MỞ ĐẦU
Trong đêm, tiếng kèn harmonica thình lình vang lên rồi kết thúc chóng vánh, làm Lý Chí Dũng giật bắn mình. Tay nắm không chắc ghi đông, cộng thêm mưa thu tí tách làm mặt đường trơn trượt nên anh suýt ngã xe đạp. May kịp chống chân, anh mới thoát khỏi cảnh cả người cả xe lăn kềnh ra đất.
Lý Chí Dũng ngẩng lên nhìn trời. Đã 10 giờ đêm nhưng bầu trời không tối đen mà mịt mờ xám xịt. Dưới ánh đèn đường, vô vàn hạt mưa bay tán loạn toát ra cái lạnh buốt giá. Anh trèo lại lên yên, chợt nhận ra mình chẳng còn sức để vượt qua con dốc. Dốc thoai thoải nhưng rất dài, ngày trước anh thà đi đường vòng còn hơn qua đây. Nhưng tối nay thì không được, bởi có người đang chờ anh trong công viên Vọng Nguyệt ngay cuối đường.
Lý Chí Dũng quyết định dắt xe, thong thả đi bộ. Chiếc xe đạp màu đen hiệu Vĩnh Cửu bánh 26 inch vừa bền vừa chắc anh mua từ thời đại học, dùng liên tục đến tận khi đi làm. Nhiều người góp ý xe khung thép đã lỗi thời, giờ có xe hợp kim nhôm kiểu mới nhẹ hơn, song anh không nỡ đổi, vẫn nâng niu nó như người bạn lâu năm. Phải đến lúc này, anh mới thấy hình ảnh cơ thể hơi mập của mình đẩy tấm thân nặng nề của “bạn lâu năm” chẳng khác nào gấu ngựa đẩy đá khổng lồ lên núi, vụng về hết chỗ nói.
Bánh xe cao su đen lăn trên con đường ướt nhẹp, dính theo vài dải kim tuyến người xem ca nhạc tiện tay vứt xuống đường sau buổi biểu diễn của nhóm Wynners. Dạo này nhóm hay tổ chức biểu diễn ở công viên Điêu Khắc cách đây hai con phố. Lý Chí Dũng để ý, anh đi đến đâu là các cửa tiệm nhỏ ven đường tắt đèn đến đấy như đưa tang, từ lẩu bò Phúc Hoa, nhà thuốc Gia Sự Đường, quần áo Y Lai Khách cho đến siêu thị điện tử Tây Giao. Hoang mang trước cảnh tượng tắt đèn kì quái, anh dừng bước, quay đầu ngó nghiêng, chỉ thấy con đường lớn vắng tanh không bóng người. Nghếch chiếc cằm hai ngấn, anh thấy bức tượng trăng khuyết bằng cẩm thạch trắng đặt trên bệ cao của công viên Vọng Nguyệt ở cách đây không quá xa.
Thình lình!
Tiếng kèn harmonica lại vang lên, lần này là chuỗi âm thanh dồn dập, lặp đi lặp lại. Chúng khản đặc và dính liền với nhau như tiếng người nức nở, khao khát dốc bầu tâm sự nhưng nghẹn ngào không nói nên lời. Chẳng rõ vì sao, màn đêm cũng đau đớn run rẩy theo tiếng kèn. Nó co giật, ớn lạnh, rúm ró lại từng cơn, ẩn giấu những biến hóa khôn lường…
Giai điệu nghe như đoạn dạo đầu của một bài hát thịnh hành, nhưng Lý Chí Dũng cố mãi vẫn không nhớ ra là bài nào.
Sau đó, tất cả lại chìm vào yên ắng.
Lý Chí Dũng đứng lặng hồi lâu. Đến khi chắc chắn tiếng kèn harmonica sẽ không vang lên nữa, đến khi những âm thanh vẳng đi vẳng lại trong màng nhĩ hoàn toàn biến mất, đến khi những hạt mưa tí tách rửa sạch mọi ngóc ngách từ đầu đường tới cuối ngõ, đến khi thế giới không còn dấu vết nào của dư âm đau thương vừa rồi, anh mới như được giải lời nguyền, thả lỏng cẳng chân đã tê rần, chậm chạp dắt xe đạp đến trước cổng công viên Vọng Nguyệt.
Công viên Vọng Nguyệt rất nhỏ, diện tích chỉ bằng sân bóng đá, nhưng lại là công trình “mang tính biểu tượng” trong khu vực nhờ vị trí nằm ngay đỉnh dốc. Công viên này thực chất là một ngọn đồi có tường đá bao quanh, cửa vào là cổng vòm bằng đá hướng về phía chính Bắc. Đi qua cổng vòm sẽ tới cầu thang rộng rãi dẫn thẳng lên đỉnh đồi, ở nơi cao nhất đặt tượng trăng khuyết làm từ cẩm thạch trắng, khắc hình mặt người nhìn nghiêng cùng chòm râu, ngụ ý đây là “ông Trăng”. Có điều vẻ mặt “ông Trăng” thật sự quái dị, lông mày nhướng lên và chau lại, chòm râu rậm vươn ra như xúc tu bạch tuộc, khóe miệng nhếch cười hết sức kì quái, ban đêm trông chẳng khác nào ông già canh mộ mắc chứng bạch biến.
Lý Chí Dũng dựng xe đạp, bước lên cầu thang. Lên tới nơi, vì quá mệt nên anh vừa thở vừa vịn vào “ông Trăng”. Có điều, đá cẩm thạch đẫm nước mưa cuối thu lạnh buốt làm anh phải buông ra tức thì. Xoa bàn tay vào tay áo bên kia, anh ngước mắt tìm người hẹn mình.
Nơi này nằm ở chỗ cao nhất công viên Vọng Nguyệt, là một quảng trường hình tròn lát đá, chính giữa có sàn phun nước hình rẻ quạt, nắp thoát nước bằng inox tỏa ra ánh sáng xanh thẳm trong bóng đêm. Phía Nam quảng trường có bức tường vòng cung đá hoa cương, bề mặt khảm phù điêu bằng sợi thủy tinh giả đồng. Lý Chí Dũng băng qua quảng trường, đi một vòng men theo tường nhưng không thấy người cần tìm. Toan nhéo chóp mũi thô kệch theo thói quen mỗi khi lúng túng, anh chợt phát hiện người mình tìm kiếm đang ngơ ngẩn ngồi trên băng ghế xanh sẫm bên ngoài quảng trường, tay cầm kèn harmonica. Nước mưa phủ lên khắp người cậu một quầng sáng bạc.
“Lâm Hương Minh!” Lý Chí Dũng tiến về phía đó.
Đang mải ngẫm ngợi, Lâm Hương Minh khẽ rùng mình khi nghe tiếng gọi. Cậu ngẩng đâu lên, nhìn người mới đến với ánh mắt vừa quen thuộc vừa xa lạ, đến độ Lý Chí Dũng phải làu bàu, “Tôi đây. Sao thế? Không nhận ra à?”
Lâm Hương Minh đứng dậy bắt tay Lý Chí Dũng.
“Sao cậu không tìm chỗ nào trú mưa?” Lý Chí Dũng cau mày, nhìn quanh một lượt mới nhận ra cả công viên không có nổi một chòi nghỉ chân. Anh hơi xấu hổ, chính anh đề nghị gặp nhau ở đây nhưng lại không nghĩ đến việc trời sẽ mưa.
“Mưa không lớn mà.” Lâm Hương Minh mỉm cười đáp.
“Đi, đi nào! Khu dân cư Thanh Tháp phía Nam công viên có quán cơm, trông thì bé nhưng thức ăn ngon lắm, tôi mời một bữa. Đừng bảo cậu ăn tối rồi nhé, ăn rồi thì ăn thêm, ăn đêm mới béo!” Lý Chí Dũng nói liến thoắng. Anh xuống cầu thang, ra khỏi công viên, gạt chân chống lên dắt xe đi về phía khu dân cư Thanh Tháp.
Lâm Hương Minh kè kè bên cạnh.
Dọc đường hai người chẳng nói năng gì, chỉ có tiếng lọc cọc đều đều của dây xích trượt trên bánh răng. Không khí trầm lắng khiến Lý Chí Dũng căng thẳng, vừa lơ đãng đã va mắt cá chân vào bàn đạp.
“Ối cha!” Lý Chí Dũng kêu thảng thốt.
“Có sao không?” Lâm Hương Minh hỏi.
“Không sao!” Dù đau điếng, Lý Chí Dũng mừng vì bầu không khí im lặng được phá vỡ. “Vừa rồi cậu thổi kèn harmonica à?”
Lâm Hương Minh “Ừ” một tiếng.
“Nhạc dạo bài hát nào thì phải…” Lý Chí Dũng lẩm bẩm, hi vọng Lâm Hương Minh sẽ cho mình đáp án, song cậu vẫn im lặng.
Lý Chí Dũng bất giác nhìn Lâm Hương Minh. Gương mặt cậu ưa nhìn nhưng không cảm xúc. Đúng là một cậu chàng bí ẩn.
Nhớ hồi loạt án giết người xảy ra ở khu vực ngoại ô phía Tây thành phố (thường gọi là Tây Giao) còn điều tra dang dở, số nạn nhân nhiều lên mà việc phá án vẫn giậm chân tại chỗ, phó giám đốc Sở Cảnh sát thành phố là Hứa Thụy Long đã gọi điện cho tổ trưởng tổ chuyên án Đỗ Kiến Bình, bảo, “Chỗ tôi có một sinh viên năm ba Đại học Cảnh sát, chuyên ngành tâm lý học tội phạm và khoa học hành vi. Chúng tôi sẽ cử sang chỗ anh làm trợ thủ.”
Đỗ Kiến Bình bị vụ án hành ra bã, mệt mỏi đến mức tái phát bệnh zona nên rất khó chịu với chỉ thị của cấp trên. “Bên tôi đang rối như mớ bòng bong, anh đừng đẩy thêm sinh viên thực tập về nữa!”
“Ai bảo anh là sinh viên thực tập!” Hứa Thụy Long thẳng thừng chỉnh lại. “Trợ thủ!”
Vừa xuất hiện, “trợ thủ” Lâm Hương Minh đã được dự buổi họp phân tích vụ án, đồng thời để lại ấn tượng ban đầu tốt đẹp với mọi thành viên tổ chuyên án. Cậu có gương mặt thanh tú như con gái, thái độ cực kì khiêm tốn: mới đầu cậu mở máy tính xách tay, nhác thấy các cảnh sát xung quanh đều dùng sổ tay bìa da xanh biển, cậu lập tức cất máy tính, lấy giấy bút trong túi ra. Suốt buổi họp, cậu không uống nước, không hút thuốc cũng không khó chịu với mười mấy tên nghiện thuốc lá nhả khói liên tục. Cậu nghiêm túc lắng nghe từng người phát biểu, luôn tay ghi chép nhưng chẳng nói gì cho đến khi buổi họp kết thúc.
Đỗ Kiến Bình suýt quên Lâm Hương Minh, lúc sắp tan họp mới nhớ ra còn một người được phó giám đốc sở cử đến. “Lâm Hương Minh, cậu có ý kiến gì không?” Thấy cậu lắc đầu, Đỗ Kiến Bình cười bảo, “Đừng im lặng thế, họp án là để mọi người thoải mái nêu ý kiến. Cậu là trợ thủ trên kia cử xuống, phải hỗ trợ bọn tôi đi chứ.”
Cả phòng họp cười ồ lên.
“Tôi vừa đến, chưa có kinh nghiệm, mọi người ở đây đều là thầy, tôi phải học hỏi mọi người nhiều lắm.” Lâm Hương Minh cười đáp.
Tan họp, Đỗ Kiến Bình cảm thán với vài đồng nghiệp, “Lâm Hương Minh biết điều ra phết, các anh chỉ dẫn thêm cho cậu ta nhé.” Còn nửa đùa nửa thật bảo Lý Chí Dũng, “Cậu nên học hỏi Lâm Hương Minh đi, người ta trẻ hơn cậu nhưng không bộp chộp tí nào, còn biết cư xử và rất lanh lợi.”
Lý Chí Dũng không buồn đáp, thầm nhủ, “Chỉ e anh nhìn lầm rồi.”
Mười năm trước, Lý Chí Dũng mới hai mươi tám tuổi nhưng đã có sáu năm lăn lộn ở tuyến đầu điều tra hình sự, khổ sở nào cũng nếm trải, khó khăn nào cũng chịu đựng, thuộc hàng tráng niên trong đội. Đáng lý phải là đối tượng được lãnh đạo chú trọng bồi dưỡng, song anh mãi chẳng lọt vào mắt xanh của Đỗ Kiến Bình.
Lý Chí Dũng được đặt biệt danh “Gấu Ngựa”, không phải vì cao to khỏe mạnh mà vì hai nguyên nhân. Một, thường xuyên không rửa mặt chải tóc, lúc nào cũng lôi thôi nhếch nhác, đầu cúi gằm chi biết cắm mặt làm việc, chẳng để tâm xung quanh. Hai, tính tình kì quái, bình thường ít nói nhưng hễ bàn vào vụ án là rất cứng đầu, mà đã lên cơn cứng đầu là chẳng để lời ai vào tai, còn dám cãi thẳng mặt cấp trên là Đỗ Kiến Bình. Vì hai đặc điểm này, Lý Chí Dũng không hề từ chối biệt danh “Gấu Ngựa”, dù gì trong đội, mấy ai không có biệt danh đâu, so với một cảnh sát nam được gọi là “Chị Dâu”, anh tự thấy biệt danh của mình còn ổn chán.
Bề ngoài hơi thô thiển nhưng Lý Chí Dũng là người tinh tế. Khi phá án, anh thích vận dụng trí não, thỉnh thoảng còn đọc Sherlock Holmes toàn tập, bình thường luôn chú ý rèn luyện khả năng quan sát. Ví dụ trong buổi họp án lần này, đúng là Lâm Hương Minh không hề lên tiếng, trông có vẻ “không bộp chộp, biết cư xử”, nhưng anh phát hiện thật ra cậu rất có chủ kiến.
Các buổi họp án thường có nội dung xoay quanh một vụ trọng án, do lãnh đạo phụ trách chính đứng ra tổ chức và các cảnh sát liên quan cùng tham gia. Trong buổi họp, bất kể cấp bậc, chức vị, tuổi tác ra sao, hễ có ý kiến liên quan đến vụ án đều phải phát biểu, không được giấu giếm.
Bản chất của điều tra hình sự là dùng chứng cứ và suy luận để dựng lại chân tướng sự việc. Không ai hoàn toàn đúng cho đến khi phá được án, nên bắt buộc phải duy trì tự do và dân chủ trong ngôn luận cũng như tiếp thu ý kiến mọi người. Nếu cứ lo lắng “cãi lại lãnh đạo sẽ bị trù dập” thì không giải quyết được gì. Chính vì thế, việc tranh cãi đến đỏ mặt tía tai xem chứng cứ đáng tin không, suy luận hợp lý không là chuyện thường tình, sau khi tan họp chẳng ai để bụng… Mặc dù vậy, trong cuộc họp, mọi người vẫn vô thức gật đầu mỗi khi nghe phát biểu, không phải để tỏ ý tán thành và ủng hộ, mà chủ yếu vì thói quen và tôn trọng.
Lâm Hương Minh thì không. Lý Chí Dũng để ý, cậu cũng chăm chú lắng nghe nhưng rất ít khi gật đầu. Lần gật đầu duy nhất của cậu là dành cho phần trình bày của Lý Chí Dũng. Song, phần trình bày đó chỉ là ý tưởng đột nhiên xuất hiện chứ anh chưa hề ngẫm nghĩ kĩ.
“Theo kết luận từ pháp y và đội kĩ thuật hình sự, các vụ án này có chung phương thức gây án: nhân lúc nạn nhân bận lấy chìa khóa mở cửa chống trộm và cửa nhà, hung thủ bất ngờ nện búa sắt vào sau đầu nạn nhân cho ngất đi, vác vào nhà thực hiện hành vi cưỡng hiếp, sau đó sát hại. Nhưng dường như mọi người đều bỏ qua một vấn đề, chính là thời gian gây án…”
Đỗ Kiến Bình ngắt lời, “Ban nãy nói rồi còn gì, thời gian gây án hầu hết đều sau 10 giờ tối, mục tiêu là những cô gái sống một mình và về nhà muộn.”
“Ý tôi là khoảng thời gian từ lúc hung thủ xuất hiện đằng sau nạn nhân cho đến khi dùng hung khí hành hung.” Lý Chí Dũng chuyển trang trình chiếu sang tấm hình muốn trình bày.
“Mọi người xem, cả ba hiện trường đều nằm trong chung cư cao không quá sáu tầng, một ở tầng ba, còn lại đều tầng bốn. Tôi đã kiểm tra tận nơi, mấy tòa nhà này đã cũ, xây theo kết cấu gạch trát xi măng, nhưng hành lang lắp loại đèn cảm ứng cực nhạy. Như vậy, khi nạn nhân về đến nhà vào khoảng 10 giờ, đèn cảm ứng chắc chắn vẫn sáng suốt quãng đường nạn nhân đi lên cầu thang tiến đến trước cửa nhà mình, đúng không?”
Mọi người gật lấy gật để nhưng chẳng hiểu gì. Chỉ mình Lâm Hương Minh là hai mắt sáng lên. Lý Chí Dũng nhìn thấy nhưng vờ không biết.
“Đèn cảm ứng đang bật nên hành lang hẳn phải rất sáng, trong trường hợp đó, tại sao nạn nhân không phản kháng theo bản năng khi bị hung thủ tấn công?” Lý Chí Dũng cầm báo cáo khám nghiệm tử thi lên, chi vào một dòng chữ, “Mọi người xem đi, báo cáo khám nghiệm tử thi viết rõ, vết thương đầu tiên của nạn nhân nằm ở sau đầu, da đầu rách thành hình ngôi sao, xung quanh có vết bầm hình tròn mờ dần từ ngoài vào trong, xương sọ lõm xuống đồng thời rạn nứt… Nhưng bàn tay, cánh tay hay vai của cả ba nạn nhân đều không có vết thương do chống cự, không một ai có! Thế là tại sao?”
“Chắc do sự việc xảy ra đột ngột, họ quá sợ hãi nên không kịp chống cự?” Đỗ Kiến Bình đoán.
“Suy đoán đó chỉ hợp lý với nạn nhân đầu tiên thôi. Vừa có người thiệt mạng, ta đã lập tức cảnh báo người dân thông qua tổ dân phố của từng phường và khu dân cư. Hơn nữa trong quá trình điều tra, ta còn biết nạn nhân thứ hai sống một mình và đã được tổ trưởng tổ dân phố đến tận nhà nhắc nhở, nạn nhân thứ ba càng không cần nói thêm… Làm gì có chuyện họ không cảnh giác?”
Lý Chí Dũng lại chuyển trang trình chiếu về ảnh hiện trường.
“Mời mọi người xem lại hành lang nơi xảy ra án mạng. Hành lang trong chung cư kiểu cũ này có rất nhiều cầu thang, chiếu nghỉ thường chất chồng chai lọ hoặc dựng xe đạp, không có chỗ ẩn nấp. Nếu hung thủ bất chợt tấn công, dù hắn xông lên từ tầng dưới hay lao xuống từ tầng trên, nạn nhân đều có thời gian chống cự. Đây chính là ‘thời gian gây án’ mà ban nãy tôi bảo mọi người đã bỏ qua.”
Một cảnh sát nêu ý kiến, “Đèn cảm ứng chỉ sáng trong khoảng thời gian nhất định. Giả dụ hung thủ đợi đèn tắt rồi cởi giày, chỉ đi tất để lên xuống cầu thang tấn công nạn nhân thì sao?”
“Đây là chung cư kiểu cũ, khung cửa chống trộm và cửa nhà đã biến dạng, phát ra tiếng động rất lớn lúc đóng mở, đủ để ‘đánh thức’ đèn cảm ứng. Vả lại nếu đang mở cửa mà hành lang đột nhiên tối đi, ta thường giẫm chân cho đèn sáng trở lại để còn cắm đúng chìa vào ổ. Quan trọng nhất, bên kĩ thuật hình sự thu thập được vết giày tiếp nối trên hành lang, nghi do hung thủ để lại, nghĩa là không có chuyện hắn cởi giày, chỉ đi tất để tấn công.” Lý Chí Dũng đáp.
Một đồng chí đội kĩ thuật hình sự ngồi bên cạnh bổ sung, “Những dấu giày này chứng tỏ hung thủ đã bám theo nạn nhân từ ngoài cửa chung cư, sau đó mới thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra chúng tôi quan sát thấy, từ lúc hung thủ lên tầng cho đến khi tiếp cận nạn nhân, dấu giày của hắn không đột ngột nhỏ lại, hẹp đi, cũng không có dấu hiệu giảm mạnh xuống hay bước thưa hơn, tức là hắn không hề xông đến tấn công bất ngờ mà đi một cách rất bình thường…”
“Điều này một lần nữa chứng tỏ có khả năng nạn nhân đã nhìn thấy hung thủ, không những thế hung thủ còn là người quen, nạn nhân thấy yên tâm nên mới mất cảnh giác.”
Dứt lời, Lý Chí Dũng để ý thấy Lâm Hương Minh khẽ gật đầu. Chẳng hiểu sao cái gật đầu này khiến lòng anh thầm vui.
“Vào 10 giờ tối, trên hành lang sáng đèn, hung thủ tiếp cận nạn nhân, nạn nhân nghĩ hắn là người quen nên không đề cao cảnh giác… Đây cũng có thể là nguyên nhân khiến nạn nhân thiệt mạng, đã quen biết mà không muốn bị tố giác thì chi còn cách diệt khẩu.” Đỗ Kiến Bình lẩm bẩm, ngẩng lên nhìn Lý Chí Dũng. “Từ suy luận của cậu, phương hướng điều tra có thay đổi gì không?”
Lý Chí Dũng đáp, “Tôi cho rằng hung thủ và nạn nhân có mối quan hệ thân thiết mà người khác không biết, như họ hàng, người tình, bạn học cũ chẳng hạn. Nếu tiến hành điều tra người quen chung của cả ba nạn nhân, tôi tin sẽ nhanh chóng có manh mối!”
Lúc này, Lý Chí Dũng để ý thấy Lâm Hương Minh kín đáo lộ vẻ thất vọng. Lòng anh nguội đi phân nửa, “Chẳng lẽ mình nói sai?” Anh về chỗ, uống một cốc trà nóng đầy ự mà lòng dạ chẳng ấm lên. Vì vậy sau buổi họp, khi Đỗ Kiến Bình bảo phải “học hỏi Lâm Hương Minh”, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu anh là, “Tiện thể hỏi cậu ta xem rốt cuộc mình sai chỗ nào?”
⚝ ⚝ ⚝
Loạt án giết người ở Tây Giao xảy ra vào tháng Chín năm 2008 với tình tiết đẫm máu, thủ đoạn gây án tàn nhẫn, quỷ quyệt cùng thách thức nan giải khi phá án, đã để lại vết đen trong lịch sử điều tra hình sự của Trung Quốc.
Loạt án này có tổng cộng bốn vụ, nối bốn hiện trường với nhau trên bản đồ thành phố sẽ tạo thành hình tứ giác nằm phía Tây Bắc. Tứ giác bắt đầu với vụ án xảy ra trên tầng bốn một tòa chung cư trong khu dân cư Thành Ngung. Nạn nhân tên Dương Hoa, hai mươi tám tuổi, nhân viên một sàn giao dịch chứng khoán trong thành phố, sống một mình, có thân hình đẫy đà nhưng diện mạo không quá xinh đẹp.
Ngày xảy ra án mạng, đáng lẽ Dương Hoa phải đi làm nhưng mãi không đến, đồng nghiệp gọi vào di động thấy có kết nối nhưng không ai nghe máy. Công việc ở sàn giao dịch rất bận rộn, quản lý chỉ vội vàng tìm người làm thay chứ không nghĩ đến việc tìm cô, cộng thêm sau đó có vài đồng nghiệp cho biết “(Hoa) rất thích đi hộp đêm sau khi tan làm, chẳng rõ nốc rượu xong ngủ ở đâu, hôm sau nghỉ làm không xin phép là chuyện bình thường”, vì thế không ai lường đến chuyện cô gặp bất trắc.
Sau đó cảnh sát điều tra ra, lý do Dương Hoa thường xuyên tự ý nghỉ làm mà không bị đuổi việc là vì có quan hệ nam nữ không trong sáng với giám đốc Tôn của sàn giao dịch. Người đầu tiên phát hiện cô bị giết cũng chính là ông giám đốc béo núc ních này.
Tan làm hôm đó, ông Tôn tìm Dương Hoa lén lút hẹn hò, nhưng gọi di động không ai bắt máy nên ông ta đến thẳng nhà tìm. Lúc đứng trước cửa lấy chìa khóa, ông ta phát hiện cửa chống trộm khép hờ còn cửa gỗ bên trong không khóa, dỏng tai nghe ngóng chỉ thấy trong nhà im phăng phắc. Cảm giác bất an ập đến, đương nhiên chẳng phải vì lo Dương Hoa gặp chuyện không may, mà vì ông ta sợ bà vợ phát hiện mình ngoại tình, đang chờ sẵn trong nhà để bắt quả tang. Thế là ông ta không vào nhà nữa, quay người bỏ xuống tầng.
Giám đốc Tôn không thể ngờ, khi hối hả ra khỏi cổng chung cư, ông ta đã bị bạn thân của Dương Hoa trông thấy. Cô bạn này cũng là nhân viên sàn giao dịch chứng khoán, lo Dương Hoa ngã bệnh nên mua sữa và trái cây đến thăm, đúng lúc ấy bắt gặp ông Tôn. Khu nhà tù mù thiếu sáng, ông Tôn đang chột dạ nên cứ rụt đầu trong cổ áo khoác, không để ý người đang đi tới là cấp dưới của mình. Cô bạn biết quan hệ giữa giám đốc và Dương Hoa, nhưng mấy chuyện ngoại tình nói ra chẳng hay ho gì nên cô ta ngại chào hỏi, chỉ đi lướt qua.
Cô bạn lên tầng, thấy hai cửa đều không khóa bèn đi thẳng vào. Trong căn phòng tối đen và im ẳng, mùi hôi tanh xộc thẳng lên mũi, cô chợt nảy ra ý nghĩ kì lạ “Mua thịt về sao không cho vào tủ lạnh”, sau đó mới sờ soạng tìm công tắc bật đèn lên. Chung cư kiểu cũ nên phòng khách vừa nhỏ vừa hẹp, chỉ đủ chỗ cho một tủ lạnh và một bàn ăn. Cô bạn gọi tên Dương Hoa, đi vào phòng ngủ chính để kiểm tra. Phòng này cũng không bật đèn, nhưng vẫn lờ mờ nhìn ra được hình bóng phụ nữ khỏa thân trên giường. Cô bạn hơi ngại, cho rằng Dương Hoa và ông Tôn vừa xong chuyện, chưa mặc lại quần áo. Chỉ đến khi lùi khỏi phòng ngủ chính, cô mới nhận ra mùi tanh đúng là bốc ra từ người trên giường. Cô sợ nhũn cả người, không dám đến gần nhìn kĩ xem Dương Hoa còn sống hay chết, cứ thế loạng choạng chạy đi, ra khỏi tòa nhà mới gọi điện báo cảnh sát.
Theo băng ghi âm cuộc gọi của tổng đài 110, câu đầu tiên cô này nói là: “Các anh đến đây giúp tôi với, hình như bạn tôi bị giết rồi!”
Kết quả điều tra hiện trường vụ án cho thấy: Dương Hoa bị sát hại trong khoảng từ 10 rưỡi đến 11 giờ tối hôm trước, nồng độ cồn trong máu khá cao. Có nhân chứng xác nhận tối đó cô uống khá nhiều rượu ở quán rượu gần nhà, khi rời đi còn bước không vững. Lúc đứng trước cửa nhà tìm chìa khóa, đột nhiên cô bị đập một phát chếch phía sau. Từ vết thương sau đầu, có thể nhận định hung khí là búa sắt. Chuyên viên pháp y phụ trách khám nghiệm tử thi xác nhận, Dương Hoa gần như chết ngay tức khắc vì lực đập quá mạnh. Tiếp theo đó, hung thủ bế cô vào nhà, thực hiện hành vi cưỡng bức hay nói thẳng ra là cưỡng hiếp xác chết. Làm xong hắn ung dung bỏ đi, chỉ khép hờ cửa nhà và cửa chống trộm.
Điều khiến cảnh sát ngỡ ngàng là hung thủ không để lại bất kì chứng cứ nào làm lộ thân phận: không tìm được dấu vân tay vì hắn đeo găng tay suốt quá trình gây án; không có máu, tóc, da hay khuy áo quần rơi lại vì hắn chỉ nện một nhát đã khiến nạn nhân tử vong, không xảy ra vật lộn; không tìm ra tinh dịch trong cơ thể nạn nhân bởi hắn đeo bao cao su khi thực hiện hành vi cưỡng hiếp, sau đó mang khỏi hiện trường. Đáng sợ hơn cả, âm hộ của thi thể Dương Hoa cùng khu vực ga trải giường xung quanh đều có dấu vết bị đốt, có lẽ bằng đèn khò cầm tay. Ban đâu, cảnh sát suy đoán đây là hành vi biến thái của hung thủ nhằm làm nhục thi thể, để rồi không khỏi rùng mình ớn lạnh khi vỡ lẽ, hung thủ làm vậy hoàn toàn có tính toán: hắn quyết tâm không để lại dù chỉ một sợi lông mu để cảnh sát lấy làm chứng cứ!
Người phụ trách chính vụ án này là Đỗ Kiến Bình, đội trưởng đội cảnh sát hình sự khu vực. Ông nhạy bén nhận ra việc hung thủ lấy điện thoại, ví tiền và dây chuyền của Dương Hoa chỉ là thủ thuật che mắt nhằm đánh lạc hướng cảnh sát, biến động cơ gây án thành cướp tài sản là chính, cưỡng hiếp là phụ.
Với kinh nghiệm dày dạn, ngay từ đầu, Đỗ Kiến Bình không cho rằng nạn nhân chết do mâu thuẫn tình cảm, nên loại ngay giám đốc Tôn khỏi diện tình nghi dù có người thấy ông ta ra vào hiện trường. Vô số vụ án điển hình đã chỉ ra, hiện trường những vụ giết người vì tình luôn thể hiện hai cảm xúc mâu thuẫn dành cho nạn nhân là hận và yêu. Ví dụ, hung thủ sẽ đâm nhiều nhát dao, nhưng cẩn thận che phủ vị trí nhạy cảm của nạn nhân, chứ không bao giờ đập chết bằng một nhát búa rồi cưỡng hiếp tử thi, đốt cháy âm hộ, bỏ mặc thi thể nằm lõa lồ. Suy ra, đây chắc chắn là vụ cưỡng hiếp giết người nhằm thỏa mãn dục vọng thú tính.
Mà hành động phạm tội kiểu này hiếm khi xảy ra một lần.
Sau khi xin ý kiến cấp trên và được phê duyệt, Đỗ Kiến Bình quyết đoán đưa ra ba chỉ thị. Thứ nhất, thành lập tổ chuyên án điều tra do mình làm tổ trưởng. Thứ hai, tổ chức họp báo, công khai với truyền thông một vài thông tin vụ án, yêu cầu họ phối hợp đưa tin cảnh báo, nhắc nhở người dân trong thành phố chú ý an toàn. Thứ ba, thông báo cho tất cả lực lượng an ninh và dân quân tự vệ của 5 phường cùng 72 khu dân cư xung quanh Thành Ngung tích cực và chủ động phòng bị. Với nữ giới độc thân sống một mình, tổ dân phố cần thực hiện đủ hai việc: gặp mặt nói chuyện và trực tiếp nhắc nhở. Vài lãnh đạo lo lắng chỉ thị thứ hai và thứ ba có thể dấy lên hoảng loạn trong công chúng, Đỗ Kiến Bình không giữ kẽ mà văng tục, “Đã chết người rồi còn sợ cái mẹ gì nữa!”
Đỗ Kiến Bình ý thức được vấn đề cần kíp lúc này là phải tranh thủ từng giây phút để dựng bức tường phòng vệ vững chãi trước khi hung thủ tiếp tục gây án. Nhưng nhanh đến mấy, cảnh sát vẫn chậm một bước. Ba ngày sau khi Dương Hoa bị hại, vụ án thứ hai xảy ra. Lần này, địa điểm nằm ở chung cư vắng vẻ thuộc phường Xuân Liễu, nạn nhân họ Ngô, năm nay mới 23 tuổi. Đêm ấy, sau khi xem xong buổi biểu diễn của ban nhạc Wynners trong công viên Điêu Khắc, nạn nhân về đến nhà thì bị đập búa vào sau đầu. Có lẽ khi đó cô chưa chết hẳn, nên sau khi kéo cô vào nhà cưỡng bức, hung thủ đã phang búa liên tiếp lên mặt cô đến nỗi máu thịt tung tóe, não bắn khắp nơi.
Dĩ nhiên, hung thủ vẫn không để lại bất cứ manh mối nào tiết lộ thông tin cá nhân như dấu vân tay, vết máu hay lông tóc. Vùng kín của cô Ngô cũng bị hắn đốt cháy.
Trước cái chết thương tâm thứ hai, các cảnh sát hình sự đều thấy lòng nặng trĩu như đeo đá. Tuy nhiều năm đối diện đủ loại tội phạm, nhiều lúc không khỏi tê dại khi đứng trước xác chết và máu me, nhưng ai tham gia điều tra cũng phải sôi máu trước sự tàn bạo cùng phương thức xử lý hiện trường đầy tính khiêu khích của hung thủ. Cả cảnh sát lẫn giám định viên đều tăng ca không kể ngày đêm, tìm kiếm mọi bằng chứng dù là nhỏ bé nhất còn sót lại ở hiện trường án mạng. Họ dốc sức điều tra từng đối tượng tình nghi, dò theo từng manh mối, dùng dữ liệu lớn để phân tích đặc điểm cá nhân của kẻ phạm tội. Thậm chí Sở Cảnh sát thành phố cũng cử thêm người đến hỗ trợ tổ chuyên án.
Dường như ý thức được tấm lưới truy lùng đang dần siết lại, hung thủ lặn mất tăm, cả tháng trời không gây thêm vụ nào.
Khi đó, Đỗ Kiến Bình giao cho Lý Chí Dũng nhiệm vụ phối hợp với Cao Tiểu Yến, cán bộ phụ trách hộ tịch của đồn cảnh sát Xuân Liễu, cùng điều tra quan hệ gia đình và xã hội của hai nạn nhân. Cao Tiểu Yến mới đi làm chưa lâu, là một cô gái tóc ngắn lanh lợi, người nhỏ gầy, tướng mạo rất bình thường, có tiếng cười nghe như tiếng chuông gió reo. Cô và Lý Chí Dũng làm việc khá ăn ý, một người gặp ai cũng cởi mở thân thiện, cười cười nói nói một lúc là moi được cả đống “nội tình”; người còn lại lặng lẽ nhưng ghi chép rất cẩn thận, có sở trường suy xét và phân tích. Bận rộn gần một tháng ròng vẫn chưa bắt được cái bóng của hung thủ, nhưng hai người đã trở thành đôi bạn thân thiết.
“Em bảo này!” Một buổi chiều nọ, Cao Tiểu Yến đang ăn mì cùng Lý Chí Dũng ở quán ven đường thì lên tiếng. “Anh chịu khó rửa mặt cạo râu, thay bộ quần áo sạch sẽ thì chết à? Cả mái tóc bù xù của anh nữa, không chịu cắt cũng chẳng chịu gội, gà mẹ đẻ trứng cũng chẳng thèm làm ổ trên đó đâu!”
Lý Chí Dũng ngại ngùng, “Tại anh bận quá…”
“Thôi bớt đi! Ai chẳng bận?” Cao Tiểu Yến khịt mũi khinh thường. “Không phải vì anh quá bận, mà là quá lười! Cô nào ưng anh cầm chắc xui tám đời!”
Lý Chí Dũng sờ sờ chóp mũi dày của mình, “Thì vậy nên anh chưa bao giờ mong có người để mắt đến…”
“Dẹp!” Cao Tiểu Yến chọc đũa vào bát mì. “Mai mốt phải sửa soạn tử tế mới được ra ngoài với em, bằng không em mất mặt lắm!”
Làm việc với nhau gần một tháng, cớ gì bây giờ mới nhắc mình phải chú ý hình tượng? Lý Chí Dũng ngơ ngác nhưng vẫn đồng ý.
Ăn xong ai về nhà nấy. Đến cổng nhà, Lý Chí Dũng định lên tầng mới bừng tỉnh. Anh quay gót đi đến tiệm cắt tóc trong khu, ngồi xuống nói với anh thợ, “Cắt ngắn ngắn cho tôi.”
Nhìn đầu Lý Chí Dũng, anh thợ không dám động tay vào, khó xử hỏi dò, “Anh này… hay là gội đầu đã nhé.”
“Được!” Lý Chí Dũng đồng ý để anh thợ gội cho mình, xong xuôi lại ngồi xuống trước gương. Anh thợ vừa cắt vừa khuyên nên để đầu đinh, “Lâu bẩn mà gội cũng tiện.” Lý Chí Dũng đồng ý luôn, thế là sau một hồi cắt cắt tỉa tỉa, Lý Chí Dũng trong gương chẳng khác nào chàng rể ngố lần đầu đến thăm nhà vợ. Anh hí hửng nghĩ, “Để xem ngày mai Tiểu Yến còn nói gì được?”
Thế nhưng, Cao Tiểu Yến không bao giờ còn cơ hội bày tỏ ý kiến về bề ngoài của anh nữa, bởi cô đã trở thành nạn nhân thứ ba trong loạt án giết người ở Tây Giao.
Thật ra Cao Tiểu Yến hoàn toàn có thể tránh khỏi tai họa, nếu cô về nhà ngay sau khi chia tay Lý Chí Dũng thì sẽ không gặp nạn. Nhưng theo đồng nghiệp nhớ lại, tối đó cô bất ngờ quay về đồn lúc 8 giờ hơn. Có người hỏi cô tới làm gì, cô đáp gần đây bận điều tra với tổ chuyên án, chưa xử lý xong hồ sơ của phạm nhân mãn hạn tù nên quay lại tăng ca. Xong việc, cô chấm công trong phòng thường trực lúc 11 giờ 10 phút đêm và ra về.
Nhà Cao Tiểu Yến cách đó không xa, diễn biến trước lúc cô thiệt mạng cơ bản là: rời đồn cảnh sát, mất nhiều nhất mười phút đạp xe về đến chung cư, lên tầng, mở cửa nhà, bị hung thủ phang búa sắt vào sau đầu và ngất tại chỗ. Nhưng lúc bị hung thủ kéo vào trong, cô đột nhiên tỉnh lại, dũng cảm giằng co với hắn một hồi, cuối cùng vẫn bị giết chết. Cuộc vật lộn của cô chỉ làm vỡ bể cá thủy tinh đặt trên kệ trong phòng khách, dường như không giúp ích gì cho việc phá án…
Trong lễ truy điệu Cao Tiểu Yến, Lý Chí Dũng khóc lóc thảm thiết, các đồng nghiệp cũng lặng lẽ rơi nước mắt. Với họ, tất cả những người vào sinh ra tử để bảo vệ hạnh phúc nhân dân và sự bình yên của xã hội đều là chiến hữu, là anh chị em thân thiết. Đôi lúc, đồng đội hi sinh còn đau đớn hơn việc người thân qua đời. Cái chết của Cao Tiểu Yến phủ bầu không khí ảm đạm và hoang mang chưa từng có lên công tác điều tra. Toàn bộ thành viên tổ chuyên án bao gồm cả Đỗ Kiến Bình đều ủ rũ mất tinh thần, câu “báo thù cho đồng đội” mà họ hô trong lễ truy điệu cũng rất yếu ớt. Đúng vậy, cuộc truy bắt giữa cảnh sát và tội phạm có thể ví như cuộc đi săn, nhưng lần này thì sao? Đến cái bóng của loài sài lang còn chưa thấy đâu mà thợ săn đã hi sinh, nhưng không phải hi sinh vì đuổi theo dấu vết con sói, mà vì chính thợ săn đã trở thành con mồi của sói…
Sau lễ truy điệu, ngọn gió cuối thu lạnh lẽo cuốn theo lời nói của một cảnh sát đến bên tai mỗi người tới phúng viếng. Câu nói tuy tục tằn song chứa ẩn ý thâm sâu, chẳng rõ đang chỉ người con gái như hoa như ngọc ra đi quá sớm, hay ám chỉ cuộc điều tra đâm vào ngõ cụt, cũng có thể đang chỉ chút rung động dang dở giữa đôi nam nữ Lý Chí Dũng và Cao Tiểu Yến.
“Mẹ nó, còn chưa bắt đầu đã kết thúc rồi.”
⚝ ⚝ ⚝
Cầm đèn pin soi, Lâm Hương Minh xem xét bóng đèn hồi lâu, đoạn sờ bề mặt bóng, vê vê ngón tay rồi nhảy xuống khỏi chiếc ghế cũ.
Lý Chí Dũng đứng dậy, nhìn cậu với vẻ khó hiểu, “Cậu làm gì thế?”
“Xem thử xem có ai vặn cái đèn này không.” Lâm Hương Minh đáp. “Dù rất tán thành suy luận của anh về lý do nạn nhân không cảnh giác trước khi bị tấn công, tôi vẫn cảm thấy chưa đủ chặt chẽ. Giả sử trước khi gây án, hung thủ đã biết nạn nhân ở tầng mấy, số nhà nào, sau đấy vặn lỏng bóng đèn tầng đó, nấp trong góc tối chờ nạn nhân trở về vào ban đêm rồi bất ngờ tấn công, khi đó nạn nhân đúng là không thể đề phòng. Gây án xong, hắn chỉ việc vặn chặt lại bóng đèn là cảnh sát sẽ lầm tưởng đèn vẫn sáng khi hắn ra tay. Từ đó, cảnh sát sẽ bỏ qua dấu vân tay trên bóng đèn hoặc dấu vết hung thủ để lại chỗ ẩn ấp trên hành lang. Nhưng xem ra hắn không vặn lỏng bóng, có nghĩa kết luận của anh vẫn đúng, hẳn quả thật là người có thể khiến nạn nhân buông lỏng cảnh giác.”
Sau buổi họp án đầu tiên, trong khi Đỗ Kiến Bình dặn các thành viên tổ chuyên án phải “hướng dẫn” người mới, thì Lâm Hương Minh lại làm việc độc lập. Cậu âm thầm kiểm tra kĩ lưỡng hiện trường và khu vực xung quanh, thức trắng đêm xem đi xem lại báo cáo khám nghiệm hiện trường, báo cáo khám nghiệm tử thi từ bên pháp y, bản ghi chép lời khai nhân chứng và những hình ảnh liên quan trong cả ba vụ án, tiếp đó lại đến hiện trường kiểm tra thêm lần nữa. Lần này, cậu gặp Lý Chí Dũng râu ria lởm chởm ngồi ngẩn ngơ trước cửa nhà Cao Tiểu Yến. Không thèm để ý đến anh, cậu lảng lặng lấy cái ghế cũ trên hành lang, trèo lên sờ thử bóng đèn.
Nhờ câu trả lời của Lâm Hương Minh, thần kinh luôn căng thẳng của Lý Chí Dũng giờ mới thả lỏng đôi chút, nhưng nỗi đau trong tim vẫn hành anh rệu rã.
“Tại tôi cả, nếu tôi đưa cô ấy về nhà tối đó thì đâu đến nỗi…”
Dợm bước xuống cầu thang, Lâm Hương Minh bỗng thu chân về. Cậu nhìn Lý chí Dũng, hỏi, “Anh giết chị Cao Tiểu Yến à?”
Lý Chí Dũng sững sờ, “Không…”
“Vậy thì làm việc thôi.”
Tự nhiên Lý Chí Dũng thấy được tiếp thêm năng lượng, hoặc do Lâm Hương Minh tỏa ra từ trường mạnh mẽ, hút lấy và buộc anh phải đi theo… Cậu sinh viên trẻ tuổi này tuấn tú nhưng sầu muộn, khắp người như phủ quầng sáng mờ ảo tựa ánh trăng trong đêm trước giông bão. Anh tin chắc cậu sở hữu năng lực siêu nhiên, có thể nhìn thấu và hiểu rõ tất cả những gì bị giấu giếm, che đậy hay chôn vùi trong bóng đêm, càng tối cậu càng thấu suốt. Với những kẻ chỉ tỉnh ngộ khi chuyện đã rồi, cậu không thay đổi được hiện thực nhưng có thể giúp họ thấu tỏ nguồn gốc nỗi đau. Nhiều người tu luyện cả đời chẳng tiên đoán vận mệnh nổi một lần, vậy mà Lâm Hương Minh bẩm sinh đã dễ dàng làm được.
“À này, trong buổi họp lần trước, hình như cậu không tán thành phương hướng điều tra sau cùng mà tôi đề xuất?” Lý Chí Dũng cố ý lớn giọng để che giấu sự chột dạ. Anh tin mình sai, nhưng vẫn muốn biết mình sai ở đâu.
Lâm Hương Minh im lặng một lát mới nói, “Nhiệm vụ của anh và chị Yến là điều tra mối quan hệ xã hội của hai nạn nhân đầu tiên, nhất là tìm hiểu xem họ có cùng quen ai không. Chị Yến vốn tính thẳng thắn, nếu có chung bạn bè người quen với nạn nhân, tại sao chị ấy không nói cho anh biết?”
Như được ánh sáng trí tuệ chiếu rọi, Lý Chí Dũng bừng tỉnh.
Nhưng điều khiến anh kinh ngạc còn ở phía sau.
Ngày hôm sau lại có buổi họp phân tích vụ án. Chủ đề cuộc họp là xây dựng hồ sơ tội phạm (phác họa đặc điểm) của hung thủ dựa trên chứng cứ và manh mối hiện có. Theo lý thuyết đây là chuyên môn của Lâm Hương Minh, nhưng Đỗ Kiến Bình vẫn coi cậu là “sinh viên thực tập”, tiếp tục để cậu ngồi nghe, thay vào đó yêu cầu một cảnh sát lão làng của tổ chuyên án là Sài Vĩnh Tiến tiến hành phác họa.
Sài Vĩnh Tiến cực kì lắm lời, vừa hút thuốc vừa lật tài liệu soàn soạt, nói một chốc lại ngừng, lải nhải hơn nửa tiếng mới xong. Anh ta cho rằng đối tượng tình nghi có các đặc điểm: tuổi dưới hai mươi, thân hình cao lớn, có khuynh hướng bạo lực nghiêm trọng, nhiều khả năng từng lao động cải tạo vì tội cưỡng hiếp hoặc ẩu đả, tương đối có kinh nghiệm đối phó với lực lượng chức năng.
Sài Vĩnh Tiến còn nhấn mạnh điều mình tâm đắc nhất bằng giọng không cho phép nghi ngờ, “Đối tượng không thường trú ở đây, không có nghề nghiệp ổn định, sống dưới tầng hầm trong thời gian dài, cần tiếp tục mở rộng phạm vi điều tra trên cơ sở nhóm người tình nghi. Chẳng hạn, tăng cường theo dõi và điều tra ngầm những ngôi làng nội đô phía Nam Tây Giao, nếu cần thì điều tra từng người sống tại đó.”
Cảnh sát hình sự ngồi quanh bàn dài trong phòng họp gật gù ghi chép. Chờ Sài Vĩnh Tiến nói xong, Đỗ Kiến Bình đưa ra nhiệm vụ. Thứ nhất, yêu cầu các cơ quan liên quan như trại cải tạo trẻ vị thành niên, trại tạm giam và trại giam thành phố phối hợp cung cấp hồ sơ về tội phạm bạo lực tình dục còn trẻ đã ra tù trong hai năm trở lại đây để sàng lọc. Thứ hai, cử một số cảnh sát bao gồm Lý Chí Dũng đến khu làng nội đô phía Nam Tây Giao mở rộng điều tra. Sắp xếp xong xuôi, Đỗ Kiến Bình mới hỏi Lâm Hương Minh lấy lệ, “Cậu có ý kiến gì không? Không có thì ta…”
Đỗ Kiến Bình chưa kịp thốt ra hai tiếng “giải tán”, Lâm Hương Minh đã hỏi, “Đồng chí Sài Vĩnh Tiến có thể giải thích căn cứ của hồ sơ tội phạm anh vừa trình bày không?” Giọng cậu vẫn ôn hòa nhưng thái độ vô cùng cứng rắn.
Lý Chí Dũng vừa gấp sổ vào đã phải ngẩng mặt lên nhìn Lâm Hương Minh. Đỗ Kiến Bình và các cảnh sát đều sững sờ, dường như đây là lần đầu tiên họ phát hiện cậu thanh niên nho nhã này còn có vẻ mặt khác.
Dụi điếu thuốc hút dở vào gạt tàn, Sài Vĩnh Tiến nhìn sang Đỗ Kiến Bình nhưng chỉ nhận về ánh mắt tránh né. Ngầm hiểu mình buộc phải trả lời hẳn hoi, anh ta ngồi thẳng lưng dậy, “À, là thế này, chúng tôi lấy được dấu giày trong phòng nạn nhân và ngoài hành lang bằng máy hút tĩnh điện cao áp, nghi là của hung thủ. Cậu biết đấy, chúng ta có công thức ước lượng tuổi thực dựa trên dấu giày…”
“Cái này có thể ngụy tạo, vả lại ngày nay tuổi thể chất và tuổi thực của con người cách biệt rất lớn, không hiếm trường hợp người hai mươi tuổi có thể chất của năm mươi tuổi và người ngoài năm mươi có thể chất vẫn như hai mươi.” Lâm Hương Minh phản bác. “Anh cho rằng đối tượng chưa đến hai mươi tuổi, nhưng người trong độ tuổi này chưa thực sự hoàn thiện về mặt tâm lý. Những án lệ trước kia đã chứng minh, dù kinh nghiệm đến mấy thì khi gây án ở tuổi dưới hai mươi, sát nhân vẫn có hành vi đặc trưng như căng thẳng và hoảng loạn. Nhưng bằng chứng thu được ở ba hiện trường đều chi rõ hung thủ có thủ đoạn tương đối điêu luyện và tâm lý đã trưởng thành. Đặc biệt khi tiếp cận nạn nhân, khoảng cách bước chân của hắn không hề mang ‘đặc trưng trước khi gây án’ như ngắn lại hay hẹp đi, mà luôn duy trì ổn định. Vì vậy tôi cho rằng không nên giới hạn tuổi tác của hắn dưới hai mươi.”
Sài Vĩnh Tiến trợn tròn mắt.
Lâm Hương Minh chìa tay phải ra, lòng bàn tay hơi nghiêng và ngửa lên trên, tỏ ý “Mời nói tiếp”.
Sài Vĩnh Tiến căng thẳng thấy rõ. Anh ta lấy gói thuốc lá Ngọc Khê trong túi áo, máy móc rút ra đút vào mãi một điếu thuốc. “Về thân hình của hung thủ, à thì, là thế này, hắn gây án bằng cách đập mạnh búa vào sau đầu nạn nhân, thông thường tội phạm bạo lực như vậy không thể là người gầy gò nhỉ…”
“Đồng chí Tiến, khoa học hành vi có một công thức quan trọng để phác họa đặc trưng hình thể tội phạm giết người hàng loạt, gọi tắt là ‘AB củng cố nhau’, trong đó A: khoảng thời gian gây án tỉ lệ thuận với hình thể của hung thủ; và B: trên cơ sở công thức A, hình thể hung thủ tỉ lệ thuận với hình thể nạn nhân. Nghĩa là, trong quá trình diễn ra hành vi phạm tội, khoảng thời gian từ lúc hung thủ bắt đầu tấn công đến khi đánh gục nạn nhân càng ngắn thì hung thủ càng thấp bé; ngược lại, khoảng thời gian hung thủ vật lộn với nạn nhân càng dài thì hung thủ càng cao lớn. Trên cơ sở này, nếu nạn nhân nhỏ con thì hung thủ cũng nhỏ con, nếu nạn nhân cao to thì hung thủ chắc chắn cũng cao to.”
Lý Chí Dũng hiểu ngay ý, buột miệng xen vào, “Khoảng thời gian gây án ngắn chứng tỏ hung thủ chọn cách đánh lén, cũng có nghĩa hắn đánh giá thấp thể lực và sức mạnh của bản thân, sợ không đánh gục được nạn nhân ngay tức thì nên bắt buộc phải ra tay từ đằng sau hoặc tấn công bất ngờ.”
Lâm Hương Minh nhìn anh, gật đầu. “Ngược lại với phim ảnh, rất hiếm nạn nhân bị hung thủ ác ôn khống chế trong tích tắc. Dù gặp phải kẻ cưỡng hiếp khỏe như Tyson, phụ nữ vẫn sẽ vùng lên chống cự bằng bản năng sinh tồn. Bất kể nạn nhân có thân hình ra sao, đối tượng chúng ta đang truy bắt đều đánh lén họ từ sau lưng, cố gắng hạ gục bằng một đòn, không cho họ cơ hội đánh trả, chứng tỏ hắn không quá to cao.”
Sài Vĩnh Tiến hoàn toàn nhụt chí, mãi không đáp trả được câu nào. Đỗ Kiến Bình cảm tưởng mình sắp mất hết mặt mũi đến nơi, “Anh nói tiếp đi, Lâm Hương Minh chỉ đang giúp anh hoàn thiện công việc thôi mà!”
“Thì tôi cho rằng đối tượng này rất thành thạo, có kinh nghiệm nhất định trong việc đối phó với lực lượng chức năng, từ đó suy luận có thể hắn từng lao động cải tạo.” Đang nói lầm bầm, Sài Vĩnh Tiến thoắt cái cao giọng. “Nhưng tôi dám khẳng định đối tượng chỉ là dân tạm trú, không nghề nghiệp ổn định, sống lâu dưới tầng hầm, đây là chuyện chắc chắn.”
Lâm Hương Minh nhìn anh ta, không đáp lại.
“Chắc cậu đọc báo cáo giám định hiện trường rồi, vết giày lấy được ở hiện trường cho thấy đối tượng đi giày thể thao cũ rẻ tiền hãng Dương Phàm, nhiều vết còn lấm tấm nấm mốc. Loại nấm mốc này chủ yếu có trong tầng hầm hoặc tầng bán hầm.”
Sài Vĩnh Tiến nghỉ một lát để lấy hơi, tiếp tục trình bày. “Đồng thời, địa điểm hắn gây án tuy đều ở Tây Giao nhưng nằm rải rác, đêm xảy ra vụ án thứ hai hắn còn chạm trán đội dân phòng. Trong quá trình bị truy bắt, hắn lạ đường nên không chọn đường thẳng mà cư dân hay đi, thay vào đó chạy đường vòng và suýt bị chặn trong ngõ cụt. Điều này chứng tỏ hắn không phải người địa phương. Quay lại chi tiết nấm mốc dính ở vết giày, tôi suy luận hắn là kẻ vô công rồi nghề không thường trú ở đây, cũng tức là ‘dân lang thang’ người ta hay nhắc đến.”
Chuyện Sài Vĩnh Tiến vừa đề cập diễn ra vào đêm xảy ra vụ án thứ hai. Trong lúc tuần tra, đội dân phòng bắt gặp một kẻ có bộ dạng khả nghi ngay tại góc đường cách nhà nạn nhân Ngô khoảng 500 mét. Vì kẻ này dựng cao cổ áo, lại thêm trời thiếu sáng nên đội dân phòng không nhìn rõ mặt mũi hắn. Khi họ tiến đến kiểm tra, hắn bất ngờ bỏ chạy. Đội dân phòng ngây ra một lúc mới đuổi theo nên bị hắn bỏ xa. Lúc tới ngã rẽ, có lẽ do đang cuống, thay vì xông thẳng vào công viên giữa phố cây cối um tùm là có thể cắt đuôi đội dân phòng, thì hắn lại ngoặt sang phải, chui vào một ngõ nhỏ, rẽ ngang rẽ dọc một hồi mới thoát…
Sau khi kiểm tra dấu giày và nấm mốc, giám định viên kĩ thuật hình sự kết luận hắn chính là tên sát nhân hàng loạt.
Miếng ăn đến miệng còn rơi, Đỗ Kiến Bình đau đớn khôn nguôi với cuộc đuổi bắt thất bại. Vì thế, tổ trưởng tổ trị an phường Xuân Liễu là Phòng Chí Phong bị gọi lên mắng té tát. Phòng Chí Phong tuổi đã gần ngũ tuần, nhăn nhó đòi bỏ quách công việc đã vất vả ngày đêm lại còn chẳng có tương lai này. Đỗ Kiến Bình đành xuống nước an ủi ông ta, nhờ thế mới cứu được đội dân phòng đang chán nản khỏi nguy cơ tan rã.
Nghe Sài Vĩnh Tiến trình bày xong, lại nhớ đến cảnh bắt hụt hung thủ, người trong phòng họp đều cho rằng suy luận của anh ta không còn gì để bắt bẻ nữa. Họ đổ dồn ánh mắt sang Lâm Hương Minh như muốn nói, “Lần này hết nước cãi rồi chứ?”
Không ngờ Lâm Hương Minh đứng lên, chuyển trang trình chiếu sang hình ảnh một mảnh đất xanh tươi hình bầu dục, hỏi Sài Vĩnh Tiến.
“Đồng chí nhận ra nơi này không?”
Sài Vĩnh Tiến liếc nhanh, “Có chứ, đây là bãi cỏ đằng trước công viên còn gì?”
Lý Chí Dũng ngẩng phắt lên.
Lâm Hương Minh nhìn Sài Vĩnh Tiến, từ tốn hỏi tiếp, “Đồng chí tự mình đến đấy kiểm tra chưa?”
Sài Vĩnh Tiến chớp mắt hồi lâu, lắc đầu.
“Trong những người ngồi đây, ai đã từng kiểm tra tuyến đường tẩu thoát của hung thủ sau vụ án thứ hai?”
Sau khi Ngô bị sát hại, tổ chuyên án tập trung điều tra kĩ lưỡng quanh hiện trường, đồng thời hỏi thăm một lượt dọc con đường hung thủ thoát thân. Cuối cùng cả tổ vẫn thống nhất: hung thủ chọn con đường này một cách ngẫu nhiên, nói thẳng ra là “chạy bừa”. Đã không có giá trị điều tra sâu hơn thì không cần hao phí nhân lực và sức lực. Còn về mảnh đất xanh trên màn chiếu, đa số cảnh sát đều từng đi ngang qua nhưng không để mắt đến.
Thấy mọi người chỉ biết quay ra nhìn nhau, Lâm Hương Minh lộ vẻ thất vọng.
Đúng lúc này, Lý Chí Dũng giơ tay lên.
Lâm Hương Minh cười. “Được rồi, mời đồng chí Lý Chí Dũng nói cho đồng chí Sài Vĩnh Tiến biết mảnh đất màu xanh hình bầu dục đó thực ra là gì.”
“Đấy không phải bãi cỏ.” Lý Chí Dũng trả lời, “Mà là mảnh đất trống hình bầu dục phủ lưới màu xanh lục.”
Dạo gần đây, thành phố đang quay loạt phim quảng bá hình ảnh. Khổ nỗi, mấy năm nay thành phố đập phá xây sửa liên miên trông chẳng khác nào công trường khổng lồ, nên bây giờ cần được trang trí lại để lên hình cho đẹp, ít nhất khi quay từ trên cao xuống phải có nhiều sắc xanh hơn, không thể để nơi nào trông cũng như đất trọc. Nhưng do hồi đó phương pháp trồng bãi cỏ không cần đất vẫn chưa phổ biến, trải thảm cỏ bằng nhựa lại đắt đỏ, thế là cơ quan y tế và môi trường quyết định phủ lưới xanh lên tất cả những nơi có diện tích đất trống vượt quá 100 m², khi quay phim từ trên không trông cũng ra trò lắm.
Cả phòng họp ồ lên, các cảnh sát rì rầm bàn luận hồi lâu nhưng mặt vẫn không tươi tỉnh hơn.
Đỗ Kiến Bình gõ ngón tay xuống bàn ra hiệu yên lặng, “Tôi chưa hiểu lắm, chỗ đó là bãi cỏ hay không thì liên quan gì đến vụ án của chúng ta?”
“Liên quan chứ.” Lâm Hương Minh điềm tĩnh đáp. “Tôi kiểm tra nơi đó rồi. Loại lưới xanh này có mắt lưới rộng chừng 4 đến 6 centimet, vừa đúng bằng độ rộng mũi giày thể thao hoặc giày da bình thường. Cho nên hung thủ không chạy vào công viên chắc chắn không phải vì hắn không biết đó là chỗ nấp an toàn, mà bởi hắn không muốn vấp ngã vì vướng phải mắt lưới. Từ đó suy ra không phải hắn không rành đường sá, thực chất hắn nắm rõ địa bàn như lòng bàn tay, hắn không hề chọn sai đường trong lúc hoảng loạn bỏ chạy. Thậm chí tôi dám khẳng định, hắn đã sống lâu năm ở địa bàn khu Thành Ngung và phường Xuân Liễu.”
“Biết đâu…” Sài Vĩnh Tiến nghiến răng. “Biết đâu ngay lúc đó hắn đã nhận ra đó là lưới chứ không phải bãi cỏ?”
Lâm Hương Minh quay người nhìn bức hình trên màn chiếu, thở dài, “Hình này được chụp ban ngày mà anh còn không nhận ra, huống chi lúc đó là nửa đêm…”
Tan họp, Lý Chí Dũng và Lâm Hương Minh cùng sóng bước xuống khoảng sân giản dị của đội hình sự. Qua tán cây hòe khô quắt trơ trụi, họ trông lên bầu trời đêm cuối thu xám xịt và đìu hiu như phủ lớp sương mù.
“Hôm nay cậu chỉ phá mà không xây đâu đấy.” Lý Chí Dũng cất lời. “Cậu phản bác sạch sẽ suy luận của Sài Vĩnh Tiến nhưng chẳng đưa ra kết luận nào mới.”
Lâm Hương Minh im lặng, lát sau mới thong thả đáp, “Tình tiết vụ án quá phức tạp, điểm mâu thuẫn và đáng ngờ còn quá nhiều, tôi chưa thể phác họa đối tượng tình nghi một cách chuẩn xác nhất.”
Chẳng rõ vì sợ lạnh hay vì phiền muộn, Lý Chí Dũng đút hai tay vào túi quần, đứng tại chỗ giẫm giẫm lá cây khô, tạo ra những tiếng loạt soạt. “Vụ án mãi chưa tiến triển thêm. Nếu bây giờ hung thủ dừng tay, ngủ đông như gấu, chẳng lẽ chúng ta sẽ không bao giờ bắt được hắn… Không thể để Cao Tiểu Yến hi sinh vô ích vậy chứ?”
“Không một cảnh sát nào hi sinh vô ích.” Lâm Hương Minh khẳng định. “Không bao giờ có chuyện đó.”
Lời của Lâm Hương Minh như một tiên đoán thần kì, không ai ngờ sự hi sinh của Cao Tiểu Yến lại tạo ra bước đột phá quan trọng cho cả vụ án.
Hằng năm, Đại học Cảnh sát sẽ cử sinh viên có thành tích xuất sắc đến đồn cảnh sát, phòng cảnh sát quận và đội hình sự các nơi để “hỗ trợ công việc”. Khác với thực tập, “hỗ trợ công việc” không phải thầy dạy trò như truyền thống mà là giúp đỡ lẫn nhau một cách bình đẳng. Những cảnh sát nhiều năm trong nghề sẽ truyền thụ kinh nghiệm thực chiến quý giá cho sinh viên vừa ra trường còn non nớt và hăng hái, còn các sinh viên dựa vào hiểu biết về kĩ thuật điều tra hình sự tiên tiến của thế giới để giúp đỡ các đồng chí anh dũng chiến đấu tại tuyến đầu thực hiện “chuyên nghiệp hóa, chính xác hóa, số liệu hóa và thông tin hóa” trong công việc chuyên môn.
Trong số đó có một nữ sinh cùng trường nhưng không cùng ngành với Lâm Hương Minh, tên là Lưu Tư Miễu. Nghe nói Lâm Hương Minh đang bận rộn với loạt án giết người ở Tây Giao, cô chủ động đề nghị hỗ trợ phòng kĩ thuật hình sự khu vực và được nhà trường phê duyệt. Sở hữu nhan sắc xinh đẹp ngỡ ngàng, ngày đầu tiên đến làm cô đã gây không ít xôn xao. Cánh đàn ông dù kết hôn hay chưa đều vờ như tình cờ đi qua phòng kĩ thuật hình sự chỉ để liếc nhìn cô. Điều này khiến mọi người hiểu lầm cô là “bình hoa di động”, xinh đẹp nhưng không có năng lực.
Thực tế chứng minh họ đã nhầm to.
Nhiều năm sau, Lưu Tư Miễu trở thành người đi đầu trong nghiên cứu khoa học về giám định hiện trường tại Trung Quốc. Ngay từ thời đại học, cô đã thể hiện đức tính tỉ mỉ và năng lực xuất sắc trong lĩnh vực chuyên môn, nhanh chóng mang lại tia sáng le lói nơi đường hầm tăm tối khi tham gia điều tra loạt án giết người ở Tây Giao.
Toàn bộ quá trình gây án của hung thủ không phải hành vi đơn lẻ, cố định và bị động, mà là một hệ thống phức tạp, biến hóa và chủ động. Ví dụ, một vụ án đột nhập giết người cướp của sẽ diễn ra theo chuỗi hành vi: phá cửa, vật lộn, giết nạn nhân, tìm kiếm tài sản, tiêu hủy vật chứng tiết lộ thông tin cá nhân, cuối cùng là rời đi. Trong quá trình này, vật chứng có giá trị nhất đa phần xuất hiện khi nạn nhân giằng co với hung thủ. Đặc biệt, tội phạm có kinh nghiệm thường đeo găng tay để không lưu lại dấu vân, cùng lắm chỉ để lại dấu giày lúc đá cửa vào, khi đó thông tin về ADN của hắn như tóc và máu chỉ có thể tìm thấy ở kẽ ngón tay và kẽ móng tay nạn nhân.
Thật đáng tiếc, cả ba nạn nhân của loạt án giết người ở Tây Giao gần như đều bị đánh gục ngay tức khắc bởi một nhát búa từ phía sau, mất đi khả năng chống cự, sau đó bị cưỡng hiếp và sát hại. Duy chỉ có Cao Tiểu Yến tỉnh lại trong thời gian rất ngắn, vật lộn với hung thủ và làm vỡ bể cá. Vì thế trong mắt các chuyên viên điều tra và kĩ thuật hình sự, “tương tác” giữa nạn nhân và hung thủ trong vụ án này bằng không.
Nhưng Lưu Tư Miễu lại không nghĩ thế. Như bao công việc khác, công tác giám định hiện trường cũng mang tính chất “chi tiết nhỏ quyết định thành bại”. Chẳng may giám định viên kĩ thuật hình sự sơ suất bỏ qua dù chỉ một chứng cứ vụn vặt cũng dẫn đến nguy cơ để lọt tội phạm. Lưu Tư Miễu thường kiểm tra hiện trường vụ án và khám nghiệm vật chứng kĩ càng đến mức không tài nào tưởng tượng nổi. Ví dụ, khi tham gia điều tra loạt án giết người ở Tây Giao, cô đã kiên quyết yêu cầu phải khôi phục bể cá thủy tinh vỡ nát với lý do “đây là bằng chứng duy nhất chứng minh giữa nạn nhân và hung thủ có tương tác”.
Mảnh vỡ thủy tinh và sợi vải là những vật chứng cỡ nhỏ thường xuất hiện nhất tại hiện trường vụ án. Vì mảnh thủy tinh có khả năng lưu lại dấu v?