Chương 64
Đó là một khu rừng kỳ lạ. Rêu xám rũ xuống thành những sợi xoăn từ những cây đen có thân rộng ngang với một toa xe ngựa. Con ngựa lúc đầu chùn bước, không chịu đi vào, nhưng tôi thúc nó về phía trước. Tiếng động vật kêu réo rắt chói tai vang lên xung quanh như tiếng cười khiến tôi rùng mình. Tôi tìm kiếm trên các ngọn cây, tìm kiếm những con chim phát ra âm thanh đó, nhưng chỉ thấy bóng tối.
Tôi không có thời gian để nghĩ đến nỗi sợ, tôi phải nghĩ xem sẽ làm gì tiếp theo. Thức ăn và lửa. Tôi sẽ không chết trong vùng hoang dã như Kaden dự đoán. Tôi dừng con ngựa bên trong một vòng tròn năm cây to, rồi đu xuống và cởi bỏ túi yên. Tôi lấy hết đồ ra. Tất cả những gì tôi có là những cuốn sách, một lọ dầu dưỡng, cỏ chiga, vài mảnh vải vụn để quấn băng, một chiếc bàn chải, một sợi dây da để buộc lại tóc, một ống chỉ lụa để vệ sinh răng, mấy bộ đồ lót cũ rích để thay, và hộp mồi lửa của tôi. Không có nổi một mẩu thức ăn. Kaden đã cất đồ tích trữ của tôi trên con ngựa của anh ta, có lẽ để ngăn cản bất kỳ ý đồ trốn thoát nào. Tôi nhìn vào hòn đá đánh lửa và tìm cách nhóm một đống lửa. Tôi không muốn ở trong khu rừng ma quái này trong bóng tối. Ở nơi hoang vu này, một ngọn lửa sẽ sáng rực như một ngọn hải đăng. Tôi khảo sát xung quanh. Độ dày của những thân cây và khu rừng phía xa sẽ che được một đám cháy nhỏ.
Bụng tôi réo lên khi nghĩ về thức ăn. Tôi không cho phép mình đánh mất sức lực mà tôi đã lấy lại được ở trại của những người du mục, nhưng cả vũ khí để săn bắn những con thú nhỏ tôi cũng không có. Tôi sẽ phải kiếm ăn. Tôi biết thứ gì đang sống dưới nền rừng mục nát, và khi nghĩ tới viễn cảnh tôi trở nên quá yếu ớt đến nỗi không thể chạy trốn, tôi quyết định tìm kiếm nó. Hàm của tôi ngay lập tức đau nhói, và nước miếng có vị chua trên lưỡi. Tôi tìm thấy một khúc gỗ mục nát và lật nó lên. Những con ấu trùng ngậy béo ngọ nguậy.
Regan đã từng thách Bryn nuốt một con, nói rằng các thiếu sinh quân trong khóa huấn luyện phải làm như vậy. Bryn cũng không chịu thua kém, vì vậy anh ấy nuốt chửng con ấu trùng béo tròn, vặn vẹo. Trong vòng vài giây anh ấy đã nôn ẹo. Nhưng với tôi, chúng có dinh dưỡng để duy trì sự sống ngang một con vịt quay.
Tôi hít một hơi thật sâu. Zsu viktara. Tôi nhắm nghiền mắt lại, tưởng tượng mình đang cưỡi ngựa trở về nhà, đủ mạnh mẽ để tìm và giúp Walther, đủ mạnh mẽ để kết hôn với một hoàng tử mà tôi ghê tởm, đủ mạnh mẽ để quên Rafe. Đủ mạnh mẽ. Tôi mở mắt ra và hất vào tay mình một nắm ấu trùng đang ngọ nguậy.
“Tôi đủ mạnh mẽ để ăn những thứ này và tưởng tượng chúng là vịt,” tôi thì thầm. Tôi ngửa đầu ra sau, nhét chúng vào miệng và nuốt.
Con vịt. Con vịt nhầy nhụa.
Tôi lấy một nắm khác.
Con vịt ngọ nguậy.
Tôi chiêu một ngụm nước để nuốt trôi tất cả. Vịt quay mọng nước. Tôi sẽ khiến bản thân yêu thích những con ấu trùng nếu cần. Tôi nuốt một lần nữa, đảm bảo chúng đã trôi xuống hẳn.
Chi-a!
Tôi nhảy dựng. Một bóng đen lướt qua tán cây. Cái gì đang lẩn lút trên đó vậy? Tôi bắt đầu nhặt những que củi khô và rêu, sau đó đánh lửa bằng viên đá. Những tiếng rít kỳ lạ xuyên qua không gian, và tôi nghĩ rằng dù con vật nào phát ra tiếng đó thì nó cũng đang ở gần.
Tôi ném thêm củi vào đống lửa và lôi Bài hát của Venda ra để giữ đầu óc bận rộn. Tôi đã sử dụng cuốn sách bà Dihara đưa để dịch văn tự. Sự hình thành các chữ cái trong hai cuốn sách khác nhau. Những chữ cái trong bộ sách của Dihara có hình hộp, còn những chữ cái trong Bài hát của Venda có các hình cuộn và đường cong, hơn nữa, các chữ cái xoáy sang nhau, khó có thể biết được các chữ cái bắt đầu và kết thúc ở đâu. Tôi nhìn chằm chằm trong vô vọng, và sau đó các chữ cái dường như tự di chuyển ngay trước mắt tôi, tự sắp xếp lại thành một khuôn mẫu mà tôi có thể nhận ra. Tôi chớp mắt. Giờ thì rõ rồi.
Những điểm tương đồng xuất hiện và những chữ cái bí ẩn tự lộ diện. Những đường cong, những dấu còn thiếu, những mẫu chốt. Tôi hiểu rồi. Tôi dịch một cách nghiêm túc. Từng từ, từng câu, tôi lật qua lật lại giữa đoạn văn bản Venda vỡ lòng và đoạn văn bản cũ.
Chỉ có một lịch sử và một tương lai đúng đắn.
Hãy nghe cho kĩ, vì đứa trẻ khốn khổ
Sẽ là người mang đến hy vọng.
Sức mạnh sẽ tới, từ những kẻ yếu ớt nhất.
Tự do sẽ tới, với những kẻ bị săn đuổi.
Người già mơ những giấc mơ,
Hầu gái trẻ thấy những ảo cảnh,
Con quái vật trong rừng quay đi,
Họ sẽ thấy đứa trẻ khốn khổ đến,
Và làm rõ đường đi.
Hậu thế của kẻ trộm
Hiện thân thành giống Rồng,
Lòng tham vô bờ bến,
Trẻ nhỏ là điểm tâm,
Uống cạn nước mắt người mẹ.
Vết cắn tàn nhẫn, miệng lưỡi gian xảo,
Hơi thở mê hoặc, kìm kẹp chết người,
Con rồng chỉ biết đói, không bao giờ biết no,
Chỉ khát, không bao giờ nguôi.
Không có gì ngạc nhiên khi người cai trị Venda muốn phá hủy những lời lảm nhảm điên cuồng của bà ấy. Chúng thật ảm đạm và không có ý nghĩa gì, nhưng hẳn là có điều gì đó về chúng khiến cho Học giả phải băn khoăn. Hay tôi đã lãng phí thời gian của mình? Có lẽ chiếc hộp vàng nạm đá quý rất đáng giá đối với ông ta? Lẽ nào vì thế mà ông ta sẵn sàng đánh đổi địa vị và mạng sống của mình sao? Nhưng tôi đã dịch gần xong bài hát nghiệt ngã rồi nên tôi tiếp tục.
Từ lưng ngựa của Morrighan,
Từ tận cùng của tan hoang,
Từ mưu đồ của những kẻ thống trị,
Từ nỗi sợ hãi của một nữ hoàng,
Hy vọng sẽ được sinh ra.
Bên kia ranh giới chết chóc,
Qua dãy núi vĩ đại,
Nơi cơn đói nuốt chửng linh hồn,
Nước mắt sẽ còn rơi.
Con rồng sẽ âm mưu,
Mang nhiều khuôn mặt khác,
Lừa dối những kẻ yếu, tập hợp những kẻ ác,
Sức mạnh lớn như thần, không thể ngăn cản nổi,
Hiềm thù trong phán xét,
Bất biến trong cai trị,
Kẻ đánh cắp giấc mơ,
Kẻ diệt trừ hy vọng.
Tôi đọc tiếp, và với mỗi từ, hơi thở của tôi ngắn lại. Khi đến câu cuối cùng, mồ hồi lạnh túa ra trên mặt. Tôi lại lục tung những tờ giấy rời, tìm kiếm các ghi chú biên mục. Học giả rất tỉ mỉ về những điều như vậy. Tôi tìm thấy chúng và đọc lại. Những cuốn sách cổ này đã đến tay ông ta mười hai năm sau khi tôi sinh ra. Đó là điều không thể. Nó không có ý nghĩa.
Tới khi một người mạnh hơn xuất hiện
Người đã từng yếu đuối,
Người từng bị săn đuổi,
Người mang dấu móng vuốt và dây nho,
Người được đặt tên trong bí mật,
Người được gọi là Jezelia.
Tôi chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ ai khác ở Morrighan có cái tên Jezelia. Kể cả những người trong triều đình cũng vậy. Đó là điều mà cha tôi đã vô cùng phản đối - không có tiền lệ. Mẹ tôi đã lấy nó ở đâu? Không phải từ cuốn sách này.
Tôi tuột chiếc áo khỏi vai và quay lại để xem hình kavah của mình là gì. Móng vuốt và dây nho vẫn còn đó.
Những câu chuyện lớn hơn có cách dẫn dắt riêng. Tôi lắc đầu. Không, không phải cái này. Phải có một lời giải thích hợp lý. Tôi lại nhét sách vào túi yên ngựa. Tôi cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi trước khu rừng kỳ lạ này, và tôi đã dịch vội vàng. Chỉ vậy thôi. Không có những thứ gọi là rồng, và chắc chắn uống máu trẻ nhỏ lại càng không. Nó chỉ là lời lảm nhảm. Tôi đã phí công đi tìm ý nghĩa. Mai tôi sẽ xem lại trong ánh nắng ban mai và các quy tắc của lý trí sẽ làm nó sáng tỏ.
Tôi cho một cành cây lớn vào ngọn lửa và ngả lưng xuống chiếc thảm ngủ của mình. Tôi buộc tâm trí phải nghĩ đến những thứ khác. Những điều có ý nghĩa. Những điều hạnh phúc hơn. Tôi hình dung ra Pauline, đứa trẻ xinh đẹp của cô ấy, Gwyneth và dì Berdi đang giúp đỡ cô ấy và cuộc sống của họ tiếp tục diễn ra ở Terravin. Ít nhất ai đó đang sống cuộc sống mà tôi từng mơ ước. Tôi nghĩ bây giờ sẽ thích biết bao nếu được thưởng thức món cá hầm của dì Berdi; được nghe tiếng kèn trong vịnh; những cuộc tán gẫu của khách hàng trong quán rượu; tiếng kêu của Otto; được ngửi mùi muối trong không khí; và được xem Gwyneth đánh giá khách hàng mới.
Cách cô ấy đánh giá Rafe.
Tôi đã trở nên mạnh mẽ hơn ở một số khía cạnh nhưng cũng đồng thời yếu hơn ở những khía cạnh khác. Kể từ ngày đầu tiên gặp em, em là điều cuối cùng anh nghĩ tôi trước khi ngủ mỗi đêm.
Tôi nhắm mắt lại và rúc vào chăn, cầu nguyện buổi sáng sẽ đến sớm.