Chương 1
Hôm nay là ngày hàng ngàn giấc mơ sẽ chết, và chỉ duy nhất một giấc mơ sẽ được sinh ra.
Gió biết tỏng điều này. Đó là một ngày đầu tháng Sáu, những cơn gió lạnh quật vào tòa thành nơi đỉnh đồi một cách dữ dội, tựa cái rét căm căm của mùa đông, làm những ô cửa sổ phải rung lên theo từng lời nguyền rủa, rồi chúng lướt qua dãy hành lang tồi tàn, thì thầm vào tai người ta những lời cảnh báo. Sẽ chẳng có lối thoát nào cho điều sắp xảy đến.
Dẫu điều đó có tốt hay xấu, nó vẫn đang tới gần. Tôi nhắm mắt lại để xua tan dòng suy tưởng đó, dù vẫn biết rằng chẳng mấy chốc, ngày sẽ chia hai nửa, vĩnh viễn tách biệt cuộc đời tôi thành hai mảnh trước - sau. Mọi chuyện sẽ diễn ra mau lẹ, và để thay đổi nó còn khó hơn cả thay màu mắt của mình.
Tôi rời bước khỏi khung cửa sổ đã trắng xóa hơi thở của mình, bỏ lại sau lưng những ngọn đồi Morrighan bất tận cùng những lo âu của riêng chúng. Đã tới lúc tôi phải đối mặt với thời khắc của mình.
Những nghi thức tế lễ được thông qua theo đúng quy định, và được sắp đặt một cách cẩn trọng, tất cả là minh chứng rõ ràng cho sự vĩ đại của Morrighan và của Những người còn lại đã sinh ra nó. Tôi không phản kháng. Đến lúc này, tôi đã tê cóng cả người, nhưng khi trời dần chuyển ban trưa, trái tim tôi lại một lần nữa loạn nhịp khi đôi bàn chân mình rút dần khoảng cách giữa đó và đây.
Tôi nằm đó, trần trụi, úp người trên một chiếc bàn đá cứng ngắc, mắt dính chặt xuống nền nhà phía dưới trong khi những con người lạ mặt kia đưa từng lưỡi dao cùn cạo tấm lưng mình. Tôi vẫn nằm im re, dù bản thân biết những bàn tay ấy hẳn đã phải cẩn trọng ra sao. Những người cầm dao thấu rằng mạng sống của họ phụ thuộc hết vào đó. Việc nằm yên không chút động đậy còn giúp tôi giấu đi nỗi xấu hổ trước sự trần trụi này, khi những đôi bàn tay lạ lẫm chạm vào cơ thể mình.
Pauline ngồi bên cạnh dõi theo, đôi mắt như ánh lên chút lo lắng. Tôi chẳng thể nhìn thấy cô ấy hay bất cứ thứ gì ngoài cái sàn lát đá phía dưới, mái tóc đen dài xõa xuống mặt, tạo thành một đường hầm đen kịt xoáy tít, ngăn cách tôi với thế giới ngoài kia, chỉ còn lại những thanh âm soàn soạt nhịp nhàng của từng lưỡi dao.
Con dao cuối cùng rê xuống dưới, cạo trúng hõm lưng ngay sát mông tôi. Dù đã cố không rụt người lại theo bản năng, tôi vẫn không khỏi rùng mình. Cả căn phòng ngập trong thảng thốt.
“Nằm yên đi!” Dì Cloris quở trách.
Tôi cảm nhận được bàn tay mẹ dịu dàng âu yếm mái tóc mình. “Chỉ vài đường dao nữa thôi, Arabella. Chỉ thế thôi.”
Dù cho mẹ đang cố an ủi, tôi vẫn giận khi bà kiên quyết gọi tôi bằng cái tên hình thức được truyền qua rất nhiều thế hệ trước đó. Tôi đã ước rằng vào ngày cuối cùng tôi ở Morrighan, mẹ sẽ dẹp lễ nghi qua một bên mà gọi tôi như cách tôi hằng mong muốn, bằng cái biệt danh mà các anh của tôi vẫn dùng, rút gọn còn ba chữ cái từ một trong bao cái tên khác của tôi. Lia. Một cái tên đơn giản nhưng phản ánh đúng con người tôi.
Tiếng dao cạo ngừng lại. “Đã xong,” Nghệ nhân Đệ nhất thông báo. Những nghệ nhân khác cũng lẩm bẩm đồng thuận theo.
Tôi nghe thấy tiếng đặt khay leng keng trên chiếc bàn gần đó, hương dầu hoa hồng nồng nặc tỏa ra. Những bàn chân lê bước tạo thành một vòng tròn gồm các dì của tôi, mẹ tôi, Pauline, cùng những người khác được gọi đến để chứng kiến nghi lễ này. Họ lẩm nhẩm cất lên những lời cầu nguyện. Tôi dõi theo chiếc áo choàng đen của thầy tu lướt qua trước mặt, giọng ông át hết cả những tiếng lầm bầm trong lúc rót dầu nóng lên lưng tôi. Nghệ nhân bắt đầu xoa bóp cho dầu thấm sâu, những ngón tay tài hoa khép lại hằng hà sa số những truyền thống của Nhà Morrighan, hằn sâu hơn nữa những lời hứa khắc trên lưng tôi, báo trước những cam kết của ngày hôm nay và cả những ngày sau đó.
Họ có thể hy vọng, tôi cay đắng nghĩ trong lúc đầu óc còn đang rối bời, cố gắng sắp xếp một cách có trình tự những nhiệm vụ được viết sẵn trong tim chứ không phải trên một mẩu giấy nào. Những lời nguyện cầu của thầy tu dần lặng phắc, chìm xuống cùng bài ca đều đều nói lên tất cả những ước vọng của họ và không một ước vọng nào của tôi.
Tôi mới chỉ mười bảy tuổi. Sao tôi không được tự quyết định tương lai của chính mình?
“Và dành cho Arabella Celestine Idris Jezelia, Con gái trưởng của Nhà Morrighan, những quả ngọt của sự hy sinh và những lời chúc phúc của...”
Giọng ông vẫn vang lên đều đều những lời chúc phúc và ban phước tầm phào máy móc, âm vực tăng dần, oang oang khắp phòng; và rồi, khi tôi tưởng như không thể chịu đựng thêm được nữa, từng câu từng chữ ông thốt ra như khiến tôi chết nghẹt, thầy tu dừng lại, và trong một khoảnh khắc nhân từ ngọt ngào, sự yên lặng cũng tìm đến bên tai tôi. Tôi thở lại, và lời kinh tạ ơn cuối cùng cũng vang lên.
“Vì những vương quốc được gây dựng từ tro bụi của cha ông và bồi đắp trên xương máu của những kẻ đã khuất, chúng con xin được trở lại theo ý nguyện từ Cõi trời.” Một tay ông nâng cằm tôi, tay còn lại bôi tro lên trán của tôi.
“Vậy người Con gái trưởng này của Nhà Morrighan xin được tiếp bước,” mẹ tôi đọc lời kết theo đúng truyền thống, và lau đi lớp tro bằng một miếng vải thấm dầu.
Tôi nhắm mắt lại và cúi đầu xuống thấp. Con gái trưởng. Vừa là phước lành, vừa là lời nguyền. Và thành thực thì chỉ là một kẻ giả bộ.
Mẹ lại đặt tay lên vai tôi, bàn tay bà buông lơi. Da tôi nhói lên dưới cái chạm. Lời an ủi có chút muộn màng. Vị thầy tu cất lên lời nguyện cầu cuối cùng bằng thứ tiếng mẹ đẻ của tôi, kỳ quặc làm sao, một lời cầu bảo hộ hoàn toàn không có trong truyền thống, và rồi mẹ tôi rụt tay về.
Người ta đổ thêm dầu, và những lời nguyện cầu trầm lắng ám ảnh cứ thế ê a, vang vọng khắp căn phòng đá lạnh, hòa cùng hương hoa hồng nồng nặc tỏa ra trong không khí và len lỏi vào tận phổi tôi. Tôi hít một hơi thật sâu. Dù muốn hay không, nhưng tôi vẫn khá ưa phần này. Dầu nóng cùng những đôi bàn tay ấm áp nhào nặn sự vâng lời thành những bức bối đã nhen nhúm trong tôi nhiều tuần qua.
Hơi ấm như nhung làm dịu đi cái cảm giác buốt nhói của axit trong hỗn hợp chanh trộn với thuốc nhuộm, và hương hoa thoáng chốc cuốn tôi đến một mảnh vườn hạ khuất nẻo, nơi không ai có thể tìm thấy tôi. Giá như mọi chuyện đơn giản như vậy.
Một lần nữa, người ta lại tuyên bố hoàn thành nghi thức. Nghệ nhân lùi ra xa khỏi kiệt tác của họ. Khi đã thấy được thành quả trên lưng tôi, ai nấy đều trút một tiếng thở rõ to.
Tôi nghe thấy ai đó rê bước lại gần. “Tôi dám chắc rằng cậu ta sẽ chẳng nhìn lưng con bé lâu đâu khi có thể tùy ý sử dụng những chỗ còn lại.” Cả phòng khúc khích cười. Dì Bernette chẳng bao giờ kiệm lời, ngay cả khi có một vị thầy tu trong phòng cùng với một nghi thức đang diễn ra. Cha tôi cho rằng tôi học tính ăn nói bốc đồng từ dì ấy, tuy nhiên hôm nay tôi đã được cảnh báo là phải biết tự kiểm soát.
Pauline cầm tay đỡ tôi ngồi dậy. “Thưa công chúa,” vừa nói cô ấy vừa đưa cho tôi một mảnh vải mềm để quấn quanh thân, cố gắng bao bọc chút phẩm giá ít ỏi còn sót lại. Chúng tôi liếc nhìn nhau đầy thấu hiểu, như để tiếp thêm cho tôi sức mạnh. Sau đó, cô ấy dẫn tôi ra phía tấm gương lớn, rồi đưa tôi một chiếc gương nhỏ hơn để tự mình ngắm nghía thành quả. Tôi vén mái tóc dài sang một bên và thả nhẹ tấm vải xuống, vừa đủ để thấy phần lưng dưới.
Cả căn phòng lặng thinh ngóng chờ. Tôi nín thở. Dù cho tôi không muốn mẹ được thỏa mãn, nhưng không thể phủ nhận, cái hình kavah đám cưới đó thật tuyệt đẹp. Đến tôi cũng phải ngỡ ngàng. Cái quốc huy xấu xí của Vương quốc Dalbreck đẹp đến sững sờ, một con sư tử đang gầm gừ được thuần hóa trên lưng tôi, những nét vẽ phức tạp ôm lấy móng vuốt nó một cách duyên dáng, những sợi dây nho của Morrighan đan vào nhau với vẻ sang trọng uyển chuyển lan xuống theo hình chữ V cho đến khi những tua xoắn mỏng manh cuối cùng bám chặt và xoáy sâu vào hõm lưng. Con sư tử được tôn vinh nhưng vẫn ngoan ngoãn quy phục.
Cổ họng tôi như nghẹn lại, khóe mắt hơi cay cay. Đó là một chiếc kavah mà đáng ra tôi rất yêu thích... thậm chí là tự hào về nó. Tôi nuốt khan, mường tượng tới cảnh tên hoàng tử kia sẽ há hốc miệng kinh ngạc ra sao khi lời thề nguyện đã vang lên và chiếc áo choàng cưới được hạ xuống. Một tên khốn dâm đãng. Nhưng tôi cũng phải tán dương công sức của những nghệ nhân này.
“Thật hoàn mỹ. Cảm ơn mọi người, tôi tin rằng Vương quốc Dalbreck từ hôm nay trở đi sẽ phải đề cao những nghệ nhân xứ Morrighan.” Mẹ mỉm cười tán dương nỗ lực của tôi, bởi bà hiểu chẳng dễ gì có thể khiến tôi thốt ra vài lời này.
Và sau đó, mọi người nhanh chóng rời đi, công tác chuẩn bị còn lại chỉ có cha mẹ tôi, cùng Pauline giúp đỡ. Mẹ tôi lôi chiếc váy lót bằng lụa trắng từ trong tủ quần áo ra, một tấm vải mỏng manh và thướt tha như thể nó tan chảy ngay trên tay bà. Đối với tôi, cái thủ tục ấy thật vô ích, vì nó chẳng che được là bao, lộ liễu và hữu dụng y như hằng hà sa số những lớp truyền thống kia. Chiếc đầm cô dâu được mang ra tiếp theo, mặt sau cũng được khoét chữ V giống như vậy để tạo khung cho hình kavah tôn vinh vương quốc của hoàng tử và thể hiện lòng trung thành của cô dâu.
Mẹ tôi thắt những dải đăng-ten ẩn dưới lớp váy thật chặt, kéo nó vừa khít để vạt áo có vẻ dễ dàng ôm vào eo tôi, ngay cả khi không có vải phía sau lưng. Đó là một kỹ thuật kỳ công như cây cầu vĩ đại Golgata, có lẽ còn hơn thế nữa, và tôi tự hỏi liệu những người thợ may có gieo chút ma thuật vào từng miếng vải, từng sợi chỉ hay không. Tôi thà nghĩ về những chi tiết này còn hơn là về một giờ ngắn ngủi sắp tới. Mẹ trịnh trọng xoay người tôi lại, tiến về phía chiếc gương.
Mặc cho nỗi oán giận trong lòng, tôi như bị mê hoặc. Đó thực sự là chiếc đầm cưới đẹp nhất mà tôi từng thấy. Thanh lịch đến kinh ngạc, loại ren Quiassé dày của những thợ làm ren địa phương là vật trang trí duy nhất quanh đường viền cổ áo. Thật giản đơn. Đường ren chảy theo hình chữ V xuống vạt áo để tôn lên đường cắt phía sau của chiếc dầm. Tôi như hóa thành một người khác, trưởng thành và thông thái hơn. Một người có trái tim thuần khiết không chút bí mật. Một người... không hề giống tôi.
Tôi rời đi không nói gì và đưa mắt nhìn chăm chăm hướng ra ngoài cửa sổ, tiếng thở dài khe khẽ của mẹ theo sát gót chân. Ở phía xa kia là ngọn tháp đỏ đơn độc của Golgata, cái tàn tích vụn nát duy nhất còn sót lại của cây cầu đồ sộ một thời bắc qua vùng vịnh rộng lớn. Chẳng bao lâu nữa nó cũng sẽ biến mất, bị nuốt chửng như phần còn lại của cây cầu vĩ đại. Ngay cả phép thuật xây dựng bí ẩn của Người xưa cũng không thể thách thức thứ quy luật tất yếu. Tại sao tôi lại phải thử chứ?
Bụng tôi cồn cào, và tôi hướng ánh nhìn chăm chăm của mình gần hơn về phía chân đồi, nơi những chiếc xe ngựa nằm ngổn ngang trên con đường dưới tòa thành, hướng về phía quảng trường. Có lẽ chúng chất đầy trái cây, hoặc là hoa, hoặc là vài thùng rượu ủ từ những vườn nho Morrighan. Cùng với đó là những cổ xe tinh xảo được lũ chiến mã đeo ruy băng cùng màu kéo đi rải rác trên đường.
Có lẽ trong một cỗ xe ngựa nào đó ngoài kia, anh cả của tôi, Walther, và vợ mới cưới, Greta, đang ngồi đan tay vào nhau trên đường tới dự đám cưới, ánh mắt chẳng thể tách rời. Và cũng có lẽ, những người anh khác của tôi đã có mặt tại quảng trường, nở nụ cười tỏa nắng hớp hồn những cô gái trẻ mà họ thấy quyến rũ. Tôi nhớ vài ngày trước có bắt gặp Regan mắt mơ màng thì thầm to nhỏ với con gái của tay xà ích trong một dãy hành lang tối, còn Bryn thì cứ mỗi tuần lại tình tứ với một cô nàng mới, trái tim không thể dành riêng cho một ai. Ba người anh trai mà tôi yêu quý, tất cả đều có thể tự do yêu đương và kết hôn với bất kỳ ai mà họ chọn. Những cô gái kia cũng được tự do lựa chọn. Ai cũng được tự do, kể cả Pauline, cô có hẳn một gã giỏi nịnh đầm sẽ trở về vào cuối tháng.
“Sao mẹ có thể chịu được việc đó?” Tôi hỏi, mắt vẫn dán chặt vào những cỗ xe ngựa đang chạy qua bên dưới. “Làm thế nào mà mẹ có thể đi suốt quãng đường từ Gastineux tới đây để kết hôn với một người tệ bạc mà mẹ không yêu?”
“Cha của con không phải là kẻ tệ bạc,” bà nói một cách nghiêm khắc.
Tôi quay lại, đối mặt với bà. “Dù ông ấy có là vua đi chăng nữa, thì vẫn là một kẻ tệ bạc. Mẹ định dối con rằng khi cưới một gã lạ mặt gấp đôi tuổi mình, mẹ không nghĩ ông ấy là một kẻ tệ bạc ư?”
Đôi mắt màu bạc của mẹ nhìn tôi trân trối. “Không, mẹ không hề nghĩ vậy. Đó là định mệnh, và cũng là bổn phận của mẹ.”
Một tiếng thở dài mệt mỏi vỡ ra từ lồng ngực tôi. “Vì mẹ là Con gái trưởng.”
Mẹ tôi luôn lảng tránh chủ đề về Con gái trưởng một cách khéo léo. Hôm nay, chỉ có hai chúng tôi ở đây và không có một sự phân tâm nào khác, bà không thể quay đi. Tôi nhìn bà hóa đá, cằm ngẩng lên đúng phương cách quý tộc. “Đó là một niềm vinh dự, Arabella.”
“Nhưng con không có khả năng thiên phú của một người Con gái trưởng. Con không phải là Siarrah. Dalbreck rồi cũng sẽ sớm phát hiện ra con không giống những gì họ mong đợi. Đám cưới này là một trò lừa đảo.”
“Rồi khả năng của con sẽ tới,” bà trả lời yếu ớt.
Tôi không cãi lại mẹ. Ai cũng biết hầu hết những cô Con gái trưởng đều được trời phú cho một khả năng đặc biệt khi bước sang tuổi trưởng thành, và tôi đã là phụ nữ được bốn năm rồi. Không một khả năng nào hết. Mẹ tôi chỉ đang bám vào những hy vọng hão huyền mà thôi. Tôi quay đi, lại nhìn ra cửa sổ.
“Ngay cả khi nó không đến,” mẹ tôi tiếp tục, “đám cưới không phải là một trò lừa đảo. Liên minh này không chỉ là một thứ tài sản. Vinh dự và đặc ân của người Con gái trưởng mang trong mình dòng máu hoàng gia bản thân nó chính là một món quà. Chảy trong đó là lịch sử và truyền thống. Và đó mới là điều quan trọng.”
“Vậy tại sao phải là Con gái trưởng? Mẹ có chắc là khả năng thiên phú ấy không được truyền lại cho con trai? Hay con gái thứ?”
“Điều đó đã từng xảy ra, nhưng... không ai mong đợi. Và nó cũng đi lệch khỏi truyền thống.”
Vậy việc mất đi khả năng thiên phú của mình cũng là một truyền thống sao? Những lời chưa thốt ra ấy như một lưỡi dao sắc lẹm giữa hai chúng tôi, nhưng dù là vậy tôi cũng không thể làm mẹ tổn thương. Cha tôi không hề tham vấn bà bất kỳ chuyện quốc gia đại sự nào kể từ khi hai người mới cưới nhau. Nhưng tôi cũng từng nghe kể về một thời trước đây, khi khả năng thiên phú của mẹ còn mạnh mẽ và những gì mẹ nói có trọng lượng. Tôi không chắc là chuyện này có thật hay không. Tôi không còn chắc gì nữa.
Tôi không thể kiên nhẫn với những điều vô nghĩa như vậy. Tôi muốn mọi lời nói và lập luận của mình phải đơn giản và dễ hiểu. Và tôi đã quá mệt mỏi khi nghe về truyền thống đến nỗi tôi chắc chắn rằng nếu từ đó được thốt lên thêm một lần nữa, đầu tôi sẽ nổ tung. Cái thời của mẹ không giống thời của tôi.
Tôi nghe tiếng mẹ bước đến gần và cảm thấy cánh tay ấm áp của bà vòng qua mình. Tôi như vỡ òa trong xúc động. “Con gái bé bỏng của mẹ,” bà thì thầm vào tai tôi, “đừng quan trọng chuyện khả năng của con có đến hay không. Đừng lo lắng chuyện đó nữa. Hôm nay là ngày cưới của con mà.”
Cùng với một tên khốn. Tôi thoáng nhìn thấy vua xứ Dalbreck khi ông ta đến thương thảo - như thể tôi là một con ngựa được bán cho con trai ông ta. Ông vua ấy hom hem và còng queo như cái ngón chân xương xẩu của một bà già - đáng tuổi cha của cha tôi. Lưng gù và chậm chạp, ông ta cần người hỗ trợ để bước lên bậc thang dẫn vào Đại sảnh đường. Ngay cả khi tên hoàng tử kia chỉ bằng một phần tuổi của ông ta, hắn vẫn sẽ là một tên công tử bột tong teo, móm mém. Chỉ cần nghĩ đến việc hắn ta chạm vào tôi là đã đủ...
Tôi rùng mình trước cái viễn cảnh về đôi bàn tay già nua xương xẩu vuốt ve bầu má mình hay đôi môi chua chát nhăn nheo ấy đặt lên môi mình. Tôi vẫn chăm chú nhìn ra ngoài khung cửa sổ, nhưng không thấy gì ngoài tấm kính. “Tại sao con không được tìm hiểu về anh ta trước?”
Mẹ rụt tay lại. “Tìm hiểu một hoàng tử? Mối quan hệ của chúng ta với Dalbreck lúc này vốn đã rất lung lay rồi. Con muốn xúc phạm vương quốc của họ bằng một yêu cầu như vậy khi Morrighan đang hy vọng tạo ra một liên minh quan trọng ư?”
“Con không phải binh lính trong quân đội của cha.”
Mẹ tôi bước đến gần hơn, khẽ chạm lên gò má tôi và nói nhỏ, “Đúng vậy, con yêu, con chính là một người lính của cha.”
Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi.
Mẹ siết chặt tôi lần cuối và lùi bước về sau. “Tới lúc rồi. Mẹ sẽ đem áo choàng lại,” nói đoạn, bà quay lưng bước đi.
Tôi tiến về phía bên kia căn phòng, tới tủ quần áo và mở tung nó ra, lôi từ trong ngăn kéo cuối cùng ra một bọc bằng nhung màu xanh lá, bên trong có một chiếc dao găm mỏng được khảm đá quý. Đó là món quà sinh nhật năm mười sáu tuổi mà ba người anh trai đã tặng tôi, dù cho tôi không được phép sử dụng nó - ít nhất là không được dùng công khai - nhưng đằng sau cánh cửa phòng thay đồ của tôi lại chi chít những vết đâm là thành quả sau những lần bí mật tập luyện. Tôi vơ vội thêm chút đồ nữa, cuốn vào một chiếc áo và dùng ruy băng để gói ghém lại cho cẩn thận.
Pauline trở về với một bộ váy mới trên người, tôi đưa cho cô ấy cái bọc đồ nhỏ đó.
“Để tôi lo,” cô ấy nói, hơi lo lắng trước khâu chuẩn bị sát nút này. Cô ấy rời đi đúng lúc mẹ tôi mang áo choàng bước vào.
“Lo việc gì cơ?” Mẹ hỏi.
“Con đưa cho cô ý vài đồ dùng cá nhân con muốn mang theo thôi.”
“Mấy thùng đồ của con đã được chuyển đi hôm qua rồi mà,” mẹ nói, chân rảo bước về phía giường tôi.
“Còn vài món đồ bọn con quên mất.”
Mẹ lắc đầu, nhắc tôi về việc trên khoang ngồi sẽ chẳng còn nhiều chỗ, mà đường tới Dalbreck sẽ dài vô tận.
“Không sao đâu mẹ,” tôi trả lời.
Mẹ cẩn thận trải tấm áo choàng lên giường. Nó đã được là hơi và treo trong hầm để những nếp gấp, nếp nhăn không làm lu mờ đi vẻ đẹp ấy. Tôi lướt tay dọc sợi nhung ngắn. Đó là một thứ màu xanh huyền hoặc như màn đêm, bên diềm đính những viên hồng ngọc, pha lê tourmalin, cùng những viên ngọc bích như ngàn sao tô điểm trên bầu trời. Những viên ngọc này sẽ có ích đây. Theo truyền thống, cả hai đấng sinh thành sẽ cùng khoác áo choàng cưới lên vai cô dâu, nhưng mẹ tôi lại chỉ quay lại một mình.
“Cha ở...” tôi định hỏi, nhưng rồi tiếng bước chân dồn dập vang vọng khắp hành lang. Tim tôi như chùng xuống hơn nữa. Cha chẳng thể nào dành ra vài phút riêng tư cho cô con gái, kể cả trong dịp này. Bên cạnh ông là Phó nhiếp chính, Đại pháp quan và Học giả Hoàng gia, cùng với hàng tá những tay sai trong nội các của ông đang gõ giày diễu hành. Tôi biết ngài Phó nhiếp chính chỉ đang làm nhiệm vụ của mình - ông ấy kéo tôi lại ngay sau khi đống tài liệu được ký và nói với tôi rằng một mình ông ấy đã phản đối cuộc hôn nhân - nhưng rốt cuộc thì ông ấy cũng chỉ là một người đàn ông cứng nhắc chuyện trách nhiệm như những người còn lại. Tôi đặc biệt không thích Học giả và Đại pháp quan, và họ cũng biết rõ điều đó, nhưng tôi không thấy tội lỗi chút nào, vì tôi dám chắc là họ cũng chẳng ưa gì tôi. Tôi sởn gai ốc bất cứ khi nào đến gần họ, như thể tôi vừa đi qua một cánh đồng đầy những con đỉa hút máu. Họ, hơn bất cứ ai, có lẽ vui mừng khi loại bỏ được tôi.
Cha tôi tiến lại gần, hôn lên hai má tôi rồi lùi lại ngắm nhìn, cuối cùng ông thốt lên đầy tâm đắc, “Đẹp như mẹ của con trong ngày cưới của chúng ta vậy.”
Tôi tự hỏi liệu sự thể hiện cảm xúc bất thường này có phải là để người ngoài nhìn vào không. Tôi hiếm khi thấy mẹ và cha thể hiện tình cảm với nhau, dù chỉ là một khoảnh khắc, ấy vậy mà trong một giây ngắn ngủi, tôi đã bắt gặp ánh mắt ông chuyển từ tôi sang mẹ và nán lại ở đó. Mẹ tôi nhìn lại, và tôi tự hỏi điều gì vừa xảy tới. Tình yêu chăng? Hay là sự nuối tiếc về một tình yêu đã vụt mất và những điều bất khả đĩ? Nỗi băn khoăn ấy trào dâng trong tôi, cùng với hàng trăm câu hỏi trực chờ nơi đầu môi, nhưng nhận thấy ánh mắt của Đại pháp quan cùng Học giả và đoàn tùy tùng mất kiên nhẫn kia, tôi chần chừ không dám hỏi. Có lẽ đó là chủ đích của cha.
Người canh giờ, một người đàn ông béo lùn với đôi mắt lồi, rút chiếc đồng hồ bỏ túi luôn túc trực trong người mình ra. Ông cùng những người khác giục giã cha tôi như thể họ mới là những người cai trị vương quốc này. “Chúng ta sắp hết giờ rồi, thưa Đức vua,” ông ta nhắc nhở cha tôi.
Ngài Phó nhiếp chính nhìn tôi đầy thông cảm, nhưng cũng gật đầu tán thành. “Xin đừng làm Hoàng tộc Dalbreck phải chờ đợi trong dịp trọng đại này. Người cũng biết chuyện này sẽ bị đánh giá mà.”
Cái thứ bùa mê và ánh nhìn ấy hóa vỡ vụn. Cha và mẹ cùng nhấc chiếc áo choàng và đặt lên vai tôi, cố định móc cài quanh cổ, sau đó cha phủ lên đầu tôi vạt mũ và hôn lên hai má tôi lần nữa, một cách miễn cưỡng hơn, theo đúng thủ tục. “Con đang làm tròn bổn phận đối với Vương quốc Morrighan này, Arabella.”
Lia.
Cha ghét cái tên Jezelia vì nó chưa từng xuất hiện trong hoàng tộc, mà cũng chẳng có ai đặt tên như vậy cả. Tuy nhiên, mẹ cứ khăng khăng đòi đặt cái tên đó mà không hề giải thích nguyên do. Bà chưa một lần lung lay ý kiến trong chuyện này. Có lẽ đó là lần cuối cùng cha chịu nghe lời mẹ. Nếu không có dì Bernette thì tôi cũng chẳng thể biết điều này, và dù mẹ có cố gắng che đậy ra sao, thì đây vẫn là một vấn đề nhạy cảm giữa hai người.
Tôi thăm dò vẻ mặt ông. Nét dịu dàng thoáng qua trong một khoảnh khắc ấy đã biến mất, ông giờ chỉ nghĩ vê chuyện thế sự, nhưng tôi vẫn cố nán lại trong ánh mắt ấy, mong chờ thêm một điều gì đó. Nhưng chẳng có gì. Tôi nâng cằm lên, đứng thẳng. “Vâng, con sẽ phục vụ vương quốc này, nghĩa vụ của con là vậy, thưa vua cha. Vì dù gì đi chăng nữa, con cũng là một người lính trong quân đội của Người.”
Ông chau mày nhìn mẹ đầy thắc mắc. Bà khẽ lắc đầu, lặng lẽ cho qua chuyện này. Cha tôi, người luôn đề cao nghĩa vụ làm vua hơn là làm cha, thỏa mãn với việc phớt lờ mọi ý kiến của tôi, bởi những vấn đề khác luôn cần được ưu tiên hơn. Ông quay lưng và bước đi cùng đoàn tùy tùng, nhắn nhủ rằng ông sẽ gặp tôi ở tu viện, nghĩa vụ của ông đã hoàn thành. Nghĩa vụ. Tôi căm ghét từ đó như từ truyền thống.
“Con sẵn sàng chưa?” Mẹ tôi hỏi khi mọi người đã khuất dạng.
Tôi gật đầu. “Nhưng con có chút việc riêng phải giải quyết trước khi rời đi. Con sẽ gặp mẹ ở dưới sảnh.”
“Mẹ có thể...”
“Con xin đó, mẹ...” Giọng tôi lần đầu lạc đi như vậy, “Con chỉ cần vài phút thôi.”
Mẹ tôi mủi lòng, và tôi lắng tai nghe tiếng bước chân lẻ loi của bà khuất dần trên hành lang.
“Pauline?” Tôi vừa quẹt má vừa thì thầm.
Pauline từ buồng thay đồ bước vào. Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm, không cần nói lời nào cũng có thể hiểu rõ những gì sắp xảy đến, từng chi tiết trong ngày, chúng tôi đã dự tính suốt một đêm dài không ngủ.
“Vẫn còn thời gian để thay đổi quyết định đó. Người chắc chắn rồi chứ?” Pauline hỏi, cho tôi một cơ hội cuối cùng để rút lui.
Chắc chắn sao? Lồng ngực tôi như bị bóp nghẹt bởi nỗi đau, một nỗi đau rất nhói và thực đến mức tôi tự hỏi liệu trái tim có thực sự vỡ ra được hay không. Hay là chính nỗi sợ đã đâm xuyên qua tôi? Tôi ấn mạnh tay vào ngực, cố gắng xoa dịu vết đâm mà tôi cảm nhận được ở đó. Có lẽ đây chính là điểm tan vỡ. “Không có đường lui đâu. Tôi buộc phải lựa chọn thôi,” tôi trả lời. “Kể từ giờ phút này, đây là số phận sẽ theo tôi cả đời, dù tốt hay xấu.”
“Tôi cầu mong rằng nó sẽ tốt,” Pauline nói, gật đầu tỏ ý thấu chuyện. Và cứ thế, chúng tôi lướt nhanh xuống dãy hành lang mái vòm không người, hướng về phía sau tòa thành rồi bước xuống bậc thang tối tăm dành cho người hầu. Chúng tôi không gặp ai ngang qua - mọi người đều bận rộn chuẩn bị dưới tu viện hoặc chờ đoàn rước hoàng gia đến quảng trường phía trước thành.
Chúng tôi chui qua một cánh cửa nhỏ bằng gỗ với bản lề đen dày dưới cái nắng chói chang, gió quất vào những bộ váy và hất ngược mũ trùm đầu. Tôi tìm đường ra cổng sau pháo đài, nơi chỉ được sử dụng cho các cuộc đi săn và khởi hành kín đáo, hiện đã được mở theo lệnh. Pauline dẫn tôi băng qua bãi đất lầy bùn dẫn tới bức tường khuất râm mát chỗ chuồng ngựa, nơi anh chàng trông coi đang đứng đợi với hai con ngựa đã thắng yên. Mắt anh ta mở to sửng sốt khi tôi đến gần. “Thưa công chúa, Người phải lên cỗ xe ngựa đã được chuẩn bị sẵn cho Người chứ,” anh ta nói, từng chữ nghẹn lại rớt ra ngoài. “Nó đang đợi Người cạnh bậc thang phía trước tòa thành. Nếu người...”
“Kế hoạch đã thay đổi,” tôi nói chắc nịch, rồi gom áo choàng của mình lại thành những túm lớn để có thể vững chân trên bàn đạp ngựa. Cậu chàng há hốc mồm khi thấy chiếc áo choàng tinh khôi một thời của tôi, nay viền áo đã dính đầy bùn, làm vấy bẩn cả tay áo và vạt ren, và tệ hơn nữa, đó là chiếc áo choàng cưới nạm ngọc của Morrighan. “Nhưng...”
“Nhanh lên! Phụ một tay đi nào!” Tôi gắt lên, giật lấy dây cương từ anh ta.
Anh chàng tuân lệnh, quay qua phụ giúp Pauline.
“Tôi sẽ phải nói gì với...”
Tôi không nghe thấy anh ta nói gì nữa, tiếng vó ngựa phi nước đại đã át hết mọi tranh cãi từ quá khứ cho tới hiện tại. Với Pauline bên cạnh, hành động bộp chộp này không bao giờ có thể quay đầu, hành động đã đặt dấu chấm hết cho cả ngàn mơ ước để rồi khai sinh ra một mơ ước khác, tôi phi đến bìa rừng và không mảy may ngoảnh đầu nhìn lại.
.
Để lịch sử không lặp lại,
những câu chuyện sẽ được lưu truyền
từ cha sang con trai, từ mẹ tới con gái,
chỉ một thế hệ,
lịch sử và sự thật sẽ vĩnh viễn biến mất.
– Sách Thánh văn của Morrighan, Chương III