← Quay lại trang sách

Chương 2

Lưu Tư Miễu vặn vòi cho dòng nước máy tuôn ào ào. Cô giơ tay định hứng một vốc, cái lạnh chạy từ đầu ngón tay lan ra toàn thân làm cô rùng mình rụt tay lại. Chờ một lát, cô giơ tay lần nữa, nước vẫn lạnh thấu xương nhưng cơ thể không phản ứng mạnh như trước, hơn nữa cảm giác buốt giá này chính là cái cô cần. Hai tay hứng đầy nước, cô thấy lòng bàn tay trắng bệch như sắp tan ra. Cúi đầu hất nước lên mặt, thần kinh mệt mỏi sau đêm thức trắng dần tỉnh táo hơn.

Rút gói khăn giấy từ túi quần, Lưu Tư Miễu chậm rãi thấm khô nước trên mặt. Tấm gương tròn nứt nẻ treo trên tường phản chiếu gương mặt gầy gò, xanh xao và tiều tụy. Mắt vằn tia máu, chân mày hơi cụp, môi tím tái, nhưng khóe mắt không hề có nếp nhăn dù cô đã ngoài ba mươi. Trái ngược với những phụ nữ cùng tuổi suốt ngày bôi kem dưỡng, tiêm trắng da và uống thực phẩm chức năng, cô để mặc gương mặt kiêu ngạo của mình tự chống lại sự tàn phá của thời gian bằng cách tự nhiên nhất…

Từ khi bặt tin Lâm Hương Minh, Lưu Tư Miễu sống không bằng chết, ngày nào cũng đau đớn như người cấy ghép tim có phản ứng đào thải. Cô đành lao đầu vào công việc để bản thân tê dại và lãng quên. Thi thoảng cô mong mình đột tử hoặc hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ như nhiều đồng đội khác, nhưng trời không chiều lòng người. Càng có tuổi, cô càng lắm bệnh tật: cảm lạnh, chóng mặt, đau dạ dày, rối loạn nhịp tim… Nhưng sức sống tiềm tàng vẫn rất bền bỉ, cô chỉ còn cách tiếp tục chiến đấu với tội phạm như cách Sisyphus lăn đá tảng. May mà hai năm trở lại đây, tình hình an ninh trật tự thành phố ngày một tốt hơn nên cô thấy được an ủi rất nhiều. Song chính vì thế, cô càng bất an trước vụ án núi Chuột Quét xảy ra quá đỗi đột ngột.

Lưu Tư Miễu ném khăn giấy ướt mèm vào sọt nhựa cạnh bồn rửa, nhón chân bước ra khỏi nhà vệ sinh chật chội bẩn thỉu của xưởng in.

8 giờ sáng, vài kênh truyền thông đã đưa tin vắn về án mạng núi Chuột Quét. Lưu Tư Miễu đoán, có lẽ giờ này vô số phóng viên đã ùa đến nhốn nháo bên kia đường. Vào sở chỉ huy lâm thời cập nhật tình hình nhưng không nhận được tin mới, cô quyết định ra ngoài cổng.

Bầu trời buổi sáng cuối thu không có nắng mà u ám rét buốt. Đường mòn Ngân Lộc vốn hiếm người qua lại, lúc này càng heo hút, ngay cả chó cũng không thèm bén mảng. Thứ duy nhất chuyển động trên mặt đất là cái bóng của lùm cỏ um tùm trên mái hiên căn nhà trệt sát đường. Mãi mới thấy một chiếc Sylphy đen chạy tới, dừng bên đường, thả một người xuống. Đây hẳn là xe DiDi. Tài xế tinh mắt phát hiện mấy người mặc thường phục đứng xung quanh toàn là cảnh sát, tưởng họ đang bắt xe dù nên vội vàng phóng đi mất.

Thấy người vừa xuống xe quen quen, Lưu Tư Miễu gọi thử, “Trương Vỹ!”

Trương Vỹ là phóng viên Thời báo Pháp luật, chắc vừa bị kéo ra khỏi chăn êm nệm ấm nên đầu tóc bù xù, đôi mắt híp mơ màng nửa nhắm nửa mở. Anh ta nhìn ngang ngó dọc mãi mới thấy người gọi, hấp tấp chạy đến khúm núm chào, “Cô Lưu Tư Miễu!”

“Có mỗi anh thôi à?” Lưu Tư Miễu hỏi.

“Hả?” Trương Vỹ ngơ ngác. “Có mình tôi thôi.”

“Phóng viên chạy tin của tòa soạn nhà anh là Quách Tiểu Phần cơ mà? Sao hôm nay cô ấy không đến?”

“Cô không biết à? Quách Tiểu Phần nghỉ việc rồi.”

Lưu Tư Miễu sửng sốt. Quách Tiểu Phần là phóng viên hàng đầu của Thời báo Pháp luật, chuyên theo dõi những vụ án lớn và nghiêm trọng. Tuy lúc tác nghiệp cô ấy hay gây sự với Lưu Tư Miễu, nhưng hai người làm việc nhiều năm với nhau, đã thành bạn bè từ lâu. “Cô ấy nghỉ việc khi nào, sao tôi không biết?!”

“Mới đây thôi.” Trương Vỹ đáp. “Cô ấy lăn lộn trong thành phố bao năm nhưng không mua nhà cũng chẳng lấy chồng, cứ nay đây mai đó, hơn nửa năm chuyển nhà không biết bao nhiêu lần. Nghe nói có lần nửa đêm còn lang thang đầu đường, ngủ tạm trên ghế công viên. Tóm lại, tâm trạng đã không tốt, bản thảo còn liên tục bị gạt đi, cô ấy cãi nhau om sòm với tổng biên tập rồi nghỉ việc luôn.”

Lưu Tư Miễu nhất thời không biết nên nói gì. Thấy cô ngẩn người, Trương Vỹ “tranh thủ bỏ chạy” vào con ngõ nhỏ nằm hướng Đông-Tây bên kia đường.

Tâm tư rối bời, Lưu Tư Miễu băng qua đường theo Trương Vỹ vào ngõ. Từ xa cô đã thấy cả đám phóng viên nhốn nháo ở cửa vườn ươm như lũ ruồi bọ mất đầu. Cổng rào không đóng nhưng chẳng ai dám vào, chỉ giơ điện thoại chụp tình hình phía trong. Thấy Đỗ Kiến Bình bước ra từ vườn ươm, bọn họ ngoan ngoãn dạt ra tạo khoảng trống, nghe ông nói mấy câu vô thưởng vô phạt về tình hình hiện tại, rồi ồn ào giải tán như được đại xá.

Nhớ lại kiểu tác nghiệp bám dai như đỉa của Quách Tiểu Phần năm xưa, Lưu Tư Miễu chợt rầu rĩ.

Về xưởng in, cô đứng trầm ngâm trong sân, sau đó lấy di động ra tìm số Quách Tiểu Phần, đang định bấm gọi thì chuông reo. Thấy màn hình hiển thị tên người gọi đến là Lý Tam Đa, cô sa sầm mặt.

Lý Tam Đa trước là phó bí thư ủy ban Chính trị Pháp luật thành phố, vừa nghỉ hưu năm ngoái. Công cuộc chống tham nhũng mấy năm gần đây đặc biệt chú trọng đến việc thẩm tra cán bộ nghỉ hưu, Lý Tam Đa làm ở chức vụ rất dễ tham ô nên bị thẩm tra cực kì gắt gao, nhưng điều tra mãi cũng chỉ cho ra kết quả: ông già này còn trong hơn cả nước lọc! Chẳng bao lâu sau, chính phủ gửi công văn xuống yêu cầu Lý Tam Đa đảm nhiệm chức cố vấn ủy ban Quản lý Toàn diện xã hội thành phố, phối hợp với Sở Cảnh sát thành phố giám sát công tác điều tra các vụ án lớn.

Giờ Lý Tam Đa đích thân gọi điện đến, chắc chắn không phải chuyện tốt lành. Quả nhiên, Lưu Tư Miễu vừa nhận cuộc gọi đã bị phủ đầu: “Khi nào mới phá được án? Cho tôi câu trả lời chính xác!”

Giao tiếp với loại người như Lý Tam Đa không được rụt rè sợ hãi, bằng không sẽ bị ông ta dắt mũi như chơi. Lưu Tư Miễu hỏi vặn, “Lạ nhỉ, tôi là tổ trưởng tổ chuyên án à?”

Lý Tam Đa sững sờ. Tuy đã quen biết nhiều năm, hiểu rõ Lưu Tư Miễu ghê gớm, nhưng ông ta không ngờ cô dám rắn mặt với cả mình. Người phụ trách chính trong công tác điều tra vụ án núi Chuột Quét là Đỗ Kiến Bình, dù có lập “quân lệnh trạng”, người kí tên cũng chẳng phải Lưu Tư Miễu. Lý Tam Đa bật cười. “Được rồi, tôi thật lòng mong cô áng chừng thử, từ phương diện kĩ thuật hình sự thì mất bao lâu mới phá được án?”

“Sao tôi áng chừng được!” Lưu Tư Miễu rất cương quyết. “Vụ này cực kì phức tạp, hiện trường cho thấy hung thủ rất hung ác và tàn nhẫn, lại còn giỏi xóa dấu vết, không để lại vật chứng có giá trị. Hiện giờ phương hướng điều tra của chúng tôi là sử dụng hệ thống Thiên Nhãn để tìm kiếm xe tình nghi, nhận diện và phân tích diện mạo kẻ tình nghi, có lẽ điểm đột phá của vụ án sẽ nằm ở đây… Với lực lượng cảnh sát được điều động lớn nhất từ trước đến nay, hung thủ không thể thoát khỏi lưới pháp luật đâu, nhưng ông đòi tôi cho biết khi nào hắn sa lưới thì tôi chịu.”

“Lưu Tư Miễu!” Lý Tam Đa đanh giọng. “Vụ án liên quan đến trẻ em rất dễ thu hút sự chú ý của công chúng, ta nhất định phải có tinh thần trách nhiệm cao với người dân để cố gắng phá án sớm!”

Nghe đến “tinh thần trách nhiệm cao với người dân”, Lưu Tư Miễu như bao cảnh sát khác đều cảm thấy nghề nghiệp của mình thật thiêng liêng và cao quý. Cô đổi giọng nghiêm túc và trang trọng.

“24 giờ đầu sau khi xảy ra án là thời gian vàng để phá án, tôi đảm bảo trước 10 giờ tối nay sẽ tóm nghi phạm về còng tay vào ống dẫn khí sưởi của Phòng Điều tra Hình sự!”

“Tôi chỉ cần đúng câu này của cô thôi. Rồi, cô làm việc đi!” Lý Tam Đa cúp máy.

Nhìn màn hình di động trở lại trang hiển thị số điện thoại Quách Tiểu Phần, Lưu Tư Miễu cười bất lực, cất di động vào túi áo. Trong lòng cô tự hỏi, liệu mình có thật sự thực hiện được lời hứa với Lý Tam Đa không?

⚝ ⚝ ⚝

Cảnh sát không ngờ việc phá án dễ dàng hơn họ tưởng. Đúng như Lưu Tư Miễu dự đoán, nhờ dùng hệ thống Thiên Nhãn truy lùng xe tình nghi đồng thời nhận diện và phân tích diện mạo đối tượng tình nghi, họ đã tìm ra điểm đột phá cho vụ án. Hay nói đúng hơn, cảnh sát dựa theo sắp xếp của Lưu Tư Miễu, tiến hành điều tra theo hai hướng và đạt được cùng một kết quả.

Sau buổi họp án sáng sớm nay, Lưu Tư Miễu bỗng nảy ra một ý. Cô cho rằng hung thủ đứng sau cực kì xuất sắc trong việc đối phó với lực lượng chức năng, mà năng lực này không phải cứ gây án nhiều lần là rèn luyện được. Bọn trộm cướp thường nói “thuận lợi cả năm không bằng sơ sẩy nửa ngày”, ám chỉ tầm quan trọng của việc sơ sẩy bị bắt đối với “sự trưởng thành” của tội phạm. Tức là chỉ khi nào đối diện nguy cơ bị hỏi cung thậm chí ngồi tù, chúng mới thật sự học được cách trốn khỏi sự truy đuổi của cảnh sát, giống như con thỏ thoát khỏi miệng hùm mới giỏi tránh thiên địch. Nói cách khác, nhiều khả năng hung thủ từng bị bắt và có tiền án.

Tổ thu thập thông tin số của Lâm Phượng Xung đã trích xuất máy quay gắn trên đèn giao thông Thanh Thạch Khẩu Đông, xác định tổng cộng 217 chiếc xe đi trên đường Ngân Lộc Bắc lên phía Bắc từ 6 giờ đến 10 rưỡi tối qua, trong đó 194 chiếc đang chờ đối chiếu lộ trình và chủ sở hữu. Công việc này đòi hỏi rất nhiều nhân vật lực và thời gian để hoàn thành. Song Lưu Tư Miễu cho rằng, dù hệ thống giám sát thông minh được sử dụng rộng rãi trong thành phố cho ra video không rõ nét lắm nhưng vẫn đủ phác họa đường nét chung chung mặt mũi từng tài xế. Nếu đem hình chụp 194 tài xế đi so sánh với hình chụp tội phạm được lưu trong kho dữ liệu Bộ Công an, tuy vẫn tốn thời gian nhưng chắc chắn hiệu quả hơn việc lần theo biển số xe, tìm từng tài xế hỏi về lộ trình hôm qua. Cô bảo Lâm Phượng Xung tức tốc thực hiện.

Hướng điều tra còn lại cũng do Lưu Tư Miễu nghĩ ra. Lúc đi theo Trương Vỹ đến cổng vườn ươm thấy các phóng viên phỏng vấn Đỗ Kiến Bình, cô lơ đãng liếc vào trong vườn, tự nhiên cảm thấy không đúng nhưng chẳng rõ vì sao. Mãi đến khi kết thúc cuộc gọi với Lý Tam Đa, cô mới giật mình nhận ra. Hối hả chạy vào cổng vừa hay thấy Sở Thiên Anh ở đó, cô chỉ vào vườn, “Đứng ở cổng này không nhìn thấy hầm thông gió.”

Sở Thiên Anh nhìn theo hướng tay cô chỉ. Hầm thông gió nằm ở góc Tây Nam của vườn, từ cổng nhìn vào đúng là lọt trong góc chết…

Lưu Tư Miễu nói thêm câu nữa làm anh giật mình, “Lập tức kiểm tra xem ai là người gọi 110 báo cảnh sát đêm qua!”

Từ khi đội cứu hỏa phát hiện xác chết dưới hầm thông gió đến giờ, cảnh sát vẫn luôn làm việc trong trạng thái khẩn trương cao độ, bận rộn từ khám nghiệm hiện trường đến hỏi han từng hộ dân và thu thập thông tin số. Do quá bận và căng thẳng, họ đã bỏ qua một điều tưởng chừng nhỏ nhặt: ai là người gọi 110? Một số người kĩ tính có nghĩ đến, nhưng vô thức mặc định đó chỉ là thường dân, nửa đêm đi qua cổng vườn ươm thấy hầm thông gió bốc cháy nên báo án. Tuy nhiên, phát hiện của Lưu Tư Miễu đã phủ định hoàn toàn khả năng này. Họ nghĩ ra hai khả năng khác. Một là có người vào vườn ươm “giải quyết nỗi buồn” nên phát hiện hỏa hoạn, nhưng đêm qua trời vừa tối vừa lạnh, đứng trong con ngõ heo hút là đủ kín đáo rồi, đâu nhất thiết phải vào tận khu vườn tăm tối. Hai là người dân thấy hầm bốc khói nghi ngút nên nhiệt tình chạy lại xem thử rồi báo án, song lúc cảnh sát hỏi han xung quanh thì không ai nhận công lao về mình.

Sở Thiên Anh vội liên hệ tổng đài 110, nhanh chóng tìm được nhân viên trực đêm hôm qua. Nhân viên đó vừa tan ca nhưng rất nghiêm túc và có trách nhiệm, lập tức quay lại trung tâm tổng đài, tìm bản ghi âm cuộc gọi và số điện thoại người gọi rồi gửi cho anh.

Nghe đoạn ghi âm ngắn gọn súc tích, Sở Thiên Anh tỉnh táo nhận ra cô nhân viên nhận cuộc gọi đã hiểu sai. Người gọi không hề ấn nhầm 119 thành 110, mà biết rất rõ sự việc này mang tính chất gì, cần cơ quan nào xử lý.

Sở Thiên Anh đoán kẻ báo tin liên quan mật thiết đến vụ án, thậm chí có khi hắn chính là hung thủ, vậy số điện thoại hắn dùng hẳn phải là sim rác không thể truy ra nguồn gốc. Ai ngờ kiểm tra mới biết sim được đăng kí hẳn hoi, chủ sim tên Hình Khải Thánh, nam, 55 tuổi, nhà ở tỉnh A, hiện là Giám đốc Viện Bảo trợ và Nuôi dưỡng Trẻ em ở thành phố này. Hồ sơ cho thấy đây là tổ chức cứu trợ trẻ em tàn tật nằm dưới sự quản lý của Quỹ từ thiện Ái Tâm.

Nghe Sở Thiên Anh báo lại, Lưu Tư Miễu nghĩ ngay đến phán đoán của Lôi Dung là nên điều tra các tổ chức từ thiện như trại trẻ mồ côi, trung tâm cứu trợ trẻ em tàn tật trong thành phố.

Có manh mối rồi!

Lưu Tư Miễu phấn khởi báo Đỗ Kiến Bình. Nghe thấy cái tên Quỹ từ thiện Ái Tâm, ông thoáng lộ vẻ đau đớn. Lưu Tư Miễu sực nhận ra mình lỡ quên mất một điều không nên quên, tuy hơi áy náy nhưng cô không thể hiện ra mặt, dù sao công việc vẫn là công việc. Đỗ Kiến Bình nhanh chóng lấy lại vẻ bình thường, gật đầu tỏ ý đã biết.

Chuẩn bị xong xuôi, Lưu Tư Miễu dùng di động cài đặt hệ thống theo dõi để gọi tới số điện thoại của Hình Khải Thánh. Không ngoài dự đoán, di động đã tắt máy.

Đỗ Kiến Bình gọi cấp dưới cũ là Sài Vĩnh Tiến lại, “Anh dẫn theo vài người được việc đến ngay Viện Bảo trợ và Nuôi dưỡng Trẻ em xem Hình Khải Thánh đang ở đâu. Dù lão cao chạy xa bay, anh vẫn phải mang về đây tài liệu chi tiết đặc điểm nhận dạng của lão. Lục soát cẩn thận nơi lão tạm trú trong thành phố. Ngoài ra, anh tập hợp toàn bộ nhân viên viện bảo trợ lại, bắt mỗi người khai cặn kẽ tối qua ở đâu, làm gì, có đi nặng cũng phải nói rõ đi mất bao lâu!”

Sài Vĩnh Tiến quay người dợm bước thì Lưu Tư Miễu nói thêm, “Anh gọi theo một nữ cảnh sát đã có con nữa, để còn bảo vệ bọn trẻ trong viện bảo trợ!”

Ba mươi phút sau, Sài Vĩnh Tiến gọi điện cho biết đã dẫn người đến niêm phong Viện Bảo trợ và Nuôi dưỡng Trẻ em, đối chiếu từng người theo thông tin bên nhân sự viện bảo trợ cung cấp. Trừ Hình Khải Thánh và một phó giám đốc thì cả viện bảo trợ có 8 nhân viên tính cả bảo vệ, trong viện hiện có 12 trẻ tàn tật. Các em đa số đến từ tỉnh A, mắc bệnh tim bẩm sinh hoặc bại não, hiện đều được giao cho cảnh sát trông nom.

“Hình Khải Thánh đang ở đâu?” Đỗ Kiến Bình quan tâm chuyện này nhất.

“Tất cả nhân viên đều không biết.” Sài Vĩnh Tiến đáp. “Nhưng cô tạp vụ bảo hơn 10 giờ tối qua vẫn nghe thấy tiếng động trong văn phòng giám đốc. Bảo vệ cũng nói giám đốc rời viện lúc 10 rưỡi.”

Nếu 10 rưỡi Hình Khải Thánh mới rời đi, lão không thể lập tức có mặt tại núi Chuột Quét lúc 10 rưỡi để gọi cảnh sát. Từ đó suy ra hai khả năng. Một là đồng bọn phóng hỏa xong gọi cho lão để lão báo cảnh sát, nhưng không rõ tại sao phải xử lý cồng kềnh như vậy. Liên hệ cơ quan viễn thông để lấy lịch sử cuộc gọi của Hình Khải Thánh, cảnh sát phát hiện 10 rưỡi tối qua lão không nhận được bất cứ cuộc gọi nào. Tuy nhiên có hai cuộc gọi đi, một cho 110, một tới văn phòng của lão và có người nghe máy! Nhưng cả bảo vệ lẫn cô tạp vụ đều thề thốt khẳng định tối qua không có khách đến, sau 10 giờ chỉ có giám đốc ra vào văn phòng. Vậy tại sao Hình Khải Thánh lại dùng di động gọi về văn phòng mình? Người nhận cuộc gọi là ai?

Vì khả năng thứ nhất tồn đọng quá nhiều nghi vấn nên khả năng thứ hai chiếm ưu thế: Hình Khải Thánh giao di động của mình cho hung thủ. Hung thủ phóng hỏa rồi dùng nó gọi cảnh sát, tiếp đó gọi cho lão đang ở văn phòng chờ tin, rồi cả hai cùng bỏ trốn.

Đỗ Kiến Bình hãy còn cau mày suy nghĩ, Lưu Tư Miễu ở bên cạnh đã hỏi vào điện thoại đang mở loa ngoài, “Dạo gần đây có bé nào mất tích không, anh đã hỏi chưa?”

“Lưu Tư Miễu đó à.” Sài Vĩnh Tiến trả lời, “Sau khi đến nơi, ngoài việc hỏi tung tích của Hình Khải Thánh, tôi còn tìm hiểu xem có bé nào mất tích không. Nói chắc chẳng ai tin, nhưng thậm chí không một nhân viên nào nắm rõ trong viện có bao nhiêu đứa trẻ…”

“Sao thế được?” Lưu Tư Miễu kinh ngạc. “Có mỗi mười mấy đứa thôi mà? Xòe tay ra đếm là hết!”

“Thì đúng thế, nhưng nhân viên viện bảo trợ này, nói thế nào nhỉ… rặt một đám ngáo ngơ. Bảo vệ là ông già sắp rụng sạch răng. Cô tạp vụ thì ấp a ấp úng như ngậm hột thị. Cô kế toán kiêm nhân sự toàn ngồi trong văn phòng chơi Vương Giả Vinh Diệu, hỏi gì cũng không biết. Thư kí giám đốc cứ như bình hoa di động, nói một câu dặm phấn ba lần. Tài xế là cậu trai mới ngoài 20, không có đầu óc, đang ngồi cắm đầu húp cháo. Ba bà bảo mẫu mặt mày dữ dằn, hỏi gì cũng bảo ‘đi hỏi lãnh đạo’…”

“Chẳng lẽ bọn trẻ đến hay đi đều không được ghi chép lại?” Đỗ Kiến Bình choáng váng.

“Không có, thật đấy…” Sài Vĩnh Tiến nói tiếp. “Cô thư kí bảo bọn trẻ đều được Quỹ từ thiện Ái Tâm tài trợ. Đa số chúng là trẻ mồ côi quê ở vùng sâu vùng xa của tỉnh A, lên thành phố chữa bệnh tại bệnh viện chỉ định. Trong thời gian chữa trị, trụ sở của quỹ thường cho người đưa bọn trẻ đến viện bảo trợ ở tạm, chữa xong lại đưa về. Ban đầu viện bảo trợ còn ghi vào sổ sách, nhưng lâu dần giám đốc viện cho rằng đằng nào trụ sở cũng ghi chép rồi nên mặc kệ luôn…”

“Mẹ kiếp, chuyện này cũng hời hợt được?!” Đỗ Kiến Bình buột miệng văng tục. “Thế kiểm tra camera giám sát của viện bảo trợ…”

“Không có camera giám sát…”

“Vớ vẩn!” Đỗ Kiến Bình nổi đóa, trợn mắt hung dữ, “Tất cả trường mẫu giáo, khu vui chơi và đơn vị giáo dục trẻ em trong thành phố đều phải lắp camera giám sát kết nối với các đồn cảnh sát, đây là công văn tiêu đề đỏ mà thành phố đưa ra!”

“Tôi cũng không hiểu tại sao như vậy…”

Đỗ Kiến Bình gọi một cảnh sát đến, “Cậu tới đồn cảnh sát khu vực viện bảo trợ hỏi thử xem. Nếu bên đồn dám làm ăn chểnh mảng, không thực hiện chỉ thị của thành phố, không đốc thúc và kiểm tra viện bảo trợ gắn camera giám sát, thì cho trưởng đồn và các cảnh sát ở đó nghỉ việc chờ lên thớt đi!”

“Làm vậy e không đúng quy trình, chúng ta thành ra vi phạm kỉ luật tổ chức mất.” Lưu Tư Miễu nhẹ nhàng can ngăn, sau đó quay sang người cảnh sát. “Anh cứ đến đồn cảnh sát, nếu phát hiện có vấn đề, lập tức báo lên trên để họ giải quyết.”

Đỗ Kiến Bình nhìn cô, chẳng nói nữa.

Sài Vĩnh Tiến tiếp tục báo cáo qua điện thoại, “Hình Khải Thánh thuê căn hộ ba phòng ngủ gần viện bảo trợ, tôi cho hai người đến đó lục soát rồi. Ngoài ra tôi lấy được một tấm ảnh của lão từ cô thư kí, tôi đã gửi cho hai người qua WeChat.”

Lưu Tư Miễu mở WeChat lên xem, ảnh chụp một người đàn ông trung niên bụng phệ, dáng thấp, tóc hơi xoăn tự nhiên, tay chân ngắn ngủn. Lão mặc đồ thể thao màu trắng, làm động tác vung gậy trên sân golf. Gương mặt hồng hào, to tròn như cái mâm, mắt và mũi dính sát vào nhau như thể mặt vừa bị cửa kẹp bẹp rúm, cặp môi dày, miệng ngoác ra để lộ hàm răng vàng khè vì hút thuốc, tóc lơ thơ mấy sợi còn rẽ ngôi lệch, vuốt keo bóng nhẫy. Ánh mắt và nụ cười lão hướng về camera điện thoại trông khá dung tục.

Lưu Tư Miễu đưa di động cho Đỗ Kiến Bình, “Anh xem, vóc dáng người này hơi giống thi thể C nhỉ?”

Đỗ Kiến Bình liếc qua, “Ừ” một tiếng.

“Anh dặn đồng chí nào lục soát nhà Hình Khải Thánh chú ý lấy những mẫu phẩm có giá trị đối chiếu ADN như tóc, móng tay hoặc vết máu.” Lưu Tư Miễu căn dặn. “Với lại, anh tìm hiểu xem tối hôm kia bọn trẻ ở viện bảo trợ ăn gì và tối qua Hình Khải Thánh ăn gì. Chị Lôi Dung sắp gửi kết quả phân tích thức ăn trong dạ dày bốn thi thể rồi, tôi muốn so sánh xem sao.”

Đỗ Kiến Bình cúp máy, lẩm bẩm, “Nếu Hình Khải Thánh là nạn nhân thì càng kì quái…”

Lưu Tư Miễu cảm thấy hàng tá câu hỏi ập đến như bầy muỗi trong rừng mùa hè. Giả dụ thi thể C đúng là Hình Khải Thánh, vậy người ở văn phòng giám đốc lúc 10 rưỡi tối qua là ai? Kết quả khám nghiệm cho thấy thi thể C tử vong trong khoảng thời gian 110 nhận được cuộc gọi báo án. Giả sử người báo cảnh sát chính là nạn nhân - Hình Khải Thánh, vì sao lão không nói mình đang gặp nạn mà lại báo cháy, và vì sao phải gọi điện về văn phòng? Nếu người báo cảnh sát là hung thủ, thì hẳn có quan hệ gì với Hình Khải Thánh, tại sao phải giết lão rồi ném xác xuống hầm thông gió?

Đêm qua đã thức trắng, giờ lại vắt óc suy nghĩ nên Lưu Tư Miễu buốt hết cả đầu. Cô gõ nhẹ nắm tay ra sau đâu vài lần đồng thời nắn huyệt Tinh minh.

Thấy vậy, Đỗ Kiến Bình khuyên, “Mệt quá thì về xe chợp mắt một lát, có chuyện gì tôi sẽ gọi cô.”

Lưu Tư Miễu lắc đầu. “Muốn chợp mắt cũng không chợp mắt nổi, cố gắng qua cơn buồn ngủ này là ổn thôi…” Mở mắt ra, thấy Đỗ Kiến Bình nhìn mình bằng ánh mắt hơi kì lạ, cô hỏi, “Sao thế?”

Đỗ Kiến Bình từ tốn đáp, “Không có gì, đột nhiên tôi có cảm giác cô trưởng thành hơn trước nhiều. Hồi mới vào sở, cô chỉ là cô bé kiêu ngạo, bẵng đi hai năm đã biết suy nghĩ chu đáo…”

“Thật ra, ý anh là tôi bắt đầu khôn khéo, lõi đời hơn chứ gì.” Lưu Tư Miễu đứng bên cửa sổ kính cáu bẩn, ngắm cây dương già trong sân xưởng in. Sau một đêm gió cuốn sạch lá, cây chỉ còn trơ lại cành.

Đỗ Kiến Bình định nói nhưng lại im lặng. Vừa hay một lãnh đạo của tổng công ty tàu điện ngầm thành phố đến tìm hiểu tình hình, ông vội ra tiếp đón.

Khi quay về sở chi huy lâm thời, Đỗ Kiến Bình nhận được loạt báo cáo cập nhật diễn biến mới. Đầu tiên, nhóm cảnh sát lục soát nhà Hình Khải Thánh cho biết, camera giám sát và kết quả lục soát căn hộ đều chỉ ra tối qua lão không về nhà. Nhưng quần áo, va li cùng giấy tờ, tiền mặt và thẻ ngân hàng trong két sắt đều còn nguyên, không có dấu hiệu cho thấy lão đã hoặc đang chuẩn bị bỏ trốn. Tóc lấy trên lược và gối đã được gửi tới Phòng Kĩ thuật Hình sự đế tiến hành so sánh ADN với thi thể C. Tiếp theo, Sài Vĩnh Tiến báo cáo, bảo mẫu bị cảnh sát gặng hỏi mãi mới khai ba bữa cơm hằng ngày của bọn trẻ đều đặt từ quán cơm gần đó, nhưng bảo mẫu không nhớ cụ thể tối hôm trước bọn trẻ ăn gì, chỉ ậm ờ bảo “rất thịnh soạn”. Ngoài ra, cảnh sát đã liên hệ được với phó giám đốc đang đi công tác, hiện bà ta đang trên đường về. Cuối cùng, Sở Thiên Anh báo đã yêu cầu Quỹ từ thiện Ái Tâm ở tỉnh A nhanh chóng cung cấp danh sách những đứa trẻ được đưa đến thành phố chữa bệnh đợt này. Bên đó viện hết nguyên tắc này đến quy định khác để thoái thác, nào là không thể công khai danh sách, nào là phải xin cấp trên phê duyệt. Vì phải bảo mật thông tin vụ án, Sở Thiên Anh không thể cho họ biết mức độ nghiêm trọng của vụ này, chỉ còn cách vừa dụ dỗ vừa dọa nạt, nhưng nói rách cả miệng vẫn vô ích.

“Không cần phí lời với họ!” Đỗ Kiến Bình sa sầm mặt mày. “Gửi yêu cầu hỗ trợ điều tra cho Sở Cảnh sát tỉnh A!”

Song, báo cáo khiến Đỗ Kiến Bình bất ngờ nhất đến từ cảnh sát được cử tới đồn cảnh sát khu vực viện bảo trợ. Anh ta cho hay cơ chế viện bảo trợ rất mập mờ: không phải trường mẫu giáo cũng chẳng phải cơ sở bảo trợ xã hội, không phải đơn vị hành chính sự nghiệp do chính phủ thành lập cũng chẳng phải tổ chức lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận tư nhân. Vì vậy nó không được đăng kí ở ủy ban giáo dục hay cơ quan dân chính trong thành phố, nói thẳng ra nó là cơ sở bất hợp pháp, đến giấy chứng nhận phòng cháy chữa cháy còn chẳng có nữa là camera giám sát. Cảnh sát khu vực nhiều lần đến giục viện bảo trợ thực hiện các thủ tục liên quan, nhưng viện cậy có chỗ dựa, lại còn có mác từ thiện phúc lợi, hay được các đoàn thể xã hội đến thăm hỏi nên cảnh sát không thể tùy tiện cấm đoán. Hơn nữa giám đốc Hình Khải Thánh “là kẻ lươn lẹo”, cứ dùng dằng mãi đến giờ.

Nghe xong báo cáo, người phá án hùng hổ như Đỗ Kiến Bình cũng cảm thấy như rơi vào cuộn len khổng lồ, tay chân không thể duỗi thẳng, càng vùng vẫy thoát ra càng bị trói chặt lại. Ông chà bàn tay thô ráp lên gương mặt thô ráp không kém, dụi đôi mắt đỏ ngầu khiến nó càng đỏ hơn.

“Anh Sài Vĩnh Tiến không ổn!” Lưu Tư Miễu quả quyết. “Cách làm của anh ta quá truyền thống, quá bảo thủ. Cả cái viện bảo trợ được Hình Khải Thánh huấn luyện thành loại lì lợm không sợ trời không sợ đất, ta phải cử một người cục tính và khó chơi hơn mới tháo gỡ được thế bế tắc.”

Ngẩn ra một lúc, Đỗ Kiến Bình gật đầu. “Cử Mã Tiếu Trung đi!”

Mã Tiếu Trung là trưởng đồn cảnh sát công viên Vọng Nguyệt, nổi tiếng mẫn cán, túm được ai là bắt kẻ đó khai bằng sạch. Nghĩ đến cảnh Mã Tiếu Trung tham gia, Đỗ Kiến Bình chợt thấy tia sáng le lói. Nhưng chưa kịp nhẹ lòng, ông nhận được tin chấn động.

“Sếp.” Lâm Phượng Xung đứng sau lưng Đỗ Kiến Bình từ khi nào, iPad trên tay úp mặt vào trong, “Chúng tôi đã cắt và phóng to hình ảnh 194 chiếc xe trong băng ghi hình, sau đó đưa ảnh tài xế vào kho dữ liệu của bộ để so sánh, giờ đã có kết quả…” Giọng anh rất kì quặc, nghe như bác sĩ mổ chính chuẩn bị báo tin phẫu thuật thất bại với người nhà bệnh nhân.

Đỗ Kiến Bình và Lưu Tư Miễu nhìn nhau, đồng thanh hỏi, “Tìm ra đối tượng tình nghi chưa?”

“Tìm được rồi…” Lâm Phượng Xung vừa nói vừa xoay iPad ra…

“Á?!” Đỗ Kiến Bình cả kinh thốt lên, Lưu Tư Miễu bất giác hít một hơi thật sâu!

Dù mụn trên gương mặt bạnh đã thành sẹo rỗ, dù ria mép đã được cạo sạch, nhưng cặp mắt tam giác của người cầm lái vẫn lạnh lùng, tàn nhẫn hệt mười năm trước, thậm chí còn độc ác đáng sợ hơn.

Đúng vậy, kẻ này chính là Chu Lập Bình, nghi phạm của loạt án giết người ở Tây Giao!

⚝ ⚝ ⚝

Khoảng 3 rưỡi chiều, hai chiếc Buick GL8 cửa gắn kính phản quang chậm rãi đỗ lại trước cổng tòa D của Khu Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ cao Nhuận Đường.

Nhuận Đường mới được xây dựng ở Tây Giao mấy năm gần đây nhằm thu hút đầu tư. Khu này rất rộng, cổng vào đủ cho bốn xe buýt lớn đỗ song song, ở giữa là quảng trường có đài phun nước và cột trụ cổ điển kiểu La Mã trông lố lăng hết sức. Bao quanh quảng trường là các tòa nhà mái vòm màu trắng xám, nhìn từ trên không trông như trứng khủng long được nấu trong nồi lẩu chín ô. Cả khu phủ thảm cỏ, điểm thêm dăm ba cây non thấp lè tè. Đường đi lát đá rối, chỗ có con suối nhỏ, chỗ dựng hòn giả sơn bên trên đặt pin năng lượng mặt trời. Kiến trúc sư thiết kế như thế nhằm làm nổi bật chủ đề khoa học kĩ thuật, tính thời thượng và ý thức bảo vệ môi trường. Chỉ tiếc hai năm gần đây rất nhiều doanh nghiệp phá sản hoặc dọn đi, khu này trở nên vắng lặng tiêu điều, thi thoảng người ta đi qua ho một tiếng còn nghe thấy cả tiếng vọng.

“Tòa D có cửa Tây và cửa Đông. Phía Nam có lối nhỏ chuyên để vận chuyển rác và phế liệu, bình thường chỉ nhân viên quét dọn mới dùng.” Ngồi trong xe GL8, trưởng phòng quản lý khu Nhuận Đường (một người đàn ông thấp bé và mắt hơi lé) nói với Đỗ Kiến Bình, “Công ty Quan hệ công chúng Minh Di ở ngay khu văn phòng phía Bắc tầng một, để tôi vào dò la xem người các anh cần tìm còn đó hay đã đi rồi nhé?”

Nhìn đầu ngón tay run rẩy của trưởng phòng, Đỗ Kiến Bình nhớ lại hồi nãy anh ta đã khiếp đảm thế nào khi bị gọi ra ngoài. Dám chắc tên này không ngoại tình cũng biển thủ công quỹ, lòng dạ rặt những âm mưu. Nhưng giờ không phải lúc để ý mấy chuyện đó.

Sau khi phát hiện Chu Lập Bình đã lái chiếc Spica màu đen đi hướng Nam-Bắc ngang qua đèn giao thông Thanh Thạch Khẩu Đông khoảng 10 giờ tối qua, cảnh sát lập tức tìm kiếm hồ sơ liên quan đến chiếc xe và biết được đơn vị sở hữu là công ty Quan hệ công chúng Minh Di. Theo trang web chính thức của công ty, người đứng đầu mang họ Trịnh, từng là trưởng phòng quảng cáo một tờ báo chuyên về hoạt động công ích, sau khi nghỉ việc đã thành lập công ty này. Minh Di chuyên tổ chức các buổi quyên góp và dạ tiệc từ thiện cho các tổ chức thiện nguyện của chính phủ và tư nhân trong thành phố. Báo cáo của cơ quan thuế công thương cho thấy Quỹ từ thiện Ái Tâm chính là nhà đâu tư lớn nhất của công ty này.

Chưa rõ Chu Lập Bình giữ chức vụ gì, cụ thể làm công việc gì ở Minh Di, nhưng cảnh sát không tiện dò hỏi vì sợ rò rỉ tin tức. Tình thế cấp bách nên Đỗ Kiến Bình quyết định lập tức bắt giữ Chu Lập Bình, “Chỉ cần bắt được hắn, kiểu gì ta cũng tra ra được manh mối!”

Câu nói này chỉ mang tính chất khích lệ. Đỗ Kiến Bình thừa hiểu địch này không thể coi thường. Chuyện xảy ra mười năm trước đã chứng minh, bắt Chu Lập Bình thì dễ, muốn đánh bại hắn mới khó. Năm đó dù bị bắt, hắn vẫn luôn giữ im lặng, cảnh sát lại không đủ chứng cứ, đã thế Lâm Hương Minh còn xen vào cản trở, cuối cùng tòa nhận định hắn chỉ phạm duy nhất tội giết Phòng Chí Phong, kết án mười năm tù vì hắn chưa đủ 18 tuổi. Rất nhiều cảnh sát bất bình, trong đó có Lý Chí Dũng. Tận một năm sau, trong một lần uống say đến đỏ mắt, Lý Chí Dũng còn gào vào mặt Đỗ Kiến Bình, “Anh tin Chu Lập Bình ngồi tù chưa đầy mười năm sẽ được thả không? Anh tin nó ra ngoài rồi sẽ giết thêm nhiều người nữa không?!” Những lời đó như đang văng vẳng bên tai Đỗ Kiến Bình.

Giờ đây, thảm kịch xảy ra trên núi Chuột Quét đã chứng minh lời chất vấn của Lý Chí Dũng không hề thừa thãi.

Họ biết trách ai?

Lúc đó, Đỗ Kiến Bình đã vô thức liếc Lưu Tư Miễu. Song cô vờ như không thấy.

Trong thời gian rất ngắn, Trại giam Số 1 thành phố cũng như đồn cảnh sát, khu phố và cơ sở hỗ trợ tại địa bàn Chu Lập Bình cư trú đều báo cáo cùng một tình hình: hai năm trước, sau khi được tha tù sớm vì cải tạo tốt, Chu Lập Bình không đi tìm bố mẹ ruột, cũng không làm phiền người dì từng nhận nuôi mình, mà tự thuê trọ một căn nhà giá rẻ. Ban đầu quá trình tìm thuê rất vất vả, hợp đồng đã kí, tiền cọc đã đưa, chẳng hiểu sao chủ nhà biết chuyện hắn là tội phạm giết người từng ngồi tù nên hủy hợp đồng. Cứ vài lần như thế, đến nhân viên công ty môi giới nhà đất cũng thấy ngại, bèn giúp hắn thuê căn nhà nhỏ một phòng ngủ. Chủ nhà định cư ở Mỹ hiếm khi về nên ủy thác hết cho công ty môi giới, nhờ thế mới đỡ phiền phức.

Thu xếp xong xuôi, Chu Lập Bình đến đồn cảnh sát khu vực trình diện đúng thời gian quy định, có điều cảnh sát ở đấy chẳng ưa hắn nên không tạo điều kiện để hắn làm thủ tục. Dẫu phải hứng chịu bao lời châm biếm, gièm pha và khinh bỉ, hắn vẫn một mực lặng im, trưng ra vẻ mặt vô cảm, vòng đi vòng lại giữa các cơ quan địa phương để đăng kí, kí tên, đóng dấu theo đúng yêu cầu, mãi mới làm lại được hộ khẩu và căn cước công dân. Nhờ sự giúp đỡ của cơ sở hỗ trợ, hắn tìm được công việc hỗ trợ điều tiết giao thông. Thế là hắn, một thanh niên mới ngoài hai mươi, hằng ngày sớm tối đội mũ đỏ, mặc áo gi-lê cam sọc vàng, tay cầm cờ đỏ, đứng dưới đèn giao thông điều tiết xe cộ, khát thì uống nước máy trong nhà vệ sinh công cộng gần đó, đói thì gặm bánh bao mua ở quán ăn bình dân…

Thấy “dã thú” Chu Lập Bình có vẻ đã thật sự thuần phục, đồn cảnh sát và cả khu phố dần bớt cảnh giác. Thậm chí trong vụ “tìm súng” xảy ra không lâu sau đó, chủ tịch ủy ban phường còn nói đỡ cho hắn: “Tôi nghĩ cậu ta thay đổi rồi.”

Đỗ Kiến Bình chỉ biết một số chứ không nắm toàn bộ những chuyện trên, bởi vậy ông hận những cán bộ địa phương tin tưởng một con cọp khát máu có thể biến thành con mèo ngoan hiền, ông cũng hận chính mình, giá như ông tin lời Lý Chí Dũng trong vụ tìm súng, nhất quyết bắt Chu Lập Bình chịu tội trước pháp luật thì họ đâu mất đi một đồng đội, cũng đâu dẫn tới thảm kịch trên núi Chuột Quét hôm nay…

Nhóm vây bắt Chu Lập Bình chia làm hai tổ. Tổ A do Lâm Phượng Xung dẫn đầu đến thẳng nhà Chu Lập Bình, Sở Thiên Anh theo cùng, bất kể bắt được Chu Lập Bình ở đó hay không đều có thể lập tức tiến hành lục soát và khám xét nơi ở của hắn. Tổ B do Đỗ Kiến Bình đích thân dẫn đầu đến công ty Quan hệ công chúng Minh Di, vì định vị theo dõi di động của Chu Lập Bình cho thấy di động hắn hiện đang nằm trong Nhuận Đường.

Đến nơi, cảnh sát gặp trưởng phòng quản lý khu ươm tạo, tìm hiểu cặn kẽ thiết kế bên trong, lối ra vào tòa D cùng vị trí cụ thể của công ty Minh Di. Đỗ Kiến Bình nói với các cảnh sát trên xe, “Mọi người đều biết Chu Lập Bình là đối thủ cũ của chúng ta, mười năm trước hắn từng giết hại nhiều người, trong đó có một nữ cảnh sát, vì nhiều nguyên nhân mà ta không thể bắt hắn ngồi tù mọt gông. Lần này hắn còn may mắn nữa không phụ thuộc cả vào anh em!”

Một cảnh sát vạm vỡ cười lạnh lùng, “Sếp yên tâm, lần này bắt được thằng lỏi đó, chúng tôi sẽ băm vằm ra gửi xuống Diêm Vương.”

“Phải thế chứ!” Đỗ Kiến Bình gật đầu. “Nhưng chú ý tránh nổ súng trong quá trình bắt giữ, cố gắng bắt sống. Để hắn chết thì lợi cho hắn quá. Kẻ này cực kì nguy hiểm, chưa biết chừng còn mang theo vũ khí. Nếu hắn nổ súng chống cự, cực chẳng đã có thể bắn lại nhưng tránh vị trí hiểm yếu trên người hắn. Tuyệt đối chú ý an toàn của dân thường xung quanh.”

Lâm Phượng Xung gọi điện báo không tìm thấy Chu Lập Bình ở nhà hắn, vậy gần như có thể khẳng định hắn ở ngay trong tòa D.

Các cảnh sát bừng bừng khí thế chờ Đỗ Kiến Bình ra lệnh tấn công. Nhưng trước khi khai chiến, Đỗ Kiến Bình lại thấy lòng mình nặng nề. Tám năm ngồi tù đủ để tên sát nhân vị thành niên hung hiểm “nâng cao” thủ pháp, tâm lý và thể chất khi gây án. Một khi hắn chống cự, cấp dưới của ông phải đối diện với nguy cơ thương vong, người dân vô tội cũng khó tránh vạ lây. Cách tốt nhất là cử một người vào Minh Di, thăm dò vị trí và tình hình Chu Lập Bình, thậm chí sơ tán nhân viên trong công ty và cả tòa nhà D. Nhưng những người trên xe đều là cảnh sát lão làng chuyên bắt tội phạm nguy hiểm, nhìn mặt là biết dân trong ngành, người thường trông thấy còn muốn né xa chứ đừng nói kẻ đầy kinh nghiệm như Chu Lập Bình. Huống hồ hắn vừa gây án nên sẽ càng nhạy cảm với những động tĩnh nhỏ, thấy người dân được sơ tán chắc chắn sẽ nghi ngờ. Thật sự không còn cách nào khác ngoài trực tiếp xông vào.

Đỗ Kiến Bình hạ quyết tâm, chuẩn bị ra lệnh cho anh em. Chợt có tiếng đập cửa, mọi người trong xe giật thót. Quay ra nhìn cửa sổ, Đỗ Kiến Bình vội vàng mở cửa xe, vừa ngỡ ngàng vừa mừng rỡ. Người đứng ngoài chính là “cựu” cấp dưới Lý Chí Dũng!

Hai năm không gặp, Lý Chí Dũng hơi béo lên, đôi mắt ti hí vẫn toát lên nét quật cường và ngang ngạnh. Tóc tai gọn gàng, mày râu nhẵn nhụi, bộ đồ tây màu đen trên người hơi nhăn nhúm nhưng chỉnh tề hơn nhiều thời còn làm cảnh sát hình sự. Gặp lại sếp và đồng nghiệp cũ, anh phấn khởi tay bắt mặt mừng.

“Sao cậu ở đây?” Đỗ Kiến Bình hỏi.

“Tôi còn định hỏi anh câu ấy đấy!” Lý Chí Dũng đáp. “Gì chứ tôi nhìn là nhận ra ngay hai chiếc GL8 này, ‘bạn già’ của đội hình sự chúng ta mà. Có vụ nào hả?”

Đỗ Kiến Bình “Ừ” một tiếng, không giải thích thêm.

Lý Chí Dũng hiểu rõ quy định cảnh sát phải tuyệt đối kín miệng với “người ngoài” trong quá trình điều tra. Anh bất ngờ hỏi, “Các anh đến bắt Chu Lập Bình?”

Đỗ Kiến Bình nhìn anh, “Sao cậu biết?”

“Thì đây là khu ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, bảo tới bắt tội phạm kinh tế hay tội phạm lừa đảo nghe cũng hợp lý, nhưng đâu cần cả đội hình sự hùng hổ kéo nhau đến thế này.” Lý Chí Dũng giải thích. “Suy ra các anh đi bắt tội phạm hình sự, không những thế còn là kẻ gây ra vụ án nghiêm trọng. Cả khu này ngoài Chu Lập Bình ra còn ai vào đây.”

“Đúng là cựu cảnh sát hình sự có khác, tinh thật.” Đỗ Kiến Bình cười hỏi thêm, “Sao cậu biết Chu Lập Bình ở trong này?”

“Tôi làm cùng công ty Minh Di ở tòa D với hắn.”

Mọi người trợn tròn mắt, hóa ra mèo và chuột ở cùng một hang!

Tuy chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện, nhưng Đỗ Kiến Bình biết người nắm rõ nội bộ Minh Di mà mình trông ngóng đang đứng ngay trước mặt. “Chu Lập Bình còn trong công ty không?”

“Còn!” Lý Chí Dũng đổi giọng nghiêm túc. “Hôm nay tôi tan làm sớm. Lúc tôi đi ra, hắn vẫn đang ngồi chỗ mình.”

Đỗ Kiến Bình gật đầu. “Cậu phối hợp chúng tôi bắt giữ hắn nhé?”

“Tôi mong ngày này lâu lắm rồi!” Lý Chí Dũng nói. “Để tôi quay lại công ty, anh cứ bảo anh em chốt chặn cửa Đông với cửa Tây, chờ tôi gọi điện báo cáo tình hình hẵng hành động.”

“Quá ổn!” Đỗ Kiến Bình vui vẻ vỗ vai cấp dưới cũ.

“Ái!” Lý Chí Dũng kêu đau.

“Sao vậy?” Đỗ Kiến Bình ngạc nhiên. “Tôi có dùng sức mấy đâu?”

“Không sao, hôm qua chuyển đồ trong công ty nên trật khớp.” Dứt lời, Lý Chí Dũng quay người đi vào tòa D.

Chờ anh vào trong, Đỗ Kiến Bình nhảy xuống xe, cảnh sát trong hai chiếc GL8 cũng túa ra. Họ đều mặc áo khoác da màu đen hoặc nâu, mặt mày nghiêm nghị và cảnh giác. Đỗ Kiến Bình phất tay, tất cả cúi xuống, lao vọt tới tòa D như bầy sói vồ mồi. Một đội áp sát cửa Tây, một đội vòng phía Nam sang cửa Đông, sau đó đồng loạt dừng bước trước cửa, yên lặng chờ mệnh lệnh tiếp theo.

Đúng lúc này di động Đỗ Kiến Bình đổ chuông. Đầu kia truyền đến giọng nói nôn nóng của Lý Chí Dũng, “Chu Lập Bình chạy rồi!”

Tai Đỗ Kiến Bình ù đi. Ông lập tức rút súng lục giắt ở thắt lưng, đẩy toang cửa kính xông vào tòa D. Các cảnh sát nối gót ông ùa vào đại sảnh tầng một, tay lăm lăm súng đã lên đạn, bóng họ hỗn loạn phản chiếu dưới nền nhà cẩm thạch trắng bóng loáng. Họ lao thẳng vào công ty Minh Di. Ngồi trước biển hiệu lễ tân màu vàng tươi là một cô gái xinh đẹp, ăn mặc hợp mốt. Thấy đám người đằng đằng sát khí ào tới, cô giật mình đứng bật dậy, chưa kịp kêu lên đã thấy Lý Chí Dũng làm cùng công ty chạy ra đón mấy vị khách không mời.

“Sao cậu bảo hắn vẫn còn trong công ty?” Đỗ Kiến Bình chất vấn.

“Lúc đi ra tôi thấy hắn ngồi ở bàn làm việc xem máy tính mà.”

“Thế mà thoắt cái đã chuồn đi đâu mất rồi. Cặp tài liệu của hắn còn ở chỗ ngồi không?”

“Hắn là tài xế, lúc nào cũng đi làm tay không…”

“Cửa Đông cửa Đông, có thấy Chu Lập Bình đi ra không?!” Đỗ Kiến Bình gào vào bộ đàm.

“Không thấy! Không thấy!”

Chẳng biết có phải vừa rồi Chu Lập Bình ngó ra cửa sổ thấy bọn họ chào hỏi nhau nên bỏ chạy không… Đỗ Kiến Bình toát mồ hôi hột trên vầng trán rộng, một khi để sổng mất nghi phạm quan trọng, về sau khó bắt sống lắm. Quay người định chạy ra, ông đâm sầm vào một người đang thong thả đi vào. Ông trố mắt. Người đó là Chu Lập Bình!

Đỗ Kiến Bình túm ngay cánh tay Chu Lập Bình bẻ ngược ra sau nghe răng rắc, chân phải gạt một cái làm hẳn ngã oạch ra đất như bùn nhão. Cảnh sát ùa lên, người ấn đầu, người kẹp cổ, người còng tay. Ban đầu Chu Lập Bình còn kêu oai oái vì đau, sau có lẽ vì cổ bị chẹn nên họng chỉ phát ra tiếng ư ử kì quặc như chó kêu.

Cô gái tiếp tân hãi hùng hét toáng lên. Nhân viên công ty Minh Di lố nhố thò đâu ra từ sau vách ngăn giữa khu văn phòng và quầy lễ tân, muốn hóng hớt nhưng không dám nhìn thẳng.

“Sếp.” Một cảnh sát lắc đầu tỏ ý không tìm thấy vũ khí trên người Chu Lập Bình.

Đỗ Kiến Bình ngồi xổm xuống túm tóc đối tượng, hỏi, “Họ tên?”

“Chu Lập Bình.”

“Biết mình phạm tội gì không?”

“Không.”

“Được! Đến chỗ này khắc biết!”

Cảnh sát xách hắn lên như xách gà, thoăn thoắt rút khỏi tòa D.

Từ đầu đến cuối sự việc, các văn phòng khác trong hành lang không một ai ra hóng chuyện, yên ắng hệt những chiếc quan tài thủy tinh lặng lẽ chờ người đến viếng.

⚝ ⚝ ⚝

Tin Chu Lập Bình bị bắt truyền đến sở chỉ huy lâm thời, cả xưởng in vang tiếng hoan hô như sấm dậy. Dù mắt thâm quầng vì thức suốt đêm nhưng cảnh sát nào cũng cười toe toét, người dựa tường rút điếu thuốc ra hút say sưa, người gọi điện cho vợ thủ thỉ xin lỗi vì đêm qua không về. Có người đứng tại chỗ vươn vai, ưỡn ngực, xoay đầu làm xương cốt kêu răng rắc. Cũng có người mở miệng túi nylon treo trên xe cải tiến, lấy miếng quẩy lạnh ngắt và cứng quèo ra nhai ngấu nghiến như hổ đói.

Vì đây là vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, việc hỏi cung sẽ do Ban Thẩm vấn Phòng Điều tra Hình sự Sở Cảnh sát thành phố đảm trách. Một cảnh sát đến chỗ Lưu Tư Miễu xin chỉ thị, “Giờ mình thu dọn chỗ này được chưa?” Ý là có cần giải tán sở chỉ huy lâm thời và rút quân không? Lưu Tư Miễu chẳng đáp, chỉ lạnh lùng nhìn lại, viên cảnh sát biết điều vội lui đi.

Phá được án rồi sao? Lưu Tư Miễu hơi bất ngờ. Kẻ gây án giết bốn người, phóng hỏa đốt xác, lại còn cực kì “lão luyện” trong việc xóa dấu vết, vậy mà dễ dàng sa lưới thế ư… Cô nhớ lại cảnh khám nghiệm tử thi đầy kinh hoàng của Đường Tiểu Đường dưới hầm thông gió, cảnh các đồng chí vất vả làm việc thâu đêm trong vườn ươm bên kia đường, cảnh mọi người lúng túng nhìn nhau trong buổi họp án tổ chức tại đây sáng nay, và cả cảnh tấm bạt trắng bị gió cuốn phăng qua bức tường rào. Cô bỗng có cảm giác tất cả chỉ là giấc mơ.

Điện thoại của Lưu Tư Miễu đổ chuông. Cô nhận cuộc gọi, đầu kia vang lên giọng nói vui mừng của Lý Tam Đa, “Lưu Tư Miễu, làm tốt lắm!”

“Công lao của tập thể mà.”

“Khỏi khiêm tốn, tôi biết hết rồi, nhờ cô vạch đúng phương hướng điều tra nên mới nhanh chóng bắt được nghi phạm. Việc tiếp theo cứ để bên thẩm vấn lo, cô về nhà nghỉ ngơi đi!”

Chớ thấy biển lặng mà ngỡ không có sóng ngầm. Người khác không nhận ra, nhưng Lưu Tư Miễu hiểu rất rõ. “Có gì ông nói thẳng, có phải giờ tôi không được nhúng tay vào vụ này nữa không?”

“Cô đúng là nhỏ mọn hơn cả Lâm Đại Ngọc.” Lý Tam Đa cười hì hì. “Hứa Thụy Long bàn với tôi rồi, để cô nghỉ ngơi là vì sợ cô ngã bệnh. Cô mà ốm ra đấy, chúng tôi biết tìm ai làm thay cả đống việc ở Phòng Kĩ thuật Hình sự? Vả lại mỗi phòng ban có nhiệm vụ riêng, ai lo việc người nấy, sao để một bên ôm đồm hết được?”

Dối trá! Lưu Tư Miễu thừa hiểu Lý Tam Đa chỉ nói một nửa sự thật, ừ thì sau khi nghi phạm quan trọng bị bắt, vụ án sẽ bước sang giai đoạn tiếp theo, lúc ấy ngay cả Phòng Điều tra Hình sự cũng phải nhường chỗ cho Ban Thẩm vấn vào cuộc, nói gì đến Phòng Kĩ thuật Hình sự. Nhưng vậy không có nghĩa hai phòng cứ thế phủi tay hết trách nhiệm, bởi lẽ vẫn có khả năng hung thủ là người khác. Kể cả nếu Chu Lập Bình đúng là hung thủ, Phòng Kĩ thuật Hình sự vẫn phải đưa ra báo cáo giám định vật chứng trong một loạt quy trình tố tụng hình sự tiếp theo (từ khâu kết thúc điều tra để chuyển sang cho Viện kiểm sát tiến hành thẩm tra và truy tố, đến khâu đưa tòa án xét xử). Tuy đa số những việc này không cần Lưu Tư Miễu đích thân làm, nhưng cô vẫn nhận ra ẩn ý khi Lý Tam Đa cố tình nhấn mạnh muốn cô “nghỉ ngơi”.

Nếu là hồi trước, với tính cách của mình, Lưu Tư Miễu chắc chắn sẽ vặn hỏi Lý Tam Đa cho ra nhẽ. Nhưng một năm trở lại đây cô cứ thấy mệt mỏi chán chường… Dần dà, một người luôn cẩn thận tỉ mỉ trong công việc và cuộc sống như cô bắt đầu có suy nghĩ “tàm tạm là được”, “giả ngu cho lành”. Những suy nghĩ này xuất hiện quá nhiều càng khiến cô thêm buồn bực và mâu thuẫn. Cô không muốn thỏa hiệp, nhưng đành phải thỏa hiệp.

“Thôi được.” Cô đáp.

Lý Tam Đa cúp máy. Lưu Tư Miễu đoán nhất định ông ta đang thở phào.

Bỏ điện thoại xuống, tự nhiên Lưu Tư Miễu có cảm giác là lạ. Cô ngước nhìn xung quanh, thấy các cảnh sát mới nãy còn thả lỏng giờ bận rộn hẳn. Người vừa khép hờ máy tính xách tay đã lại mở ra gõ linh tinh, người lướt bút chì soàn soạt trên tập phác thảo chân dung vạch ra những nét loằng ngoằng, người đang tháo dở tấm xốp EPS dùng để tái dựng hiện trường, chẳng hiểu sao lại lắp vào rồi tháo ra tiếp, người cúi gằm đếm đi đếm lại vài ba vật chứng ít ỏi. Có nhóm còn xúm lại trông như đang thảo luận về vụ án, nhưng thật ra chỉ nói chuyện tào lao… Lưu Tư Miễu biết thừa, họ đã hay tin cô được yêu cầu rời khỏi tổ chuyên án, nên giả vờ bận rộn để cô không chú ý đến ánh mắt bối rối và ngại ngùng của mình. Cô nhận tấm lòng này.

Lưu Tư Miễu nhìn đồng hồ đeo tay, đã 4 rưỡi chiều. Nếu giờ về nhà chắc sẽ kịp lớp học múa trực tuyến của Học viện Balê Nga Vaganova. Nhưng… các lãnh đạo khác của tổ chuyên án đều vắng mặt, giờ bỏ đi liệu có ổn không? Ít ra cũng phải chào Đỗ Kiến Bình một tiếng.

Đúng lúc ấy, trong góc xưởng in vang lên tiếng quát, “Cái gì? Sao lại thế?!”

Lưu Tư Miễu ngoảnh lại nhìn, hóa ra là một cảnh sát đang nổi cơn tam bành. Anh ta chịu trách nhiệm điều tiết quan hệ giữa tổ chuyên án và đồn cảnh sát nơi xảy ra vụ án. “Không ra thể thống gì hết, anh Trung điên rồi à?”

Lưu Tư Miễu đến gần hỏi, “Sao đấy?”

Anh cảnh sát hình như không nghe thấy, vẫn cáu tiết gào vào điện thoại, “Cho người đưa đầu bếp kia đi giám định thương tật và trông chừng Mã Tiếu Trung cho tôi! Cái gì? Cậu không làm được? Cậu ăn cái gì mà không làm được…”

“Tôi hỏi là SAO ĐẤY?!” Lưu Tư Miễu gằn giọng.

Anh cảnh sát không dám giả điếc nữa, cố nặn ra nụ cười, chỉ vào điện thoại, “Mã Tiếu Trung gây họa lớn rồi…”

Lưu Tư Miễu giật lấy di động của anh ta, hỏi người ở đâu kia, “Tôi là Lưu Tư Miễu, bên chỗ các anh xảy ra chuyện gì?”

Sự thể là thế này.

Nhận được lệnh điều động của Đỗ Kiến Bình, Mã Tiếu Trung dẫn theo cấp dưới Phong Kỳ đến viện bảo trợ. Đầu tiên, Mã Tiếu Trung cho rút hết cảnh sát dữ tợn mặc thường phục canh chừng ở cửa trước cửa sau. Tiếp đến, anh ta gọi tất cả nhân viên viện bảo trợ ra đại sảnh tầng một, bảo họ ngồi xuống ghế nệm dài bọc da nhân tạo xanh lục kê gần cửa. Anh ta lấy ghế khác ngồi đối diện, hỏi han làm ở viện bảo trợ lương cao không, điều kiện ăn ở thế nào, bọn trẻ có ngoan không… Mã Tiếu Trung cười nói nhiệt tình như thể thân quen lắm. Trước đó, các nhân viên không nắm rõ sự tình nên nơm nớp lo sợ. Bây giờ, thấy một gã mập lùn trông vừa cù lần vừa xấu lạ cứ cà kê dê ngỗng với mình thì thoải mái hơn hẳn. Mã Tiếu Trung đặc biệt quan tâm tới cô thư kí giám đốc Trì Phượng Lệ, luôn miệng em ơi em à đến là thân thiết. Trì Phượng Lệ là dân ăn chơi, cảm thấy gã mập này giống mấy tên đại ca thu phí bảo kê hơn là cảnh sát hình sự luôn nghiêm nghị, nên cũng đong đưa theo. Phong Kỳ ở bên cạnh hắng giọng mấy lần nhắc nhở Mã Tiếu Trung chú ý thân phận, nhưng anh ta phớt lờ, tiếp tục trêu ghẹo Trì Phượng Lệ.

Mã Tiếu Trung đang được đà thì tổ chuyên án gọi đến làm anh ta cụt cả hứng. Tổ chuyên án thông báo diễn biến mới nhất: đã xác định nghi phạm quan trọng là Chu Lập Bình, giờ cảnh sát chia hai nhóm, một nhóm đến nhà hắn, một nhóm đến nơi hắn làm việc để bắt giữ. Mã Tiếu Trung ngớ người, chưa kịp tiêu hóa thông tin mới nhận thì cửa viện bảo trợ thình lình mở toang.

Một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi đi vào, dáng người thấp bé, tóc ngắn, mặc áo khoác da cổ bẻ nâu nhạt, bên trong là áo len trễ vai bó sát màu trắng làm lộ ra đường nét cơ thể, phối cùng quần bò ống loe tua rua. Gò má nhô cao, gương mặt trát phấn trắng bệch như quét vôi, vùng da dưới mắt trắng hơn cả, có lẽ do phải che đi quầng thâm. Cặp môi trề ra đậm màu son, trông chẳng khác gì quả tim gà bị móc ra đặt trên đĩa sứ trắng.

Bà ta vừa vào sảnh, các nhân viên đang ngồi trên ghế dài đều đứng dậy gọi “Chị Thúy”.

Biết đây là phó giám đốc Thôi Ngọc Thúy của viện bảo trợ, Mã Tiếu Trung vui vẻ đứng dậy, cười hì hì bước tới giơ tay ra, “Chào chị Thúy, tôi là cảnh sát khu vực, chị cứ gọi tôi là Trung.”

Chưa gì đã bị phủ đầu, Thôi Ngọc Thúy đành bắt tay thật nhanh rồi lập tức rút về, ánh mắt cảnh giác, “Có chuyện gì gọi tôi về gấp vậy?”

“Ấy ấy, có gì đâu.” Mã Tiếu Trung làm bộ áy náy. “Là thế này, nửa đêm hôm qua xảy ra tai nạn giao thông, xe đâm chết người rồi bỏ trốn. Chị biết mà, gần cuối năm, ai cũng lo xoay xở đủ định mức để tính thành tích, đội cảnh sát giao thông cũng không ngoại lệ, phải gấp rút lao vào điều tra. Họ nghi xe gây tai nạn là của giám đốc bên mình nên đến đây tra hỏi. Nào ngờ ban nãy hay tin đã tìm ra xe tình nghi và không liên quan đến giám đốc, họ bảo tôi đến đây dọn dẹp bãi chiến trường. Chốc nữa tôi với các anh em sẽ rút ngay.”

Nghe vậy, các nhân viên đều ngơ ngác. Ban nãy đúng là cảnh sát tra hỏi họ rất kĩ về tung tích giám đốc Hình Khải Thánh, nhưng vẫn có nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề quản lý viện bảo trợ, nên giờ họ không rõ gã mập này nói thật hay nói dối.

Thôi Ngọc Thúy hoang mang không kém. Nhưng bà ta vốn lõi đời, cực thạo trò “đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Thấy Mã Tiếu Trung là cán bộ, nói năng lại rất nể nang nên bà ta đổi ngay sang vẻ mặt niềm nở, tự mình châm thuốc cho anh. Hai người giả lả khách sáo một hồi, Mã Tiếu Trung hầu như toàn hỏi thói quen sinh hoạt của Hình Khải Thánh, nhưng chỉ rào quanh chứ không đả động trọng tâm vụ án. Thôi Ngọc Thúy được hỏi gì trả lời nấy, không vượt quá giới hạn. Khi nhắc đến đời sống tình cảm của giám đốc, bà ta buột miệng, “Ông ta thích gặm cỏ non, càng non càng tốt.” Chợt nhận ra mình lỡ lời, bà ta lén nhìn Mã Tiếu Trung, thấy gã mập đang mải liếc Trì Phượng Lệ bèn vội lảng sang chuyện khác.

Đột nhiên, sau lưng vang lên tiếng nói, “Cơm đến rồi đây!”

Mã Tiếu Trung ngẩng đầu, thấy một người đàn ông to béo đi vào từ cửa sau viện bảo trợ. Anh ta mặc áo đầu bếp trắng, khoác áo khoác xanh bộ đội, mặt mày hồng hào, đôi mắt ti hí, bụng phệ to tròn như mang thai, tay xách vài túi nylon cỡ đại không ngừng loạt soạt lúc di chuyển.

“Anh đây là…?” Mã Tiếu Trung chỉ người đó, hỏi Thôi Ngọc Thúy.

“Viện bảo trợ chúng tôi không có nhà ăn nên kí hợp đồng đặt cơm dài hạn với một quán gần đây. Anh này là đầu bếp Bao, phụ trách nấu cơm và giao cơm.” Thôi Ngọc Thúy đáp. “Nếu không bận, anh ở l?