉ giữ lại cây sáo. Và anh trần truồng vừa nhảy nhót vừa thổi sáo, cố ý gây thật nhiều tiếng động, kể cả nói chuyện một mình, la hét, thỉnh thoảng lại lăn lộn trên mặt đất, tiến dần vào rừng.
Phải mất rất nhiều thời gian, nhiều ngày. Nhưng anh biết có nhiều người theo dõi anh. Sau những bụi cây, họ đưa mắt thầm lặng nhìn anh. Anh cứ thế tiếp tục. Và thành công.
Sau ba ngày lặng lẽ quan sát, cuối cùng những người da đỏ ra khỏi chỗ ẩn nấp, đón tiếp anh với vẻ kính trọng, và đưa về làng của họ. Họ mang cho anh đồ ăn thức uống, để anh tự do đi loanh quanh tuỳ thích. Anh trở thành một loại “vật mang phước lành” đến cho bộ lạc.
Nhờ sống chung với những người da đỏ này, anh biết sử dụng một loại cây, có tên barbasco. Bẻ đọt cây barbasco, người ta lấy nhựa bôi khắp thân thể. Mùi nhựa cây, khó chịu với loài người, lại càng khó chịu đối với cá sấu.
Bí mật này của thiên nhiên về sau trở nên hết sức hữu ích đối với Stewart Connelly, bởi anh còn muốn đi sâu hơn nữa vào rừng già. Và như vậy anh phải ra khỏi lãnh thổ của những người bạn để bước vào một bộ lạc khác, man đã hơn nhiều, đáng sợ hơn nhiều.
Khi anh tới gần nhóm da đỏ mới lạ này, cũng trần truồng với cây sáo trên tay và nụ cười điên dại, anh lập tức bị bắt giữ, và được giải đến trước mặt vị phù thuỷ. Ông ta cáo buộc anh tội bịp bợm.
Connelly làm gì bây giờ?
Anh thách phù thuỷ thi đấu phép thuật tay đôi với anh! Thượng đế sẽ phán xét ai là người thắng trong cuộc đấu đặc biệt, và người thắng mới là phù thuỷ đích thực. Nơi thi đấu là dòng sông nhung nhúc cá sấu. Anh hy vọng dân thuộc bộ lạc này chưa biết sử dụng nhựa cây barbasco. Và Connelly an toàn bơi ra khỏi dòng nước trong khi lão phù thuỷ bị cá sấu đớp cụt mất một chân, may mà còn sống sót.
Connelly được tôn sùng là Baruna, tức Chúa tể của dòng sông.
Anh sống gần hai năm yên ổn trong vùng không được thế giới văn minh biết đến này, và rốt cuộc anh đã tìm ra mỏ ngọc bích.
Anh lấy ít viên ngọc bỏ vô ví da và tìm thời gian thích hợp để quay trở lại với cuộc sống đích thực: Những người da đỏ không muốn Chúa tể dòng sông rời bỏ họ. Không được Baruna che chở, cả làng sẽ gặp tai hoạ…
Vậy là anh phải chạy trốn. Những người da đỏ rượt đuổi khiến anh kiệt lực khi đến bên bờ sông, may mà gặp những nhà truyền giáo…
* * *
Dù tin hay không câu chuyện của Stewart Connelly, cha Esteban vẫn tiếp tục chăm sóc anh cho đến khi anh hoàn toàn khoẻ mạnh. Có da có thịt, được cạo râu, mặc quần áo lịch sự, Connelly không còn vẻ điên điên chút nào. Anh tạm biệt các nhà truyền giáo, nhảy lên tàu thuỷ quay về Quito.
* * *
Connelly bán những viên ngọc bích để mua quyền chuyển nhượng hầm mỏ. Nhưng anh không chịu nói cụ thể sẽ khai thác hầm mỏ nào, mà chỉ yêu cầu được quyền thăm dò trên một diện tích rất rộng. Do đặt cọc rất nhiều tiền, anh được toại nguyện.
Và anh lập đoàn thám hiểm. Anh tuyển mộ những con người can đảm có thừa, khao khát muốn làm giàu. Họ kéo đến khu rừng già mang theo những tấm bản đồ, cuốc xẻng, nhưng nhiều nhất là súng.
Và không một ai trong số họ, kể cả Connelly, trở về. Đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa tìm ra mỏ ngọc bích, “Mặt trời xanh” của người Incas. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện những viên ngọc bích lớn, dường như hoang đường, này!
Cha Esteban tìm ra lời giải thích. Sau “lần chết thứ hai”, chính thức, của Connelly, cha đã đưa các nhà báo coi viên ngọc bích đã được đẽo gọt tuyệt hảo: Giữa viên ngọc toả ánh sáng lấp lánh giống như mặt trời. Cha nhận xét:
— Khi Connelly ra đi lần đầu, anh ta nghĩ mình làm bộ điên. Nhưng thực ra anh ta điên thật! Chỉ một người điên thật mới dám làm chuyện như vậy. Cho nên rừng già và cư dân trong đó tôn trọng anh ta… Nhưng lần sau, khi anh ta quay trở lại, lòng tham đã dẫn dắt anh, nên anh ta không thể thành công. Rừng già không bao giờ nhầm lẫn!
(Theo “L’homme nu de la rivière” của Bellemare)