Chương 1
Nếu ví cả thành phố như người khổng lồ nằm ngửa thì tuyến tàu điện ngầm hướng Đông-Tây xuyên thành phố chính là xương sống, còn ga núi Chuột Quét vừa khéo là mẩu xương cụt còn sót lại từ chiếc đuôi thoái hóa của loài linh trưởng.
Trên internet đầy rẫy truyền thuyết kì dị thậm chí kinh dị về ga núi Chuột Quét, có cái thật cũng có cái giả. Trước khi kể về vụ án núi Chuột Quét - kì án không tưởng gây chấn động một thời - tôi sẽ giải thích trước để bạn đọc khỏi mơ hồ giữa hiện thực và hư ảo, lầm tưởng tội ác của loài người với sự tàn độc của ma quỷ.
Được xây dựng từ thập niên 70, tuyến tàu điện ngầm xuyên thành phố là một trong những tuyến được khởi công và đưa vào hoạt động sớm nhất cả nước, gánh vác trọng trách đưa đón người dân thành phố suốt hơn bốn mươi năm. Tuyến bắt đầu từ ga đường Anh Đào phía Tây và kết thúc ở ga Tứ Hải Thông phía Đông. Tuy nhiên ga đường Anh Đào chỉ là điểm tàu bắt đầu hoạt động, nói cách khác là điểm bắt đầu đón khách, chứ không phải ga đầu tiên của cả tuyến. Bằng chứng là ga đường Anh Đào có số hiệu nội bộ “Ga 2”, mà trước 2 chắc chắn còn 1. Quả vậy, phía Tây của ga đường Anh Đào vẫn còn ga tàu đánh số 1 ít ai biết đến và chưa từng đưa vào hoạt động, chính là ga núi Chuột Quét.
Những năm 1960-1970, vì yếu tố lịch sử, các đơn vị lớn trong thành phố thi nhau lập nên hàng loạt khu phức hợp quanh khu vực văn phòng trung tâm, tạo thành những khu tương đối khép kín có đầy đủ kí túc xá, nhà ăn, trường học và cả rạp chiếu phim. Hệ thống tàu điện ngầm cũng được đưa vào khu phức hợp xây ngay tại địa bàn núi Chuột Quét. Vì thế, trước năm 2008, khách hàng thân thiết của ga núi Chuột Quét gồm có nhân viên tàu điện, người nhà của họ và các học sinh đi học gần đó. Người ngoài khu tuy không được lên tàu ở đây nhưng vẫn có thể ra cửa soát vé ngó vào trong, bởi vậy nơi đây trở thành điểm đến hấp dẫn cho những kẻ yêu thích thám hiểm thành phố. Cửa soát vé bị che chắn, nhưng không phải bằng vách sắt kín mít mà là bằng vải thưa, người đến “tham quan” có thể nhìn qua vải, song không được vén lên.
Thế là đủ loại bài viết, hình ảnh và video về ga núi Chuột Quét tràn ngập trên mạng. Chỉ một số đúng sự thật, còn lại đa phần là suy đoán bịa đặt. Núi Chuột Quét đã trở thành cái nôi sản sinh ra vô vàn chuyện ma quỷ kì bí của thành phố, trong đó nổi tiếng nhất là truyền thuyết “Ga tàu linh hồn”. Nghe đồn năm xưa trong quá trình xây dựng tuyến tàu, nơi này từng xảy ra hỏa hoạn làm chết hai công nhân. Đến lúc đưa vào hoạt động, chẳng hiểu sao tàu không tài nào rời được khỏi ga núi Chuột Quét. Người ta đành mời một “đại sư” về làm phép. Đại sư đi loanh quanh xem xét một lượt, phán rằng nơi này quá nhiều oán khí của ma quỷ, không thể giải trừ hết. Chi bằng đóng ga lại “dâng tặng” luôn các linh hồn lang thang, chúng sẽ không ra ngoài hại người nữa. Bởi vậy tuyến tàu này mới bắt đầu từ ga đường Anh Đào đánh số 2.
Truyền thuyết này lan truyền rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn tới nỗi được đề cập trong rất nhiều tiểu thuyết huyền bí, được nhiều tác giả khẳng định là có thật. Nhưng các tác giả này đã bỏ qua hai sự thật hiển nhiên. Thứ nhất, đúng là từng có hai người chết cháy, nhưng không phải công nhân ga tàu mà là lính cứu hộ, sự cố xảy ra do hệ thống điện trục trặc dẫn tới chập điện, hơn nữa địa điểm không phải ở ga núi Chuột Quét. Thứ hai, các đoàn tàu điện ngầm không xuất phát từ ga núi Chuột Quét hay ga đường Anh Đào, mà là từ ga Tây Giao. Hằng ngày, tất cả đoàn tàu đều dừng ở đây để kiểm tra, sửa chữa và bảo dưỡng, sau đó xuất phát từ đây nối liền hai đầu Đông-Tây của thành phố.
Ngoài ra còn có truyền thuyết Chuyến tàu chót chở hồn , kể rằng sau chuyến cuối cùng đi hướng Tứ Hải Thông-Anh Đào, còn một chuyến tàu khác về tới ga núi Chuột Quét trước 23 giờ. Chuyến chót vẫn dừng ở các ga theo đúng lịch trình, nhưng khoang nào khoang nấy tối thui, trông hệt con mãng xà đen khổng lồ trườn về phía Tây. Trên tàu có người lái nhưng không có hành khách, bởi nhiệm vụ của nó là “chở hồn”. Số là năm xưa khi xây tuyến tàu điện ngầm này, rất nhiều ngôi mộ bị đào lên khiến các hồn ma mất mộ vô cùng oán hận, chưa kể dưới lòng đất thiếu ánh mặt trời nên nặng âm khí. Đến hôm tàu chạy thử nội bộ, ma quỷ kéo đến quậy phá cả ngày lẫn đêm, dọa nhân viên công ty tàu điện ngầm sợ chết khiếp. Công ty đành mời cao tăng đắc đạo tới làm phép suốt mấy ngày liền, xin ma quỷ nguôi giận, đồng thời dành riêng cho chúng một chuyến tàu trống, trước giờ Tí (23 giờ) mỗi ngày sẽ đưa chúng về nghỉ ngơi ở các ga từng đặt mộ, không nhớ mộ ở đâu thì về hết ga núi Chuột Quét…
Truyền thuyết này quá khôi hài, chẳng khác nào biến ga núi Chuột Quét thành chốn nương thân của ma quỷ. Thứ nhất, chuyến tàu điện ngầm cuối cùng hằng ngày đều rời ga Tứ Hải Thông lúc 23 giờ 40 phút (riêng thứ Sáu là 0 giờ 20 phút), tức đã qua giờ Tí từ lâu. Thứ hai, tuyến tàu được vận hành thử vào ngày 1 tháng Năm năm 1972, ở thời điểm không đơn vị nào dám tổ chức hoạt động mê tín “mời cao tăng về làm phép”. Có điều, đúng là sau chuyến tàu cuối vẫn còn chuyến nữa, nhưng chỉ để đưa nhân viên tàu về nhà, đã thế còn bật đèn sáng trưng như ban ngày suốt quãng đường.
Bàn về nguồn gốc hình thành các truyền thuyết trên, chắc chắn phải nhắc đến cái tên “núi Chuột Quét” kì quái. Nhiều kẻ nông cạn chỉ quan tâm mỗi yếu tố thu hút độc giả, đọc được vài tài liệu nhưng không thèm kiểm chứng đã chế biến lại thành “sự tích”. Họ kể nơi này từng là bãi tha ma chuyên chôn xác bệnh nhân dịch hạch đời nhà Thanh nên mới có cái tên “núi Chuột Quét”. Còn thêm mắm thêm muối rằng, thời kì đầu Dân Quốc, trên núi mở trại tâm thần nhưng rất nhiều bệnh nhân chết thảm không rõ nguyên nhân, đến nay người ta vẫn nghe thấy tiếng oan hồn than khóc mỗi đêm… Những truyền thuyết đồn đại này hệt như nồi thập cẩm xào xáo lại từ các mảnh vụn sự thật.
Muốn biết nguồn gốc cái tên “núi Chuột Quét” phải truy ngược về thời nhà Thanh. Thời ấy có vị đại Nho tên Đậu Vân Hốt, sinh năm Càn Long thứ 52 (năm 1787), từ nhỏ thông minh hiếu học, lớn lên nhận ông tổ phái Đồng Thành là Diêu Nãi làm thầy. Đậu Vân Hốt giao hảo với các bậc học giả như Phương Đông Thụ, Diêu Oánh, Mai Tằng Lượng, thường cùng họ uống rượu, ngâm thơ, ngắm cảnh xướng họa. Nhiều lần lặn lội lên kinh ứng thí nhưng đều không đỗ, ông không khỏi nhụt chí. Cuối đời, ông về quê xây một thư quán trên dãy núi Tây Sơn hoang sơ, đặt tên là Thư Viện Liễu Vô, lấy theo hai chữ trong câu thơ của Diêu Nãi: “Xuất thế liễu vô hương hải giới, trí thân hưu tại bích sa lung”. Ông vừa viết sách vừa dạy học, tới năm Hàm Phong thứ hai (năm 1852) thì lìa trần.
Hồi còn tại thế, những hôm nắng đẹp Đậu Vân Hốt rất thích mang hết sách quý trong thư quán ra phơi. Có học trò lo dân làng trộm sách, ông cười bảo, “Đọc sách là cứu người, cớ gì không phơi!” Câu nói này được lưu truyền hậu thế, từ đấy người ta đặt tên núi là “núi Phơi Sách”.
Lời đồn núi Phơi Sách là bãi tha ma chôn cất bệnh nhân dịch hạch nghe nực cười làm sao. Thời nhà Thanh, trên núi không có bất kì bia mộ nào, nhất là sau khi Đậu Vân Hốt qua đời, núi đã trở thành thánh địa được bao học trò trong nước sùng kính, ai dám dựng mồ dựng mả? Tới thời kì đầu Dân Quốc, trên núi quả thực từng có “trại” nhưng là trại tế bần do các thương nhân trong dân gian góp tiền xây nên, chuyên thu nhận người cô quả chứ chẳng hề có bệnh nhân trại tâm thần. Sau đó chiến tranh nổ ra, núi bị bom đạn tàn phá, thư quán xưa hóa thành “liễu vô” đúng như tên gọi, chỉ còn lại đống đổ nát tan hoang. Người dân vô cùng đau lòng, cảm thấy gọi tên cũ quá bi thương. Thấy trên núi có nhiều sóc - dân gian quen gọi là “chuột quét”, người dân quyết định đổi tên núi thành “núi Chuột Quét”.
Tóm lại, truyền thuyết kinh dị về núi Chuột Quét đa phần toàn bịa đặt bậy bạ. Nhưng người ta có câu: Kẻ chuyên nói chuyện thị phi ắt là kẻ tạo thị phi. Đất đai cũng vậy, những địa điểm thường xuyên xuất hiện trong Liêu trai chí dị và Tử bất ngữ hẳn không phải đất lành, chắc chắn ở đó đã hoặc sẽ xảy ra chuyện ma quái. Núi Chuột Quét hiển nhiên thuộc trường hợp thứ hai. Chính bởi vậy, sau khi xảy ra kì án được nhắc tới trong cuốn sách này, tin đồn thất thiệt về núi Chuột Quét càng được dịp lan truyền rộng khắp.
⚝ ⚝ ⚝
Một buổi sáng tháng Mười hai sau ngày vụ án núi Chuột Quét được phá, tác giả cuốn sách hẹn người bạn cũ Hô Diên Vân cùng tới núi Chuột Quét, mời anh ta kể lại diễn biến kì án chấn động dư luận cùng quá trình phá giải nó. Nhận được lời mời, Hô Diên Vân chưa đồng ý ngay, mà lấy cớ lâu chưa gặp để rủ tác giả lên núi đi dạo.
Chúng tôi gặp nhau tại ga tàu điện ngầm đường Anh Đào. Hô Diên Vân đã 30 tuổi nhưng mặt vẫn non choẹt như mới ngoài 20. Anh ta mặc áo phao ngắn màu đen kiểu Hàn Quốc, quần dài bó sát màu lam sẫm, cổ quấn khăn lông cừu trắng rất đậm chất nghệ sĩ, phong thái già dặn và đầy sức sống. Ánh mắt vẫn trong veo như xưa, chỉ có nét mặt vương nỗi buồn man mác. Tôi tự nhủ, có lẽ anh chưa hoàn toàn thoát khỏi vụ án li kì của hơn một tháng trước.
Ra khỏi cửa A, chúng tôi chờ trước cổng Công ty Phát triển Hạ tầng Đô thị Tây Giao một lúc thì xe buýt đến. Tôi và Hô Diên Vân ngồi cạnh nhau ở hàng ghế đôi phía sau. Trên đường đi, nhìn ra cửa sổ bên phải, tôi thấy xe lướt qua một tháp nước màu xám đặt trên ngọn đồi nhỏ đất vàng sậm, trông hệt lựu đạn cắm ngược vào ụ đất. Ngắm nghía cảnh vật khác biệt hoàn toàn với khung cảnh nội đô, tôi thầm cảm thấy vụ án núi Chuột Quét có sắc thái hoàn toàn khác những vụ án Hô Diên Vân từng phá giải mà tôi biết. Nó khoác trên mình không khí của vùng ngoại vi: hoang dại, quê mùa, bẩn thỉu và tàn bạo, hệt con quái thú lai người với nửa trên là vùng thôn quê hung tợn, nửa dưới là chốn đô thị kì dị, tổng thể trông rõ gớm ghiếc.
Xe buýt chạy chầm chậm trên đường Ngân Lộc. Các bến nằm khá gần nhau, phố xá sạch sẽ, dọc hai bên đường là các tòa nhà đậm nét hiện đại: cửa hàng China Mobile, công ty bảo hiểm, khách sạn Ngôi Sao Cẩm Giang, siêu thị Vật Mỹ… Gần tới khu dân cư Thanh Thạch Khẩu Đông, mặt đường bắt đầu nứt nẻ, đường đi đột ngột thu hẹp như ống phễu. Cao ốc thưa thớt dân, nhường chỗ cho nhà trệt lắp cửa sổ vuông to chia 12 ô có từ thập niên 50-60, hàng rào sắt bên ngoài loang lổ gỉ sét, từ các khe kẽ gạch mọc ra đủ loại cỏ dại…
“Xuống thôi!” Xe vừa dừng là Hô Diên Vân kéo tôi đi.
“Còn chưa đến mà, bến sau mới là núi Chuột Quét.”
“Xuống xe!” Anh ta mặc kệ tôi, cứ thế quẹt thẻ xe buýt. Tôi đành gượng cười đi theo.
Chúng tôi đứng ở đầu cầu đá có lan can cẩm thạch trắng, dưới cầu là kênh dẫn nước rộng lớn của sông Vô Định. Con kênh chảy hướng Đông-Tây cạn khô, trơ ra nền đáy xám đen và đông cứng, điểm xuyết vài tảng băng vụn lấp lánh dưới ánh mặt trời. Phía cực Tây của kênh dẫn nước là núi đồi hẻo lánh, cùng một công trình vuông vắn màu xanh xám với nhiều khe hở ngay hàng thẳng lối. Hô Diên Vân bảo, “Đấy là trạm thủy điện Thanh Thạch Khẩu xây năm 1964.” Qua đường cái, chúng tôi men theo mạn Bắc kênh dẫn nước đi về phía Tây, leo lên sườn dốc trải đầy đá magma và đá hoa cương gồ ghề. Những chỗ dốc đứng có mấy tảng đá đẽo vuông vức gác lại thành bậc thang, bước lên đem lại cảm giác cả sườn núi chao đảo. Chạy dọc sườn núi bên phải chúng tôi là dãy nhà gạch thấp lè tè mọc san sát nhau, trên nóc phủ giấy dầu đen. Dưới đất, nước súc miệng tỏa mùi bạc hà đang chảy men xuống cống ngầm. Trước cửa một căn nhà, vài người đeo băng tay đỏ đang đứng nói chuyện với người phụ nữ mặc quần dài màu tím run lẩy bẩy trong gió lạnh. Đứng cạnh cô là một bé gái đang gặm bắp ngô già, đôi gò má cô bé hanh đỏ hệt màu chiếc áo bông trên người.
“Có thể nói núi Chuột Quét là nhánh nhỏ của dãy Tây Sơn chạy về phía Nam, cậu nhìn xem, dãy Tây Sơn chạy đến đây là thấp hẳn xuống.” Hô Diên Vân chỉ vào sườn núi thoai thoải đằng xa. “Lập được Thư Viện Liễu Vô, Đậu Vân Hốt dâng trào cảm xúc, viết hẳn một bài văn để kỉ niệm. Nhưng trong bài không nhắc đến thư quán mà chỉ tả thắng cảnh Tây Sơn: ‘Buổi sớm mai vang vọng tiếng trống canh, ríu rít tiếng chim hót ca, ánh nắng chói chang xuyên qua lớp giấy cửa sổ, dần đỏ như son. Mở cửa ra nhìn: trên núi bình minh vừa ló rạng, bầu trời trong trẻo như vừa được gột rửa, núi non trùng điệp trải ngút tầm mắt; dưới núi nhà cửa san sát, khói bếp bốc lên nghi ngút, đâu đây văng vẳng tiếng chó sủa đằng xa, nhưng càng lại gần càng không nghe rõ....’”
Tiếc là đúng lúc này, con chó mực nhốt bên kia hàng rào hợp kim nhôm bỗng nhiên gầm gừ sủa chúng tôi. Tiếng chó sủa vang khắp triền núi như tiếng chửi đổng, quét sạch không khí cổ kính trang nhã của vài trăm năm trước lẫn cảm xúc hoài cổ của Hô Diên Vân làm anh ta cụt hứng. Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện, chẳng biết lên đỉnh núi từ lúc nào. Tôi thở hổn hển đứng bên tấm bảng trắng có dòng chữ “Phòng chống cháy rừng là trách nhiệm của mỗi người dân”. Khu đất này đổ bê tông bằng phẳng, xung quanh trồng mấy cây táo tàu và cây hòe trụi lá, trên cây treo vài lồng chim, nào sẻ thông vàng, nào sơn ca, nào sáo mỏ ngà vừa nhảy nhót vừa hót líu lo. Bên bàn đá là mấy cụ già ngồi đánh bài Tây trong yên lặng.
Chúng tôi nghỉ lấy sức rồi đi tiếp. Trên núi có mấy trụ điện cao thế trông như tháp Eiffel thu nhỏ, mớ dây điện chằng chịt giữa các trụ chia cắt bầu trời âm u thành những tấm hình viền đen, đồng thời chặn luôn đường đi lên trên. Chúng tôi đành rẽ sang hướng Bắc, đi xuống con dốc trải bê tông tầm dăm bước là thấy đằng trước có con ngõ nhỏ vắng teo, hướng Đông-Tây, rộng chưa đến 10 mét. Chắc tại tòa nhà phòng học phía Nam che hết ánh mặt trời nên ngõ toát lên vẻ lạnh lẽo khó tả. Chạy dọc hai bên ngõ là hai bức tường rào màu xám cao khoảng 2 mét, tường phía Nam là của trường Trung học Núi Chuột Quét, còn tường phía Bắc là…
Hô Diên Vân biết tôi đang thắc mắc điều gì, gật đầu xác nhận, “Bên đấy là ga tàu điện ngầm núi Chuột Quét.”
Tuy lúc này trời không thình lình nổi cơn gió lạnh như tình tiết thường gặp trong tiểu thuyết trinh thám, tôi vẫn sởn hết gai ốc. Đã thế Hô Diên Vân còn trêu tôi bằng cách bồi thêm một câu, “Cậu xem tin tức rồi đúng không, hôm đấy hung thủ lái xe trên con đường bê tông này để trốn lên núi, tránh được cả camera giám sát đấy.”
Trước mắt tôi chợt hiện ra một khung cảnh, chính xác hơn là hai cảnh tượng đan xen trên cùng một phông nền. Một là cảnh chiếc xe hơi màu đen hiệu Spica chậm chạp và lặng lẽ vượt qua con ngõ, tiến về ngọn núi trong sự che chở của màn đêm, để lại bên kia bức tường bốn thi thể cùng ngọn lửa cháy ngùn ngụt tựa câu đố khó nhằn. Cảnh thứ hai cũng diễn ra trong ngõ này nhưng trời khuya hơn. Mười mấy xe cảnh sát, xe cứu hỏa và xe cấp cứu chen chúc nhau, nhấp nháy đèn loạn xạ trong màn đêm, hỗn loạn hệt như lòng người thấp thỏm. Những người có mặt tại đây đều mang vẻ mặt căng thẳng. Sắc đen cảnh phục, sắc cam đồng phục cứu hỏa và sắc trắng áo blouse tất tả đi đi lại lại. Tất cả như xoắn vặn thành ngòi nổ đã được châm lửa, mà bên kia ngòi chính là thành phố khổng lồ dưới núi với 20 triệu dân. Lúc đó thành phố hãy còn ngủ say, chẳng hề hay biết sự kiện này cùng những chấn động nó tạo ra. Phải tới sáng hôm sau, khi ngồi trên tàu điện ngầm vừa dụi cặp mắt mơ màng ngái ngủ vừa lướt điện thoại đọc tin tức, người ta mới đồng loạt sửng sốt và hãi hùng. Rốt cuộc hung thủ là ai, và tại sao bỏ lại bốn cái xác cháy đen trên núi Chuột Quét?
⚝ ⚝ ⚝
Theo lịch sử cuộc gọi của tổng đài 110, tối hôm xảy ra vụ án, người đàn ông báo án đã gọi cho cảnh sát vào 10 giờ 30 phút. “Người đó giọng trầm, ăn nói ngắn gọn.” Nữ cảnh sát nhận cuộc gọi nhớ lại.
Thực ra ông ta chỉ nói đúng một câu: “Có cháy ở ga tàu núi Chuột Quét, các anh mau cử người đến!” Sau đó cúp máy.
Nhận điện xong, ý nghĩ đầu tiên vụt qua đầu nữ cảnh sát là, “Chắc người này định gọi cứu hỏa 119 nhưng bấm nhầm thành 110.” Song cô vẫn làm theo nguyên tắc: lập tức thông báo cho đội an ninh trật tự tuần đêm và đội dân phòng khu vực núi Chuột Quét, yêu cầu họ kiểm tra và mau chóng phản hồi xem có hỏa hoạn thật không.
Khoảng năm phút sau, họ gọi điện báo lại: “Có hỏa hoạn thật, giếng đứng xây cạnh ga núi Chuột Quét cháy lớn lắm, chúng tôi đã gọi trung đội cứu hỏa đến dập lửa.”
10 giờ 45 phút, trung đội 2 đội cứu hỏa thành phố có mặt cùng xe chữa cháy tại con ngõ nằm hướng Đông-Tây. Đội an ninh trật tự đã chờ sẵn đầu ngõ để hướng dẫn họ lái xe vào. Đi được mười mấy mét, bên tường Bắc lộ ra cổng rào sắt của ga tàu núi Chuột Quét. Song cổng quá nhỏ, xe cứu hỏa loay hoay mãi không qua được phải đỗ bên ngoài, để vài lính cứu hỏa theo chân đội trưởng vào trong kiểm tra khu vực cháy. “Giếng đứng” trong lời đội an ninh trật tự thật ra là hầm thông gió có nhiệm vụ lưu thông không khí cho ga tàu điện ngầm kiểu cũ. Hầm xây bằng bê tông, phần trồi lên mặt đất trông giống chữ L chổng ngược, đầu đoạn nằm ngang là cửa hầm vuông vức và rộng rãi. Bình thường cửa hầm được phủ lưới bảo vệ, nhưng chẳng biết ai đã vứt tấm lưới ấy sang một bên. Trong cửa hầm lửa bốc rừng rực, hắt những ánh lửa nhảy nhót với đủ hình thù kì dị lên vách hầm và trần hầm.
Đội trưởng đội cứu hỏa cảm thấy khó hiểu. Thông thường, hầm thông gió của hệ thống tàu điện ngầm kiểu cũ thông xuống sân ga, hiểu nôm na là đoạn cuối của hầm nằm trên trần của đường tàu chạy. Lửa lớn thế này, e là ga tàu bên dưới cũng cháy dữ dội. Tuy ga núi Chuột Quét đã dừng hoạt động từ lâu, nhưng đường hầm của nó thông với ga đường Anh Đào nên vẫn giữ nguyên hệ thống an toàn, đề phòng sự cố lan từ ga này sang ga kia. Nếu sân ga hoặc đường hầm bốc cháy, thiết bị cảm ứng tự động sẽ lập tức phát báo động, nhưng đến giờ bên COCC (Trung tâm Chỉ huy Mạng lưới Tàu điện ngầm) vẫn chưa gọi điện thông báo, chẳng lẽ chỉ cháy mỗi hầm thông gió thôi ư? Sao thế được?
Đúng lúc ấy, nhân viên trông giữ ga núi Chuột Quét chạy đến.
Kể từ ngày ga núi Chuột Quét chính thức đóng cửa năm 2008, dân thám hiểm đô thị vẫn tìm đủ mọi cách chui vào bên trong để chụp hình, quay phim, thậm chí lấy trộm trang thiết bị trên tàu “làm kỉ niệm”. Điều này không chỉ gây phiền toái cho công việc quản lý, mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn. Vậy nên tới năm 2013, công ty tàu điện ngầm cho lập hàng rào sắt trong đường tàu chạy nhằm ngăn chặn người đi bộ từ ga đường Anh Đào sang, đồng thời xây tường rào bao quanh khu vực ngoài ga, trồng cây thông cùng hoa nguyệt quý làm thành vườn ươm. Công ty dùng tấm xi măng bịt kín hai trong ba lối vào ga, chỉ để lại một lối vào nhô ra bên ngoài tường rào, lắp thêm cho nó cửa chống trộm bằng thép dày. Cứ 8 giờ sáng mỗi ngày, chú Thái bảo vệ lại dùng chìa mở cửa chống trộm, xuống trực trong phòng trực bên dưới, đến 6 giờ tối thì lên mặt đất, khóa cửa chống trộm để những kẻ hiếu kì khỏi tơ tưởng.
Chú Thái sống ngay gần khu này. Khi trung đội cứu hỏa nhận được báo động, vì không nắm rõ tình hình hỏa hoạn và có khả năng phải xuống ga dập lửa, họ đã liên hệ với người cuối cùng trông giữ ga núi Chuột Quét là chú thông qua công ty tàu điện ngầm, làm chú hớt hải chạy đến, chân vẫn xỏ đôi dép bông thêu hoa.
Thấy hầm thông gió bốc cháy, chú Thái thở phào. “Yên tâm, chẳng sao đâu. Ga tàu này xây từ lâu lắm rồi, quanh đây lại hẻo lánh nên hồi đấy họ xây bằng phương pháp đào hở, tức là đào thẳng từ trên xuống. Địa chất vùng này phức tạp, núi Chuột Quét vốn nhiều đất tàn tích từ đá hoa cương, gặp nước là thành bùn nên mặt đất dễ lún thậm chí sập xuống. Thế mà người ta cứ đâm đầu xây trạm thủy điện Thanh Thạch Khẩu ngay bên cạnh trước khi xây ga tàu điện ngầm, đúng là sợ cái gì cái ấy xảy ra, giờ thì ngoài xử lý thoát nước còn phải lắp thêm cả đống cửa chống ngập. Hầm thông gió này không thông thẳng xuống dưới mà nằm cạnh đường tàu chạy, cách một cửa chống ngập lắp ở tường hầm. Hồi tàu điện ngầm còn hoạt động thì cửa chống ngập vẫn mở, sau này tàu ngừng chạy, có mấy thằng oắt con muốn chui vào nghịch nên gỡ lưới bảo vệ trên mặt đất của cửa thông gió, đu dây thừng xuống để vào trong ga, thế là tôi khóa luôn cửa chống ngập. Bởi thế hầm thông gió này chẳng khác gì giếng đứng, đáy giếng có cháy cũng không thể lan vào sân ga, còn cửa chống ngập làm bằng thép tấm dày chừng này cơ!” Chú Thái khoa tay múa chân nói rất tự tin.
Đội trưởng gật đầu, bảo cấp dưới xối thẳng bột chữa cháy từ bình cứu hỏa cỡ lớn vào hầm thông gió, đoạn quay ra nhắc chú Thái, “Chú cũng đừng mừng vội, mùi xăng dưới kia nồng nặc, đứng cách ba con đường vẫn ngửi thấy, mà nhiệt độ khi cháy của xăng có thể lên đến 1650°C, nhiệt độ nóng chảy của thép không gỉ lại chỉ khoảng 1430°C thôi. Tốt nhất chú cứ kiểm tra cửa chống ngập đi!”
Nghe vậy, chú Thái cuống cuồng chạy xuống ga tàu điện ngầm.
Bột chữa cháy trút xuống, từ từ dập tắt ngọn lửa cháy rực trong hầm thông gió. Khi luồng khói trắng cuối cùng thoát khỏi miệng hầm và tản đi, ga tàu bỏ hoang giữa những bức tường rào lại chìm vào bóng tối.
Cả đội cử một lính cứu hỏa xuống điều tra nguyên nhân cháy. Anh này buộc chặt dây thừng an toàn, đội mũ bảo hộ gắn đèn LED, giắt thêm bình chữa cháy mini vào dây lưng cứu hộ rồi chui vào hầm thông gió, từ từ hạ xuống trong sự giúp đỡ của đồng đội.
Nguyên nhân giếng hoang trong thành phố bị cháy thường do thanh thiếu niên hư hỏng, dân đầu đường xó chợ ném đầu lọc thuốc lá hoặc vật dễ bắt lửa xuống. Lần này chất gây cháy là xăng nên khả năng cao hung thủ vẫn là “thanh thiếu niên hư hỏng”. Đội cứu hỏa gọi trường hợp này là “cả người lẫn của”, nghe tưởng mất mát nhưng thật ra mang nghĩa tốt, tức là vừa không mất của vừa không có thương vong, chỉ là sự cố thường ngày. Bây giờ cần nhắc nhở chú Thái: đằng nào ga tàu điện ngầm cũng bỏ hoang, chú nên lấy tấm xi măng lấp luôn cửa hầm trên mặt đất, tránh lại xảy ra hỏa hoạn.
Đội trưởng cho các thành viên khác về xe, một mình chờ người bên dưới tìm nguồn cháy và nguyên nhân cháy, xong xuôi có thể thu dọn ra về. Đột nhiên dưới giếng vọng lên tiếng hô hoán nghe ong ong như bị nghẹn, cộng thêm tiếng gió đêm rít bên tai nên đội trưởng không nghe rõ, phải nằm bò bên miệng giếng hỏi, “Gì cơ?”
“Dưới này có người chết!”
Đội trưởng giật thót như thể tim bị bóp nghẹt, với kinh nghiệm làm việc lâu năm, anh có thể nhận biết mức độ nghiêm trọng của sự việc dựa vào giọng nói của đồng nghiệp. Linh tính mách bảo anh, lần này rắc rối to rồi.
Những lời tiếp theo của người bên dưới khiến anh lạnh gáy, “Mau gọi cảnh sát đi đội trưởng, không chỉ có một người thôi đâu!”
“Cứ bình tĩnh, không phải hoảng!” Đội trưởng hét xuống giếng, dứt lời nhận ra người đang hoảng là mình mới đúng. Hít thở thật sâu, anh thấy không khí vừa buốt giá vừa chết chóc, mới hít một hơi là máu trong người lạnh hẳn đi, làm anh không dám hít thêm. Sờ soạng tìm điện thoại hồi lâu mới phát hiện nó ở ngay trong tay mình, anh hối hả gọi cảnh sát.
Phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy sắc xanh sẫm của hàng thông hòa vào bóng tối của đất trời mênh mang.
Người lính cứu hỏa xuống kiểm tra giếng tên Trần Quốc Lương. Nhờ sự bình tĩnh, vững vàng cùng cách xử lý chính xác, anh đã giúp hiện trường vụ án được bảo vệ tương đối hoàn chỉnh, không bị hủy hoại quá nhiều. Tầm quan trọng của việc này nhanh chóng thể hiện rõ trong quá trình phá vụ án núi Chuột Quét.
Khi phát hiện dưới đáy giếng có xác người bị thiêu cháy, Trần Quốc Lương không động vào thi thể mà lập tức tháo găng cứu hộ, rút điện thoại ra. Nhờ ánh đèn rọi từ mũ bảo hộ, anh chụp lại tình hình trong giếng, sau đó hét gọi các đồng đội bên trên trải sẵn chăn chống cháy cạnh miệng giếng và kéo mình lên. Lúc được từ từ kéo lên, dù bị dây thừng thít chặt vào người, anh vẫn gắng gượng chịu đau chứ không đạp lên thành giếng. Vừa ra khỏi giếng, anh cởi ngay đôi ủng cứu hỏa đế thép ra, úp ngược lên chăn chống cháy, dặn mọi người “tuyệt đối không được chạm vào”.
Trong khoảng thời gian này, trưởng đồn cảnh sát núi Chuột Quét nhận được tin báo đã dẫn theo vài cảnh sát khu vực tới hiện trường. Nghe Trần Quốc Lương báo cáo xong, ông chiếu đèn pin siêu sáng xuống giếng xem xét, hiểu ngay đây không phải án hình sự thông thường. Ông vội báo lên Phòng Cảnh sát quận, còn nói một câu khiến trưởng phòng đang trực đêm sợ xanh mặt, “Trần Quốc Lương bảo có khoảng ba xác chết, hai trong số đó có vẻ là trẻ em…”
Một khi liên quan đến phụ nữ, người già và trẻ nhỏ, vụ án sẽ gây chú ý đặc biệt. Trưởng phòng Cảnh sát quận tức tốc báo lên Sở Cảnh sát thành phố, nhận được hai chỉ thị. Một, bảo vệ hiện trường, chờ sở cử chuyên viên tới điều tra. Hai, tiến hành tìm kiếm xung quanh hiện trường và bắt giữ mọi kẻ khả nghi.
Chưa đầy hai tiếng, núi Chuột Quét chật ních lực lượng an ninh. Mấy chục cảnh sát được vũ trang tận răng đồng loạt tỏa ra kiểm soát mọi tuyến giao thông huyết mạch, nghiêm ngặt không cho con kiến nào lọt qua. Xe cấp cứu và xe cảnh sát ùn ùn vào ngõ, nối đuôi nhau đỗ dọc mé Nam để tiện ra vào cổng sắt tường Bắc. Con ngõ nhỏ suýt tắc, may được đội cảnh sát giao thông đến “giải cứu” bằng cách kéo mấy xe đỗ sai quy định đi. Ban giám hiệu trường Trung học Núi Chuột Quét ở đối diện cũng tới hỏi han, còn chỉ đạo phòng giáo vụ và phòng quản lý học sinh kiểm tra hoạt động của học sinh nội trú. Lãnh đạo quận mau chóng có mặt tại hiện trường, dốc sức phối hợp với cảnh sát trong công tác điều tra.
Dù phải làm theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất, song trong vòng hai giờ đầu tiên sau khi phát hiện án, các cơ quan liên quan trong thành phố đều có động thái kịp thời và không thể chê trách.
Tuy vậy, những người đang có mặt tại hiện trường, đặc biệt là các cảnh sát, đều ôm tâm trạng thấp thỏm. Không chỉ vì vụ án lần này dã man và khó lường, mà còn vì họ biết “khâm sai đại thần” do Sở Cảnh sát thành phố cử đến rất có thể chính là nữ cảnh sát nổi danh nghiêm khắc và khắt khe. Đến lúc thấy Đỗ Kiến Bình xuống xe, tất cả vỡ òa, cùng thở phào nhẹ nhõm.
Giám đốc Sở Cảnh sát thành phố Hứa Thụy Long là một người rất có trách nhiệm và biết nhìn xa trông rộng. Cả một đời lăn lộn trong ngành, ông sớm hiểu rằng công tác điều tra hình sự buộc phải bắt nhịp theo sự biến đổi chóng mặt của thời đại, không những cần phải sử dụng thiết bị chuyên dụng tân tiến, cải tổ bộ máy cồng kềnh, mà còn cần đề bạt những cảnh sát trẻ tuổi có nền tảng “dũng cảm, trung thành, chịu khó” với tư duy khoa học, hiện đại. Sau thời gian dài chọn lọc kĩ càng, ông đã tìm ra ba thanh niên ưu tú làm trụ cột trong công tác bảo vệ an ninh thành phố vài chục năm tới: Lâm Hương Minh phụ trách điều tra hình sự, Lưu Tư Miễu phụ trách kĩ thuật hình sự, và Lôi Dung phụ trách pháp y. Cả ba đều tốt nghiệp Đại học Cảnh sát, có nhiều năm học tập tại nước ngoài và là nhân tài hàng đầu trong lĩnh vực của mình.
Điều tra hình sự, kĩ thuật hình sự cùng với pháp y là ba bộ phận nòng cốt trong công tác điều tra phá án, thường được gọi đùa là “Tam pháp ty”. Có ba hào kiệt “tọa trấn”, Hứa Thụy Long hoàn toàn có thể an tâm ngon giấc, vừa ngủ vừa mỉm cười mãn nguyện. Nào hay người tính không bằng trời tính, Lâm Hương Minh đột nhiên biến mất, để lại khoảng trống lớn trong mảng điều tra, cấp trên không kịp tìm người thay thế phù hợp, đành để Lưu Tư Miễu kiêm luôn vị trí ấy. Một năm sau, Lưu Tư Miễu kiệt sức đổ bệnh, lãnh đạo trong bộ gọi điện trách Hứa Thụy Long, “Giả sử Lưu Tư Miễu là con gái rượu nhà anh, anh có nỡ để con bé gục ra đấy không?” Cực chẳng đã, Hứa Thụy Long đành bảo Đỗ Kiến Bình, tức trưởng phòng Điều tra Hình sự tiền nhiệm quay về dẫn dắt điều tra, bất chấp Đỗ Kiến Bình vừa xin ngừng công tác vì lý do cá nhân. Còn Lưu Tư Miễu vẫn phụ trách Phòng Kĩ thuật Hình sự của cô.
Vì thế, khi hay tin về án mạng ở núi Chuột Quét cùng thông tin có nạn nhân trẻ em, Sở Cảnh sát thành phố không ngần ngại cử ngay các trụ cột “Tam pháp ty” đến hiện trường. Đỗ Kiến Bình được giao nhiệm vụ chỉ đạo điều tra. Đám cảnh sát địa phương chẳng hay biết gì, nơm nớp lo sợ “đầu tàu” vẫn là Lưu Tư Miễu mặt lạnh như tiền. Sự xuất hiện của Đỗ Kiến Bình khiến họ mừng rơn. Trong công việc, sếp Bình rất nóng tính, chửi cấp dưới như hát hay, nhưng ngoài đời ông coi mọi cảnh sát là anh em, phá án xong đều rủ nhau ăn uống nhậu nhẹt… Chẳng bù Lưu Tư Miễu chỉ biết việc công, chẳng chịu làm thân với đồng nghiệp. Cô bán mạng làm việc, đặt ra nhiều yêu cầu khắt khe, không cho phép cấp dưới xảy ra sai sót, bằng không sẽ biết tay cô. Bởi thế hơn một năm nay, đội hình sự bận tối tăm mặt mũi, không có thời gian ăn uống thay đồ, ngay cả lúc ngủ cũng muốn mở một mắt làm việc tiếp, tuy giữ vững an ninh trật tự thành phố nhưng mệt bã người. Nay thấy Đỗ Kiến Bình, ai nấy như được đại xá.
Đỗ Kiến Bình tươi cười chào hỏi cấp dưới cũ như thể chưa từng chia xa. Mọi người ào lên bắt tay, nhìn ông với ánh mắt đầy thân thiết và kính trọng, nhưng đâu đó thấp thoáng nét ngạc nhiên và hoài nghi. Mới hai năm không gặp mà sếp Bình già đi trông thấy, còn đâu lưng hùm vai gấu và vóc dáng to như cột đình. Thay vào đó là ông già tóc hoa râm, lưng cứng ngắc bắt đầu có dấu hiệu còng. Nghĩ tới nguyên nhân khiến người đàn ông mới 49 tuổi đã thành ra thế này, nhiều đồng nghiệp cay cay sống mũi. Điều an ủi duy nhất là đôi bàn tay to lớn khỏe như gọng kìm vẫn mang lại cảm giác mạnh mẽ và ấm áp khi nắm lấy, trông vẫn hồng hào dưới mấy bóng đèn halogen mới mắc sáng rực.
Phó phòng Điều tra Hình sự Lâm Phượng Xung đã có mặt, dẫn theo 20 cảnh sát tài giỏi được Ban trọng án điều sang. Anh giới thiệu sơ qua đội ngũ với Đỗ Kiến Bình, vừa giải thích vừa khua tay diễn tả khu vực chằng chéo dây phong tỏa. Lâm Phượng Xung để ria mép, mặc áo khoác da màu đen, chốc chốc lại vô thức giậm gót chân. Biết cấp dưới cũ lên cơn thèm thuốc lá, Đỗ Kiến Bình móc bao thuốc trong túi quần ra đưa anh, “Hút một điếu lấy tinh thần. Lát nữa khéo còn phải thức cả đêm, cậu cứ nhảy thiết hài thế này thì làm ăn gì.”
“Dạ thôi.” Lâm Phượng Xung từ chối. “Lưu Tư Miễu cấm hút thuốc sợ ảnh hưởng đến hiện trường.”
“Còn chưa vào trong, sao phải sợ.” Đỗ Kiến Bình cười.
“Đứng ngoài cũng bị cấm.” Lâm Phượng Xung cười mếu máo.
Đỗ Kiến Bình nhét thuốc lá vào túi, cùng Lâm Phượng Xung đi đến cổng rào sắt. Ông vừa đeo bọc giày vừa nghe báo cáo tình hình từ trưởng đồn cảnh sát núi Chuột Quét, phó phòng Cảnh sát quận phụ trách điều tra hình sự và đội trưởng đội cứu hỏa. Xong xuôi, ông nhấc chân toan bước vào trong thì khựng lại, “Chờ thêm đã.” Chờ gì thì ông không nói, làm cấp dưới ngơ ngác.
Chưa đầy một phút sau, một chiếc Camry xuất hiện. Từ trên xe bước xuống cô gái vô cùng xinh đẹp. Cô khoác áo dạ đen thoải mái, toát ra vẻ nhanh nhẹn nhưng vẫn khoe được thân hình duyên dáng. Phần cổ cao của áo len màu kem bên trong càng tôn thêm nét cao quý của gương mặt trái xoan trắng trẻo. Cằm hơi hếch lên, kiêu ngạo và xa cách, cộng thêm đôi mắt lá răm lạnh lùng khiến mọi cảnh sát nam tuy căng thẳng nhưng đều lén nhìn thêm đôi lần.
“Lưu Tư Miễu!” Đỗ Kiến Bình đến gần chào hỏi.
“Anh Bình.”
Hai người bắt tay nhau, lòng bàn tay Lưu Tư Miễu lạnh toát. Nhìn gương mặt gầy gò của cô, Đỗ Kiến Bình cảm thấy rất phức tạp. Hồi cô mới du học về, do quá cao ngạo nên bị đẩy xuống Ban Truyền thông làm công tác tuyên truyền. Phải tới khi thành phố xảy ra loạt án giết người xẻ ngực, cô mới được Đỗ Kiến Bình tìm đủ mọi cách đưa vào tổ chuyên án để chứng tỏ tài năng. Ông là người nâng đỡ cô lên bậc thang đầu tiên của con đường thăng tiến, nhưng cô chẳng tỏ ra biết ơn, lúc nào cũng giữ thái độ lễ phép có chừng mực của cấp dưới với cấp trên. Vào tổ chuyên án, cô lập công liên tục, thăng chức vù vù. Sau khi Đỗ Kiến Bình xin dừng công tác, cô càng một bước lên mây, chẳng bao lâu sau đã trở thành cán bộ cấp phòng có quyền lực lớn nhất trong lịch sử ngành cảnh sát thành phố, nắm giữ hai trong ba vị trí của “Tam pháp ty”. Chắc cấp trên không nỡ để cô vất vả nên lần này mới điều Đỗ Kiến Bình về lấp chỗ trống, khỏi nói cũng biết ông cảm thấy thế nào. Ngoài ra, ông còn một nỗi đau vẫn giấu kín trong lòng. Hồi gia đình ông gặp chuyện, rất nhiều cấp dưới bao gồm cả Lôi Dung đều đến thăm hỏi, cố hết sức giúp ông xoa dịu nỗi buồn, riêng Lưu Tư Miễu tránh né ông như thể không hay biết gì. Điều này khiến một người phóng khoáng như ông thật sự phải có cái nhìn khác về lòng người.
Nhưng nay đã khác xưa, Lưu Tư Miễu hiện là nhân tài được lãnh đạo bộ và thành phố hết mực xem trọng. Tuy lệnh cho Đỗ Kiến Bình chỉ đạo công tác điều tra nhưng cấp trên vẫn cử thêm Lưu Tư Miễu đến, ông nên bàn bạc với cô trước thì hơn. Đây chính là lý do khiến ông nhất định phải “chờ”.
Lúc này, một chiếc xe cấp cứu được cải tiến thành xe khám nghiệm pháp y lưu động chạy vào ngõ. Thi thể tại hiện trường cháy nổ thường tổn hại nghiêm trọng, chứng cứ giá trị trên đó rất có khả năng bị bỏ sót hoặc đánh mất trong quá trình chuyển xác đến phòng khám nghiệm tử thi, vì vậy những bước kiểm tra sơ bộ đều được tiến hành trên xe khám nghiệm lưu động. Lưu Tư Miễu và Đỗ Kiến Bình tưởng Lôi Dung đến, ai dè khi xe dừng lại, người nhảy xuống từ ghế phụ lái lại là cô gái buộc tóc đuôi ngựa, gương mặt tròn trịa có nét đáng yêu như mèo Angela. Cô nhào lên ôm chầm lấy Lưu Tư Miễu, cười hì hì, “Chị! Không ngờ là em ha?”
“Đường Tiểu Đường?” Lưu Tư Miễu kinh ngạc. “Sao em đến đây?”
Đường Tiểu Đường từng là học sinh của Lôi Dung. Sau khi tốt nghiệp, cô làm việc ở Trung tâm Nghiên cứu Pháp y Lôi Dung, trong thời gian ấy từng nghỉ việc hơn nửa năm, đến cuối năm ngoái mới trở lại. Trải qua nhiều chuyện, cô tiểu thư con quan yểu điệu và ngang ngược ngày xưa giờ đã trưởng thành hơn rất nhiều, cực kì siêng năng và nỗ lực trong công việc, từ đó trở thành trợ thủ đắc lực không thể thiếu của Lôi Dung. Có điều, Lôi Dung thường giao việc đến hiện trường cho đồng nghiệp nam vì ngại Đường Tiểu Đường là con gái, hôm nay cử cô bé đến đây đúng là việc hiếm có.
“Trên sở đang tổ chức nghiên cứu tài liệu, không chịu cho chị Dung về. Mà những người khác đều có nhiệm vụ cả rồi nên em giành việc luôn.” Đường Tiểu Đường giải thích.
Trước đây Lưu Tư Miễu từng xem thường Đường Tiểu Đường, còn Đường Tiểu Đường hơi sợ cô nên hai người gặp nhau cùng lắm chỉ gật đầu chào. Nhưng trong một đêm kinh hoàng năm ngoái, nhờ được Lưu Tư Miễu dốc sức cứu về từ bờ vực cái chết, Đường Tiểu Đường đã biến thành “fan cuồng trung thành”, bị đánh đuổi vẫn không chịu đi, làm Lưu Tư Miễu dở khóc dở cười, dần dà quý mến và coi cô bé như em gái. Lưu Tư Miễu dặn dò, “Vụ này phải khám nghiệm xác chết cháy dưới giếng, em chuẩn bị sẵn tâm lý đi.”
“Yên tâm, gì chứ em can đảm lắm!” Đường Tiểu Đường đáp.
“Anh Bình! Lưu Tư Miễu!” Lại thêm chiếc xe cảnh sát chạy tới, người xuống xe là Sở Thiên Anh. Anh mới giữ chức trưởng ban Khám nghiệm hiện trường thuộc Phòng Kĩ thuật Hình sự Sở Cảnh sát thành phố, trước từng là trưởng phòng Điều tra Hình sự của tỉnh bên, nổi tiếng trong ngành vì tuổi còn trẻ nhưng có năng lực phá án xuất sắc, được Hứa Thụy Long cho giữ chức vụ quan trọng trong Sở Cảnh sát thành phố. Về sau chẳng rõ vì sao Sở Thiên Anh bị cách hết chức vụ, phải về đồn cảnh sát công viên Vọng Nguyệt công tác, tuy vậy anh vẫn cần cù chăm chỉ phục vụ nhân dân. Là người bồi dưỡng Sở Thiên Anh ở Đại học Cảnh sát, Lưu Tư Miễu không thể trơ mắt nhìn nhân tài bị đẩy xuống tầng chót nên tìm cách đưa anh vào Phòng Kĩ thuật Hình sự, để anh nắm quyền chỉ đạo khám nghiệm hiện trường các vụ trọng án.
Các cảnh sát có mặt trong con ngõ này đều hiểu: thiếu mỗi Lôi Dung là ở đây hội tụ toàn bộ tinh anh của mảng điều tra hình sự. Tất cả đang chờ Đỗ Kiến Bình ra lệnh để bắt tay vào việc.
Ai ngờ chỉ thị đầu tiên Đỗ Kiến Bình đưa ra lại là: “Lưu Tư Miễu, cô phân công đi!”
Không ít người ngỡ ngàng, còn Lưu Tư Miễu chỉ liếc nhìn ông, gật đầu. Trước tiên cô nắm bắt tình hình cơ bản của vụ án, sau đó mặc quần áo bảo hộ màu trắng dùng một lần, đeo bọc giày rồi đi vào cổng kiểm tra một lượt men theo tường rào. Bức tường bao quanh ga núi Chuột Quét theo hình chữ nhật, bờ tường gắn mảnh thủy tinh, không trèo qua được. Ga tàu có tổng cộng ba cổng ra vào trên mặt đất đều hình chữ nhật nằm, bên trên có mái che thò mép ra ngoài, nhìn tổng thể y hệt quan tài nắp trượt. Từ hồi xây dựng tới nay, ga núi Chuột Quét không được bảo trì thường xuyên, thậm chí chưa từng sơn sửa lại nên cổng vào vẫn giữ màu xi măng ban đầu. Cổng A nằm ở góc Đông Nam vườn ươm, là cổng duy nhất không bị bịt kín bằng tấm xi măng, thay vào đó lắp cửa chống trộm bằng thép nhô ra bên ngoài tường rào và quay mặt ra con ngõ. Cổng B nằm ở góc Đông Bắc vườn ươm. Còn cổng C nằm trong góc Tây Nam, cách rất xa hai cổng còn lại. Hầm thông gió bị cháy nằm trong hố đất trũng ở phía Bắc cổng C. Trong vườn ươm toàn cây thông được nẹp khung đỡ và hoa nguyệt quý đã khô héo, ngoài ra còn mấy chục cây hòe cổ thụ trụi lá nghiêng ngả trong gió, lẳng lơ tựa mấy bà cô diêm dúa đang nhảy múa. Trên một cây hòe gần cổng C có chiếc chong chóng cũ mắc vào cành, kêu loạt soạt như đệm nhạc. Con mương dẫn nước vắt ngang khu vườn theo hướng Đông-Tây, bên trong không có nước mà chỉ toàn lá cây khô quắt.
Ra khỏi vườn ươm, Lưu Tư Miễu tập hợp nhóm chỉ huy lại để phân công nhiệm vụ. “Tạm thời phạm vi điều tra là trong vườn ươm, lấy tâm là hầm thông gió.”
Trải tờ giấy vẽ khổ to trắng tinh lên nắp capo xe hơi, chặn hai đèn cảnh sát lên hai bên mép để gió đêm không thổi bay, Lưu Tư Miễu lấy bút cacbon phác thảo lại hiện trường trên giấy, đánh dấu những điểm quan trọng bằng kiểu ghi chú chuyên dụng của cảnh sát. “Tổ chụp hình nhanh chóng tiến hành cắm mốc cố định để chụp bao quát từ nhiều góc độ, trong đó ảnh định hướng, ảnh toàn cảnh và ảnh hiện trường trung tâm đều phải chụp rõ ràng… Chỉ tiếc đã có lính cứu hỏa trèo xuống hầm thông gió trước khi ta kịp chụp ảnh, hi vọng anh ta không che lấp hay phá hoại dấu vết ban đầu.”
“Cô đừng lo. Khi phát hiện xác chết, anh lính cứu hỏa không những không dịch chuyển bất cứ thứ gì dưới giếng mà còn chụp hình lại. Ảnh đã được gửi tới điện thoại của tôi, để tôi gửi cô.” Phó phòng Cảnh sát quận mở WeChat chuyển tiếp ảnh cho Lưu Tư Miễu.
Lưu Tư Miễu lấy làm ngạc nhiên, mở từng tấm hình ra xem, vội hỏi, “Anh lính cứu hỏa đó đâu? Gọi anh ấy qua đây ngay!”
Lúc được cảnh sát mời đến, Trần Quốc Lương còn chưa kịp thay đồng phục cứu hỏa. Lưu Tư Miễu săm soi anh ta, “Trước kia anh từng làm cảnh sát hình sự à?”
Đứng trước nữ cảnh sát xinh đẹp, Trần Quốc Lương ngẩn ra mất một lúc mới gật đầu thừa nhận.
“Anh chụp hình đúng kĩ thuật đấy, chỉ tính việc chiếu sáng bằng đèn gắn trên mũ bảo hộ chứ không dùng đèn flash điện thoại đã rất đáng khen rồi.” Lun Tư Miễu hỏi, “Anh thực hiện các bước bảo vệ hiện trường khác chưa?”
Trần Quốc Lương thuật lại chuyện mình không chạm vào vách giếng khi được kéo lên, vừa lên mặt đất lập tức úp ngược ủng trên chăn chống cháy để đề phòng đế ủng dính vật chứng. Lưu Tư Miễu nghe xong gật gù, “Tốt lắm, rất tốt!” Sau đó cho anh ta đi nghỉ ngơi.
“Làm việc với nhau suốt bao nhiêu năm mà chưa được nghe cô khen chúng tôi câu nào.” Lâm Phượng Xung cười.
Lưu Tư Miễu lườm Lâm Phượng Xung, quay sang dặn phó phòng Cảnh sát quận, “Anh chọn vài người được việc, đi lấy lời khai từng hộ gia đình trong phạm vi 1 kilomet quanh đây, hỏi xem có ai nghe hay nhìn thấy gì lạ trước và sau khi vụ án xảy ra không. Giờ là nửa đêm, người dân đang ngủ tự nhiên bị đánh thức chắc không vui vẻ đâu, nhưng ta cần tiến hành khẩn trương, không được để sót hộ nào.”
Dặn xong phó phòng Cảnh sát quận, Lưu Tư Miễu nói với Lâm Phượng Xung, “Anh tức tốc liên hệ với Sở Giao thông thành phố và Văn phòng An ninh mạng, bảo họ trích xuất camera giám sát của các đơn vị, các tuyến đường lân cận ga núi Chuột Quét trong vòng hai giờ trước và sau khi có cuộc gọi báo án. Anh dẫn người đi kiểm tra, xử lý và biên tập sẵn những đoạn video cùng hình ảnh đáng ngờ, tôi cần lúc nào là phải có ngay, trong thời gian ngắn nhất phải biết được kẻ tình nghi dùng phương tiện giao thông gì để vận chuyển thi thể và trốn chạy, từ đó tìm ra tuyến đường đi lại cụ thể của hắn. Nếu cần hệ thống Thiên Nhãn phối hợp, cứ trực tiếp yêu cầu sở ‘mở đường’, không cần viết báo cáo xin duyệt!”
Tiếp theo là công tác khám nghiệm hiện trường - trọng tâm của công tác điều tra. Linh cảm vụ án có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, Lưu Tư Miễu bất giác quay lại nhìn cổng vườn ươm đã giăng dây cảnh giới trắng vàng. Ngay lúc này, cả khu vườn sáng như ban ngày nhờ sáu ngọn đèn halogen 2.000 oát chuyên dụng chiếu rọi trên cao. Vạn vật từ mặt đất, cây cối, cống rãnh đến những cảnh sát đang dùng phấn trắng vạch ra lối đi ở hiện trường đều trắng bệch như mất máu quá nhiều. Ba cổng ra vào ga tàu vốn giấu mình giữa cây cối um tùm giờ lộ ra dưới ánh đèn, hung hãn rục rịch ngoác miệng nuốt trọn tất cả sinh linh dám làm phiền giấc mộng đẹp của chúng.
“Sở Thiên Anh, anh chia nhóm người Lâm Phượng Xung dẫn đến thành hai đội, vào vườn ươm thu thập chứng cứ. Đội A rà soát bắt đầu từ tường Bắc, đội B bắt đầu từ tường Đông. Cả hai đội chỉ đi một chiều, dàn hàng ngang mỗi người cách nhau một cánh tay. Chú ý tránh khu vực trung tâm tức phạm vi 10 m18 quanh hầm thông gió. Rà soát xong, hai đội đổi cho nhau tìm kiếm lần hai. Tôi nói trước, nếu đội A phát hiện ra dấu vết đội B bỏ sót thì tôi phạt đội B, ngược lại nếu đội B phát hiện dấu vết đội A bỏ sót thì tôi phạt đội A!”
“Làm vậy…” Sở Thiên Anh thấy không hợp tình hợp lý lắm.
“Đây là mệnh lệnh bắt buộc chấp hành!” Lưu Tư Miễu không cho anh cự cãi. “Còn anh có hai việc. Một, lọc ra và thu thập vết bánh xe của những xe khả nghi đã từng vào vườn ươm. Hai, khám nghiệm quanh hầm thông gió theo hình ô vuông. Tôi và Đường Tiểu Đường sẽ vào trong hầm để kiểm tra và khám nghiệm tử thi.” Cuối cùng, cô ngẩng đầu hỏi, “Mọi người nghe rõ chưa? Còn vấn đề gì…”
Lời chưa dứt, Lâm Phượng Xung đã ho khẽ mấy tiếng.
Lưu Tư Miễu giật mình nhận ra, vội vàng đứng thẳng người dậy hỏi Đỗ Kiến Bình bên cạnh, “Anh Bình, tôi sắp xếp như thế được chưa? Cần bổ sung gì không?”
“Tôi thấy ổn.” Đỗ Kiến Bình cười. “Nhưng có một vấn đề, tại sao chỉ phân công người kiểm tra trên mặt đất, dưới lòng đất thì sao?”
Lâm Phượng Xung và Sở Thiên Anh nhìn nhau không hiểu mô tê gì. Chỉ mình Lưu Tư Miễu bừng tỉnh. Nhưng cô chưa kịp lên tiếng thì Đỗ Kiến Bình xua tay. “Thôi thôi, ai cũng bận rồi, chuyện này cứ giao cho người nhàn hạ là tôi đi.” Đoạn, ông quay người đi về cửa chống trộm bằng thép của cổng A.
⚝ ⚝ ⚝
Chẳng rõ có phải tại trong lòng quá hoảng sợ không, Đường Tiểu Đường cảm thấy dây cứu hộ xuống đến đâu là nhiệt độ giếng hạ đến đó. Cô hơi hối hận vì vừa rồi trót mạnh miệng “xung phong”.
Mới đầu Lưu Tư Miễu định đích thân xuống giếng, nhưng Đường Tiểu Đường cương quyết cản lại, “Hiện trường ngoài trời hay gặp phải tác động mạnh từ thời tiết. Tử thi là chứng cứ quan trọng nhất, lại dễ bị hủy hoại, để chuyên viên pháp y xuống khám nghiệm trước thì hơn.” Lưu Tư Miễu nhìn cô bé, gật đầu đồng ý, không quên dặn dò cô phải “can đảm, cẩn thận”. Trần Quốc Lương cột thật chắc dây cứu hộ lõi thép vào eo và vai Đường Tiểu Đường, cài khóa thép rồi thả cô xuống giếng.
Giờ thì hay rồi, lông tơ trên người Đường Tiểu Đường cứ thế dựng ngược cả lên, không sao kiềm chế được…
Cúi xuống chỉ thấy bóng tối sâu hun hút, ngước lên lại thấy một khoảng xám xịt tuyệt vọng. Đường Tiểu Đường treo người lơ lửng giữa không trung, được đưa xuống từ từ như chôn sống. Liên tưởng tường giếng thô ráp màu xám dính đầy bột chữa cháy với ổ bụng con mãng xà, tự nhiên cô thấy buồn nôn, dịch vị không ngừng trào lên trong dạ dày. Dây cứu hộ thít chặt vào eo và nách đau điếng, làm cô không thể thôi tưởng tượng dây thừng siết vào da, để lại những đường vằn vện xấu xí giống vết dây thắt cổ tự vẫn. Cơn ác mộng đã lâu không quấy nhiễu giờ lại ập đến, tuy không gây khiếp đảm nhưng đủ khiến cô run lẩy bẩy. Cô thật sự muốn hét gọi người bên trên kéo mình lên, song cổ họng nghẹn lại không phát ra được âm thanh nào.
Bỗng, mũi chân chạm phải thứ gì mềm mềm…
Loay hoay tìm cách đứng vững, Đường Tiểu Đường kéo dây hai lần để báo bên trên biết mình đã xuống đến đáy. Cô hít thở sâu để tự trấn tĩnh, chẳng ngờ mùi hôi thối xộc thẳng vào khoang mũi khiến cô suýt sặc. Đó là mùi khét đặc trưng của da và tóc bị thiêu cháy. Cô muốn bật đèn LED trên mũ bảo hộ, nhưng tay đeo găng cao su nên khó cảm nhận, sờ mãi mới tìm thấy công tắc. “Tách” một tiếng, cô chết sững trong kinh hãi. Cảnh tượng dưới đáy giếng hiện ra tàn khốc không khác gì địa ngục A Tỳ.
Nằm chỏng chơ dưới đáy giếng sâu là một đống nhão nhoét màu đen và đỏ sẫm phủ lớp mỏng bột chữa cháy màu trắng, trông như miếng thịt sống tẩm bột sắp thả vào chảo dầu. Đèn LED rất sáng, nhưng Đường Tiểu Đường mãi mới nhìn ra đấy là cơ thể người chồng lên nhau. Những thi thể bị lửa thiêu rụi than hóa bề mặt, giờ vặn vẹo, biến dạng, thê thảm không khác gì cảnh tượng sau khi xe hơi va chạm liên hoàn trên đường cao tốc, bốc cháy làm cốt thép và vỏ sắt lẫn lộn với nhau. Có chỗ thịt hở toác thấy cả xương bên trong, có chỗ xương cong vẹo lòi hẳn ra ngoài như đang tuyệt vọng vùng vẫy cố vươn mình khỏi đáy giếng chật hẹp. Ảo giác càng thật hơn khi cộng thêm tiếng xèo xèo lúc có lúc không của da thịt và mỡ cháy.
Đường Tiểu Đường rợn hết cả tóc gáy, đứng đờ ra thật lâu mới dè dặt dùng cào inox xem xét mấy cái xác. Khi chắc chẳn tất cả đều cháy tới mức người không ra người, ngợm không ra ngợm, cô dùng ngón tay rón rén lật chúng lại, kiểm tra tình trạng cơ bản.
Tổng cộng có ba xác chết. Dưới cùng là thi thể nằm ngửa của một người trưởng thành, bề mặt bị than hóa không quá nghiêm trọng, nhưng hai cánh tay co quắp và chĩa ngược lên giống con khỉ, ôm lấy hai xác chết bên trên. Đáng sợ hơn cả, hộp sọ cháy đen hé miệng, nhe hàm răng trắng nhởn dưới ánh đèn sáng trưng, trông rõ dữ tợn. Xác ở giữa vỡ xương sọ, não chảy ra cháy két thành vệt đen. Xác trên cùng có vết rách toác như bị chém. Ngọn lửa không chỉ đốt cháy xác mà lưỡi lửa còn điên cuồng tấn công cổ họng, khuấy đảo càn quét ổ bụng, một phần nội tạng lòi ra khỏi vết rách, có màu nâu đỏ của thịt chín vừa.
“Đường Tiểu Đường!” Giọng Lưu Tư Miễu vang lên trong tai nghe, “Tình hình thế nào hả em?”
Đường Tiểu Đường ngẩng đầu nhìn miệng giếng nhưng không trông thấy Lưu Tư Miễu. Miệng giếng cao tít tắp chẳng khác nào một đáy giếng sâu hun hút khác. Cô thở dài, nói vào máy liên lạc bluetooth chuyên dụng gắn trên cổ áo.
“Một mớ hỗn độn chị ạ. Do bị thiêu trong thời gian dài, ba cái xác đều cháy nghiêm trọng, bỏng độ IV, bề mặt bị than hóa có thể thấy bằng mắt thường, không có dấu hiệu sống. Bước đầu nhận định chất gây cháy là xăng, vì chỗ xương lộ ra ngoài có màu xám nhạt và có vết nứt do nhiệt độ, giống hệt xương bị nung nóng bằng xăng cháy. Tình trạng này không thích hợp đưa thi thể ra xe khám nghiệm pháp y lưu động. Em thấy nên tiến hành khám nghiệm sơ bộ ngay tại đây thì hơn… Ba cái xác bị thiêu xoắn lại với nhau như bánh quẩy thừng ấy, em muốn tách chúng ra để kiểm tra từng cái một nhưng sợ làm hỏng dấu vết ban đầu, phải làm sao đây?”
“Em kiểm tra kĩ càng rồi hẫng đưa ra kết luận.” Lưu Tư Miễu nghiêm giọng. “Rốt cuộc các thi thể quấn lại với nhau, hay là vì bị biến dạng nên trông có vẻ quấn vào nhau nhưng thật ra có thể tách rời? Vì trường hợp thứ nhất luôn là hậu quả của việc nhiều người bị thiêu cháy khi chen chúc ở lối thoát hiểm, còn trường hợp sau là do hỏa táng tập thể. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phương hướng điều tra vụ án, tuyệt đối không được xảy ra sai sót… Lúc xem hình Trần Quốc Lương chụp, chị có cảm giác các thi thể xếp chồng đống lên chứ không thật sự quấn vào nhau.”
Đường Tiểu Đường định thần lại, nhìn thật kĩ ba thi thể rồi ngượng ngùng nói, “Ừm… Chị lại nói đúng rồi.”
“Nhớ phải ‘can đảm, cẩn thận’ như chị dặn! Bây giờ em lật thi thể thật chậm, sau đó thuật lại tình trạng để chị ghi chép.”
Tai nghe vang lên tiếng sột soạt, có lẽ Lưu Tư Miễu đang lấy sổ.
Đường Tiểu Đường tỉ mỉ quan sát xác chết trên cùng, báo cáo với Lưu Tư Miễu, “Thi thể kí hiệu A, nam, căn cứ tình trạng phát triển xương và răng thì áng chừng 12 tuổi, cao khoảng 130 centimet, chưa rõ nguyên nhân tử vong. Thi thể nằm ngửa, bỏng cấp độ IV, trên người không có quần áo hay vải che phủ, mô cứng giòn, chuyển đen, cấu trúc mô bị phá hủy. Xuất hiện các đường nứt chạy dọc vân da, chảy ra một số nội tạng.”
Tiếp theo, cô nâng một bên xác chết trên cùng lên, chầm chậm đẩy nó lăn xuống. Bàn tay cái xác cháy đến nỗi không phân biệt được năm ngón, đập bộp vào giày khiến cô giật mình kêu oái.
“Có sao không em?” Giọng Lưu Tư Miễ