← Quay lại trang sách

Chương 36

Tôi tựa vào cột hiên. Chúng tôi đang đợi dì Berdi cùng đi bộ đến quảng trường dự lễ hội đêm. Dì ấy đang tắm rửa và thay đồ. Đã qua một ngày dài, và tôi vẫn suy nghĩ về trò ném dao với cảm giác kỳ lạ rằng mình bị theo dõi trong khi chắc chắn có cả trăm người đang nhìn tôi. Thêm một người thì có là gì?

“Pauline” tôi ngập ngừng hỏi. “Cậu có bao giờ biết điều gì không? Chỉ tự nhiên biết thôi ấy?”

Cô ấy im lặng một lúc lâu, như thể cô ấy không nghe thấy tôi, nhưng rồi cuối cùng cô ấy nhìn lên. “Cậu đã thấy, phải không? Hôm đó lúc đi ngang qua nghĩa địa, cậu đã thấy Mikael chết.”

Tôi nhổm ra khỏi cột. “Gì cơ? Không phải –”

“Tôi đã nghĩ nhiều kể từ lần đó. Vẻ mặt của cậu ngày hôm đó. Lúc cậu bảo dừng lại. Cậu đã thấy anh ấy chết.”

Tôi lắc đầu nguầy nguậy. “Không. Không phải vậy.” Tôi ngồi xuống bên cạnh cô ấy. “Tôi không phải là Siarrah, tôi không thấy được mọi thứ như mẹ. Tôi vừa cảm nhận được gì đó, rất mơ hồ thôi, nhưng cũng rất mạnh, một cảm giác. Còn hôm đó tôi chỉ linh cảm có điều gì đó không lành.”

Cô ấy suy xét điều này và nhún vai. “Vậy thì có lẽ đó không phải là năng lực đặc biệt. Đôi khi tôi cũng có một cảm giác mạnh mẽ về nhiều thứ. Trên thực tế, tôi cũng có cảm giác gì đó không ổn với Mikael. Có cảm giác rằng anh ấy sẽ không đến. Nó cứ ảm ảnh, nhưng tôi không tin vào điều đó. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi càng háo hức chờ anh ấy bước qua cửa quán rượu hơn. Tôi cần được chứng minh là mình sai.”

“Vậy cậu không nghĩ đó là khả năng thiên bẩm à?”

“Khả năng thiên bẩm của mẹ cậu là thấu thị.” Cô ấy nhìn xuống một cách hối lỗi. “Ít nhất là đã từng.”

Mẹ tôi đã ngừng nhìn thấy những linh ảnh sau khi tôi được sinh ra. Đôi khi, những kẻ độc địa ám chỉ rằng tôi đã đánh cắp khả năng của mẹ khi còn trong bụng, tất nhiên điều này thật nực cười. Dì Bernette nói đó hoàn toàn không phải là do tôi, mà do năng lực của mẹ từ từ giảm đi sau khi bà rời quê nhà đến kinh thành. Một số lại khẳng định bà chưa bao giờ có năng lực đó, nhưng nhiều năm trước, khi còn rất nhỏ, tôi đã chứng kiến mọi thứ. Tôi đã nhìn đôi mắt xám của bà lờ đờ, sự tập trung tăng vọt. Một lần bà đã cứu tất cả mọi người khỏi nguy hiểm trước khi một con ngựa ma quái giẫm nát con đường mà chúng tôi đang đứng. Một lần khác, bà dẫn chúng tôi ra ngoài trước khi mặt đất rung chuyển và đá rơi xuống, và bà thường đuổi chúng tôi đi trước khi cha trở chứng khó ở.

Mẹ luôn phủ nhận nó, nói rằng bà đã nghe thấy tiếng ngựa và cảm thấy mặt đất rung chuyển trước chúng tôi, nhưng hồi đó, tôi chắc chắn đó là năng lực đặc biệt. Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt của bà. Bà thấy những sự kiện trước khi nó xảy ra, hoặc nhìn thấy nó từ rất xa, như khi bà về phòng trong đau buồn vào ngày ông ngoại qua đời, mặc dù không nhận được tin báo. Hai tuần sau đó, người đưa tin mới tới. Nhưng trong những năm gần đây, không có gì cả.

“Ngay cả khi không nhìn được” Pauline nói, “nó vẫn có thể là năng lực đặc biệt. Có rất nhiều kiểu biết.”

Một cơn ớn lạnh chạy dọc lưng tôi. “Cậu vừa nói gì cơ?”

Cô lặp lại những lời đó, gần giống những lời mà vị thầy tu đã nói hồi sáng.

Cô ấy hẳn đã nhìn thấy vẻ đau khổ trên khuôn mặt tôi, nên cô ấy cười. “Lia, đừng lo lắng! Tôi mới là người có năng lực thiên nhãn! Không phải cậu! Thực ra, tôi đang thấy một linh ảnh!” Cô ấy bật dậy và giữ tay lên đầu giả vờ tập trung. “Tôi nhìn thấy một người phụ nữ. Một người phụ nữ đứng tuổi xinh đẹp trong bộ váy mới. Hai tay chống nạnh. Môi bà ấy mím lại, thiếu kiên nhẫn. Bà ấy –”

Tôi đảo mắt. “Bà ấy đang đứng sau tôi, phải không?”

“Đúng vậy,” dì Berdi nói.

Tôi quay lại và thấy dì ấy đang đứng ở ngưỡng cửa quán rượu đúng như mô tả.

Pauline ré lên thích thú.

“Đứng tuổi?” Dì Berdi nói.

“Đáng kính.” Pauline sửa lại và hôn lên má dì ấy.

“Hai đứa đã sẵn sàng chưa?”

Ồ, tôi sẵn sàng. Tôi đã chờ đợi đêm này cả tuần rồi.

Dế mèn kêu như chào đón bóng đêm. Bầu trời trên vịnh được phủ lên những vệt màu hồng tím mỏng manh trong khi phần còn lại mang một màu cô ban càng lúc càng đậm. Một mặt trăng lưỡi liềm màu đồng vắt vẻo trên một ngôi sao sáng. Terravin vẽ nên một phong cảnh kỳ diệu.

Không khí tĩnh lặng và ấm áp bao trùm cả thị trấn. An toàn. Khi chúng tôi đến con đường chính, một dãy đèn lồng giấy lấp lánh trên đầu. Và sau đó, như thể chỉ phong cảnh thôi là chưa đủ, bài ca vang lên.

Lời cầu nguyện được hát lên như thể tôi chưa bao giờ được nghe trước đây. Đây một chút hồi tưởng. Kia một chút. Từng giọng ca tách biệt, kết hợp, quây quần, san sẻ, một giai điệu hòa quyện. Tốc độ khác nhau, từng từ khác nhau, lên xuống, tuôn trào như một dàn hợp xướng hòa vào nhau thành cơn sóng gợn nhấp nhô, khắc khoải và chân thực.

“Lia, cậu khóc đấy à?” Pauline thì thầm.

Thật sao? Tôi đưa tay lên sờ má mình, ướt đẫm nước mắt. Đây không phải là khóc. Đây là một cái gì đó khác. Khi chúng tôi đến gần thị trấn hơn, giọng của dì Berdi, với âm sắc đẹp nhất, chuyển từ lời hát sang lời chào, những hồi ức hòa tan vào khoảnh khắc hiện tại.

Người thợ rèn, người bán hàng, người đánh cá, người thợ thủ công này, người thợ may quần áo kia, người thương nhân, người làm xà phòng hay nhắc nhở dì Berdi rằng có một số mùi hương mới mà dì ấy phải thử, tất cả đều chào lại. Ngay sau đó dì Berdi bị kéo đi.

Pauline và tôi quan sát các nhạc công chuẩn bị, đặt ba chiếc ghế thành một nửa vòng tròn. Họ xếp nhạc cụ của mình - một chiếc đàn zitarae, một đàn fiola, và một cái trống cốc - lên trên ghế rồi đi tìm đồ ăn và thức uống trước khi âm nhạc của họ vang lên. Trong khi Pauline đi lang thang ăn thử trứng ngâm, tôi tiến lại gần để xem xét chiếc đàn zitarae. Nó được làm bằng gỗ anh đào màu đỏ đậm, khảm những đường nối mỏng của gỗ sồi trắng và có những vết mòn nơi bàn tay đã đặt lên qua hàng trăm bài hát.

Tôi với xuống dưới và gảy một dây. Một cơn đau âm ỉ xuyên qua tôi. Trong vài dịp hiếm hoi, mẹ tôi và các chị em của bà chơi đàn zitarae, ba người họ tạo ra thứ âm nhạc đầy ám ảnh, giọng mẹ tôi réo rắt và không một từ ngữ nào có thể tả hết được, tựa như một thiên thần đang ngắm nhìn tạo vật. Khi họ chơi nhạc, cả kinh đô như rùng mình và mọi thứ đứng yên. Kể cả cha tôi. Ông quan sát và lắng nghe từ xa, khuất bóng ở phòng trưng bày tầng trên. Đó là âm nhạc của quê hương mẹ, và nó luôn khiến tôi tự hỏi bà đã hy sinh những gì khi đến Morrighan để trở thành nữ hoàng. Hai năm sau các chị em của bà đã đi theo để ở bên bà, nhưng bà đã bỏ lại những ai khác? Có lẽ khi lắng nghe và quan sát, đó cũng là điều mà cha tôi băn khoăn.

Thêm nhiều người đến tham dự lễ hội buổi tối, tiếng nói chuyện và tiếng cười hòa vào thành một âm hưởng dễ chịu. Buổi lễ bắt đầu, nhạc công đã ngồi vào chỗ, lấp đầy không gian với những giai điệu chào đón, nhưng vẫn còn thiếu gì đó.

Tôi tìm Pauline và hỏi, “Cậu thấy anh ấy không?”

“Đừng lo. Anh ấy sẽ tới thôi.” Cô ấy cố kéo tôi đi để xem những ngọn nến lấp lánh trôi bồng bềnh trên dòng suối gần quảng trường, nhưng tôi nói rằng sẽ gặp cô ấy sau.

Tôi đứng trong bóng tối bên ngoài tiệm thuốc và nhìn bàn tay của người chơi zitarae bấm và gảy ra một vũ điệu mê hoặc. Tôi ước mẹ đã dạy tôi chơi loại nhạc cụ này. Tôi định bước lại gần thì cảm thấy có một bàn tay đặt trên eo mình. Anh ấy đây rồi. Người tôi nóng bừng, nhưng khi quay lại, đó không phải là Rafe.

Tôi ngạc nhiên hít vào một hơi. “Kaden.”

“Tôi không cố ý làm cô giật mình.” Đôi mắt anh ấy chạy dọc qua tôi. “Trông cô tối nay thật rạng ngời.”

Tôi nhìn xuống, xấu hổ, cảm giác tội lỗi giày xé tôi vì đã quá hào phóng với sự quan tâm của mình đêm qua. “Cảm ơn anh.”

Anh ấy ra hiệu về phía con phố nơi mọi người đang nhảy múa. “Nhạc đang nổi lên kìa,” anh ấy nói.

“Vâng, họ vừa bắt đầu.”

Những lọn tóc vàng ẩm ướt của anh được chải ngược ra sau, và hương thơm của xà bông vẫn còn mới trên da. Anh ấy hất đầu một lần nữa về phía ban nhạc, lóng ngóng như một cậu bé, mặc dù không có gì trẻ con về anh ấy cả. “Chúng ta nhảy nhé?” Anh ấy hỏi.

Tôi lưỡng lự, ước gì họ chơi điệu jig nhanh hơn. Tôi không muốn anh ấy hiểu nhầm, nhưng tôi cũng không thể từ chối một điệu nhảy đơn giản. “Đương nhiên rồi,” tôi trả lời.

Anh ấy cầm tay tôi và dẫn đến không gian phía trước các nhạc công để khiêu vũ. Một cánh tay của anh ấy luồn ra sau lưng tôi, và cánh tay còn lại đưa tay tôi sang một bên. Tôi đảm bảo rằng cuộc trò chuyện của chúng tôi đúng mực, kể lại các trò chơi trong ngày để có thể duy trì khoảng cách, nhưng khi cuộc trò chuyện lắng lại trong một khoảng ngắn, anh ấy kéo tôi lại gần hơn. Anh ấy chạm nhẹ nhàng nhưng rất chắc, làn da anh ấy ấm, da kề da với tôi.

“Cô đối với tôi rất tốt, Lia,” anh ấy nói. “Cô –” Anh ấy dừng lại một lúc lâu, đôi môi hơi hé mở, rồi hắng giọng. “Tôi rất thích khoảng thời gian ở đây.”

Giọng điệu của anh ấy trở nên nghiêm trang một cách kỳ lạ, và tôi thấy trong mắt anh ấy có chút sức nặng. Tôi nhìn anh ấy, bối rối trước phong thái thay đổi đột ngột đó.

“Tôi chỉ giúp ích chút ít, Kaden, còn anh đã cứu mạng tôi.”

Anh ấy lắc đầu. “Cô đã thoát được. Tôi chắc chắn rằng khả năng dùng dao của cô cũng khá tốt.”

“Có thể,” tôi nói. “Nhưng cũng có thể không.”

“Chúng ta chẳng biết điều gì có thể xảy ra.” Ngón tay anh ấy siết chặt lấy tôi. “Nhưng chúng ta không thể đắm chìm mãi vào những điều mông lung.”

“Không... Tôi cho rằng chúng ta không thể.”

“Chúng ta phải tiến đến.”

Mỗi lời nói từ anh ấy đều nặng trịch, như thể anh ấy đang nghĩ một đằng nhưng lại nói một nẻo. Nỗi bất an luôn rình rập trong mắt anh ấy tăng lên gấp bội.

“Nghe như anh sắp rời đi,” tôi nói.

“Sớm thôi. Tôi phải trở lại với nhiệm vụ ở quê nhà.”

“Anh chưa bao giờ nói nhà anh ở đâu.”

Anh ấy nheo mắt lại. “Lia,” giọng anh ấy khàn khàn. Tiếng nhạc réo rắt, tim tôi đập nhanh hơn, và bàn tay anh ấy trượt xuống lưng tôi thấp hơn. Sự dịu dàng thay thế cho sự bất an, và khuôn mặt anh ấy cúi xuống gần tôi. “Tôi ước –”

Một bàn tay đặt xuống vai anh ấy, khiến cả hai chúng tôi ngạc nhiên. Tay của Rafe.

“Đừng tham lam thế, anh bạn,” Rafe vui vẻ nói, mắt anh ấy lóe lên chút nghịch ngợm. “Hãy cho các anh chàng khác chút cơ hội nào.”

Một tia kinh ngạc lướt qua khuôn mặt của Kaden như thể Rafe từ trên trời rơi xuống. Ngay lập tức, vẻ ngạc nhiên được thay thế bằng vẻ cau có. Anh nhìn từ Rafe sang tôi, và tôi nhún vai để thể hiện rằng khiêu vũ với mọi người là lịch sự. Anh ấy gật đầu và bước sang một bên.

Rafe choàng tay qua người tôi và giải thích rằng anh ấy đến muộn vì bộ quần áo anh ấy treo ở nhà tắm bằng cách nào đó đã đứng dậy và tự bỏ đi. Cuối cùng anh ấy phải chạy nhanh đến căn gác xép trên nhà kho chỉ với một chiếc khăn để che thân. Và anh ấy tìm thấy quần áo của mình bị vứt trong chuồng của Otto. Tôi cố nén tiếng cười khúc khích, tưởng tượng cảnh anh ấy chạy đến gác xép chỉ quấn mỗi chiếc khăn tắm.

“Kaden à?”

“Còn ai nữa?”

Rafe kéo tôi lại gần, và những ngón tay anh ấy nhẹ nhàng vuốt ve xương sống tôi. Tôi cồn cào. Chúng tôi chỉ có vài giây bên nhau trước khi âm nhạc chuyển sang giai điệu nhanh. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi bị tách ra khi các cặp đôi trao đổi bạn nhảy. Nhịp rất nhanh, và tôi thấy mình đang cười, những ánh đèn lấp lánh và xoáy qua tầm nhìn của tôi. Mọi người bắt đầu tham gia đông hơn, Pauline, dì Berdi, Gwyneth, các thầy tu, người chăn ngựa, cô bé Simone nắm tay cha, những người lạ mà tôi không quen, cùng hòa ca, hò hét, bước vào vòng tròn trung tâm để thực hiện một vài bước nhảy lạ mắt, zitarae, fola và tiếng trống vang bên thái dương của mọi người.

Cuộc vui khiến tôi đầm đìa mồ hôi, cuối cùng tôi phải lấy lại hơi và lùi ra sau xem. Một vòng xoáy hòa quyện giữa màu sắc và chuyển động, Rafe khiêu vũ với dì Berdi, cô thợ may, các nữ sinh, Kaden nắm lấy tay Pauline, Gwyneth với người thợ thuộc da, thợ xay, một vòng tròn ăn mừng và biết ơn vĩnh cửu. Đúng vậy, chính là nó, biết ơn giây phút hiện tại, bất kể ngày mai có gì xảy ra đi nữa.

Những lời Rafe đã nói lại vang lên rõ ràng. Một số điều trường tồn... những điều quan trọng. Chính những lời mà tôi đã chế giễu chỉ vài tuần trước giờ lại khiến tôi kinh ngạc. Đêm nay là một trong những điều sẽ trường tồn - những gì tôi đang chứng kiến ngay bây giờ vào chính thời điểm này - và tôi thấy một quãng thời gian trôi qua, một quãng thời gian thậm chí trước đó nữa, Người xưa nhảy múa trên chính con đường này, hổn hển, cảm nhận thấy niềm vui giống như tôi bây giờ. Những ngôi đền, những cây cầu kỳ lạ, điều vĩ đại có thể không trường tồn, nhưng một số thứ thì có. Những đêm như thế này. Chúng tiếp tục mãi, xuyên màn đêm, bởi vì chúng được tạo ra từ một thứ khác, một thứ gì đó yên tĩnh như nhịp tim và lướt nhanh như cơn gió. Đổi với tôi, đêm nay sẽ trường tồn mãi.

Rafe phát hiện ra tôi ở rìa đám đông và cũng lỉnh ra ngoài. Chúng tôi đi qua quảng trường lung linh ánh nến, tiếng nhạc mờ dần sau lưng, và chúng tôi biến mất trong bóng tối của khu rừng phía sau, nơi không ai, không phải Kaden, Pauline, hay bất kỳ ai khác, có thể tìm thấy chúng tôi.