Chương 7
Hẳn là chiếc ô tô đã dừng trên một con đường xa lắc xa lơ ở ngoại thành, vì chung quanh đó hoàn toàn im ắng, trẻ con ngồi xổm và chơi trên vỉa hè. Một người đàn ông vác đống quần áo cũ trên hai vai vừa gọi với lên cửa sổ các ngôi nhà vừa quan sát. Vì trong người mệt mỏi, Karl cảm thấy không thoải mái khi bước từ ô tô xuống mặt đường nhựa ấm và rực rỡ nắng ban mai.
“Anh ở đây thật à?” cậu hỏi chõ vào trong xe.
Robinson, đã ngủ hiền lành trong suốt chuyến đi, làu bàu xác nhận nghe không rõ và dường như chờ được Karl khiêng ra.
“Vậy là tôi chẳng có gì để làm ở đây nữa. Ở lại bình an nhé,” Karl nói và định đi xuống phía dưới con đường dốc thoai thoải.
“Ơ kìa Karl, cậu nghĩ gì thế?” Robinson kêu và vì quá lo lắng nên đã đứng lên khá thẳng trong xe, chỉ hai đầu gối còn hơi run.
“Tôi phải đi thôi,” Karl nói, khi thấy Robinson đã nhanh chóng hồi phục.
“Chỉ mặc sơ mi trần à?” gã này hỏi.
“Tôi sẽ sắm được áo vét thôi,” Karl đáp, lạc quan gật đầu với Robinson, giơ tay chào và lẽ ra đã bỏ đi thật, nếu tay tài xế không gọi: “Thưa cậu, xin hãy gượm một tí!” Hóa ra chẳng may viên tài xế lại đòi trả thêm, vì thời gian chờ trước khách sạn chưa tính.
“Ơ thì,” Robinson kêu lên từ trong xe, xác nhận đòi hỏi này là chính đáng, “tớ đã phải chờ cậu thật lâu ở đó mà. Cậu nên cho hắn thêm chút ít.”
“Vâng, đúng vậy,” tay tài xế nói.
“Chà, nếu tôi còn được chút gì,” Karl nói và thọc tay vào các túi quần, dù biết rằng vô ích.
“Tôi chỉ có thể níu cậu thôi,” tay tài xế nói và đứng giạng chân, “tôi đâu thể đòi hỏi gì từ người đàn ông bệnh hoạn kia.”
Trước cổng, một gã mũi lở lói đang tiến lại cách vài bước và lắng nghe. Đúng lúc ấy một viên cảnh sát đi tuần qua đó đã dừng lại cúi nhìn con người chỉ mặc độc chiếc sơ mi. Robinson, cũng trông thấy viên cảnh sát, đã ngu xuẩn gọi ông ta từ cửa sổ bên kia: “Không có chuyện gì hết, không có chuyện gì hết!” làm như ta có thể xua đuổi cảnh sát như đuổi ruồi. Đám trẻ con theo dõi viên cảnh sát, thấy ông ta dừng lại nên cũng chú ý đến Karl cùng tay tài xế và lon ton chạy tới. Một bà già đứng ở cổng đối diện đăm đăm nhìn qua.
“Roßmann!” chợt nghe một giọng gọi từ trên cao. Đó là Delamarche, y gọi từ ban công tầng trên cùng. Trông y không thật rõ trước khung trời xanh trắng nhờ nhờ, hình như y mặc áo khoác trong nhà dài và đang quan sát đường phố với cái ống nhòm dùng để xem kịch. Cạnh y là một chiếc dù đỏ đã căng ra, dường như dưới dù có một người đàn bà đang ngồi. “Chào!” y ráng gào hết sức để Karl hiểu, “Robinson cũng có đó chứ?”
“Có,” Karl đáp, được hỗ trợ mạnh mẽ bằng tiếng “có” thứ hai, to hơn nhiều của Robinson từ trong xe.
“Chào!” y lại gọi, “tao xuống liền!”
Robinson thò đầu ra khỏi xe.
“Thế mới là đàn ông,” hắn nói và lời ca ngợi Delamarche này nhắm tới Karl, tay tài xế, viên cảnh sát và người nào muốn nghe. Giờ đây ở ban công trên kia, mà Karl vẫn còn nhìn do lơ đãng tuy Delamarche đã đi khỏi, một người đàn bà phục phịch trong áo đầm đỏ không eo nhô lên từ dưới chiếc dù, cầm lấy ống nhòm từ lan can, ngó qua ống nhòm xuống những người ở bên dưới đang từ từ quay mặt đi. Ngóng chờ Delamarche, Karl nhìn vào cổng và vào cái sân mà một hàng phu khuân vác đang băng qua hầu như không dứt, người nào cũng vác trên vai một hòm nhỏ, song dường như rất nặng. Tay tài xế quay về xe, lấy giẻ lau đèn xe để tận dụng thời gian. Robinson sờ mó chân tay[29], hắn có vẻ ngạc nhiên, vì dù hết sức chú ý hắn cũng chỉ cảm thấy hơi đau và bắt đầu gượng nhẹ, mặt cúi gằm, tháo một trong những tấm băng dày ở chân. Viên cảnh sát cầm cây dùi cui đen ngang trước ngực và lặng lẽ chờ, với sự nhẫn nại lớn lao mà các cảnh sát phải có, dù họ đang làm công tác bình thường hay đang rình rập. Gã có cái mũi lở lói ngồi duỗi chân trên một bệ đá ở cổng. Bằng những bước ngắn, lũ trẻ con từ từ xích lại gần Karl, vì tuy cậu không chú ý đến chúng, nhưng với độc chiếc áo sơ mi xanh trên người thì cậu dường như là nhân vật quan trọng nhất trong tất cả.
Dựa vào quãng thời gian trôi qua cho tới khi Delamarche đến nơi ta có thể ước tính chiều cao của tòa nhà này. Mà Delamarche thậm chí đã chạy xuống rất vội, chiếc áo khoác chỉ thắt qua loa. “Tụi bay đây rồi!” y reo lên, vui mừng lẫn nghiêm khắc. Y bước những bước dài khiến bộ quần áo lót màu mè luôn lộ ra trong một khoảnh khắc. Karl không thật hiểu tại sao Delamarche lại ăn mặc thoải mái như thế đi lại trong thành phố này, trong tòa nhà thuê tập thể khổng lồ này, trên con đường thênh thang này, như thể đi lại trong biệt thự riêng của y. Giống như Robinson, Delamarche cũng đã thay đổi nhiều. Khuôn mặt đen đủi, cạo nhẵn nhụi, quá ư nhẵn nhụi, gân guốc nom có vẻ tự đắc và gây ấn tượng đáng nể. Đôi mắt sáng quắc giờ đây luôn hơi nhíu lại có vẻ ngạc nhiên. Chiếc áo khoác tím của y tuy cũ, ố bẩn và quá rộng, nhưng ở phía trên món y phục xấu xí này căng phồng một cái ca vát màu sẫm to tướng, bằng lụa.
“Sao?” y hỏi chung mọi người.
Viên cảnh sát tiến lại gần hơn chút nữa và tựa lên thân chiếc xe.
Karl giải thích ngắn: “Robinson hơi kiệt sức, nhưng nếu anh ta cố gắng, anh ta có thể lên cầu thang được; bác tài đây muốn được trả thêm, ngoài khoản tiền tôi đã trả. Bây giờ tôi đi đây. Chào.”
“Mày không đi,” Delamarche nói.
“Tao cũng đã bảo nó thế rồi,” từ trong xe Robinson lên tiếng.
“Tôi cứ đi,” Karl nói và bước vài bước. Nhưng Delamarche đã theo ngay và dùng sức mạnh đẩy cậu trở lại.
“Tao bảo mày ở lại!” y kêu lên.
“Nhưng anh để tôi đi chứ,” Karl nói và sẵn sàng, nếu cần, dùng nắm đấm giành tự do, dù triển vọng thành công trước một kẻ như Delamarche ít đến đâu. Nhưng còn viên cảnh sát đứng đó, còn tay tài xế, đây đó những toán thợ đi qua con đường bình thường hẳn là yên tĩnh; chẳng lẽ họ để yên cho Delamarche gây điều sai trái với cậu? Cậu không muốn chỉ có mình cậu với y trong một căn phòng, nhưng ở đây? Giờ đây Delamarche bình thản trả tiền cho tay tài xế, gã khom lưng liên hồi, đút món tiền lớn mà gã không đáng được hưởng vào túi và để tỏ lòng cám ơn gã bèn tới bên Robinson và dường như bảo hắn làm thế nào để được khiêng ra tốt nhất. Karl thấy mình không bị chú ý, có thể Delamarche dễ dàng chấp nhận một sự ra đi thầm lặng hơn; đương nhiên nếu tránh được cãi cọ là tốt nhất, và thế là Karl tỉnh bơ bước xuống lòng đường để đi khỏi càng nhanh càng tốt. Đám trẻ con ùa tới Delamarche để mách việc Karl bỏ trốn, nhưng y không phải đích thân ra tay, vì viên cảnh sát đã chĩa dùi cui nói: “Đứng lại!”
“Mày tên gì?” ông ta hỏi, kẹp dùi cui dưới nách và chậm chạp lôi ra một quyển sổ tay. Bây giờ là lần đầu tiên Karl ngắm nghía ông ta kỹ hơn, một người đàn ông cường tráng, nhưng tóc đã gần bạc trắng.
“Karl Roßmann,” cậu nói.
“Roßmann,” viên cảnh sát lặp lại, hiển nhiên chỉ vì ông ta là một người điềm đạm và kỹ lưỡng, nhưng Karl, thật ra đây là lần đầu tiên cậu phải tiếp xúc với nhà chức trách Mỹ, lại thấy trong sự lặp lại này một sự ngờ vực nào đấy. Và quả thật chuyện của Karl không thể có triển vọng tốt đẹp, vì chính Robinson, nãy giờ vốn quan tâm quá nhiều đến những âu lo riêng của hắn, đã từ trong xe lặng lẽ làm những điệu bộ sinh động bằng tay yêu cầu Delamarche vui lòng giúp đỡ Karl. Nhưng Delamarche lắc đầu quầy quậy khước từ, chỉ nhìn chứ không can thiệp, tay thọc vào những cái túi áo khoác to quá khổ. Gã thanh niên ngồi trên bệ đá ở cổng giải thích toàn bộ sự việc, từ đầu, cho một người đàn bà mới từ cổng bước ra. Đám trẻ con đứng thành nửa vòng tròn sau lưng Karl và im lặng ngước nhìn viên cảnh sát.
“Cho xem giấy tờ của mày,” viên cảnh sát nói. Hẳn đó chỉ là một câu hỏi lấy lệ, vì khi không có áo vét thì cậu cũng không thể có nhiều giấy tờ tùy thân bên người được. Cho nên Karl lặng thinh, tốt hơn nên để trả lời thật chi tiết câu hỏi tiếp theo và bằng cách ấy cố im đi chuyện thiếu giấy tờ.
Nhưng câu hỏi tiếp theo là: “Tức là mày không có thẻ căn cước?”
Và Karl phải trả lời: “Tôi không có ở đây.”
“Thế thì tai hại,” viên cảnh sát nói, trầm ngâm nhìn quanh và gõ hai ngón tay lên bìa quyển. “Mày có công ăn việc làm nào không?” cuối cùng viên cảnh sát hỏi.
“Tôi từng là trực thang máy,” Karl nói.
“Mày từng là trực thang máy, tức là không còn nữa, thế bây giờ mày sống bằng gì?”
“Bây giờ tôi sẽ tìm một công việc mới.”
“Nghĩa là mày bị sa thải à?”
“Vâng, trước đây một giờ.”
“Thình lình?”
“Vâng,” Karl nói và giơ tay như để xin lỗi. Cậu không thể kể hết cả câu chuyện ở đây, và cho dù có thể đi nữa thì dường như chống đỡ một sự bất công đang đe dọa bằng cách kể lể một sự bất công mình đã phải chịu đựng là việc hoàn toàn không hy vọng. Và nếu cậu đã không bảo vệ được quyền lợi của mình nơi bà bếp trưởng nhân hậu và viên trưởng nhóm phục vụ thông hiểu, thì chắc chắn cậu đừng chờ đợi điều này nơi những con người trên đường phố ở đây.
“Và mày bị đuổi không có áo vét thế này?” viên cảnh sát hỏi.
“À vâng,” Karl nói; hóa ra cả ở Mỹ cung cách của nhà cầm quyền cũng là thích hỏi về những điều họ đã trông thấy rành rành. (Bố cậu đã bực mình biết bao về những câu hỏi dài, dai nhách, gây khó chịu của các cơ quan công quyền trong việc xin hộ chiếu!) Karl hết sức muốn bỏ chạy, trốn đâu đó và không phải chăm chú nghe câu hỏi nào nữa. Bây giờ viên cảnh sát lại nêu ra chính câu hỏi ấy, câu hỏi mà Karl sợ nhất và vì sự dự đoán bất an này mà có lẽ nãy giờ cậu đã xử sự thiếu thận trọng hơn bình thường.
“Mày đã làm ở khách sạn nào?”
Cậu cúi đầu, không đáp, cậu kiên quyết không trả lời câu hỏi này. Không được để xảy ra chuyện cậu bị một viên cảnh sát áp tải về lại khách sạn Occidental, rồi các cuộc hỏi cung sẽ diễn ra ở đó, bạn bè và kẻ thù của cậu sẽ được triệu tới; bà bếp trưởng sẽ mất nốt chút ý nghĩ tốt, nhưng đã trở nên lung lay của bà về Karl, vì thấy cậu trở về (mà bà cứ ngỡ cậu đang ở nhà trọ Brenner), bị một viên cảnh sát bắt giữ, trong sơ mi trần, không có tấm danh thiếp của bà, trong khi lão trưởng nhóm phục vụ có lẽ chỉ gật đầu tỏ ra thấu hiểu hoàn toàn, còn lão trưởng bảo vệ ngược lại sẽ nói rằng cuối cùng bàn tay của Chúa Trời đã tìm ra tên vô lại.
“Nó làm ở khách sạn Occidental,” Delamarche nói và đến bên cạnh viên cảnh sát.
“Không phải,” Karl kêu lên và giậm chân, “không đúng!”
Delamarche dẩu môi nhạo báng nhìn cậu, như thể y còn có thể tiết lộ những chuyện khác hẳn nữa. Sự khích động bất ngờ của Karl khiến đám trẻ rất xôn xao, chúng kéo qua phía Delamarche, để từ đó nhìn Karl rõ hơn. Robinson đã thò hết đầu ra khỏi xe và hoàn toàn điềm tĩnh trước sự căng thẳng, cử chỉ duy nhất của hắn là thỉnh thoảng chớp mắt. Gã thanh niên ngồi ở cổng vỗ tay vì thích thú, người đàn bà đứng cạnh dùng khuỷu tay huých để gã bình tĩnh. Đúng lúc ấy các phu khuân vác được nghỉ ăn sáng, họ xuất hiện với những ly to cà phê đen và khuấy với bánh mì baguette. Một số ngồi xuống lề vỉa hè, húp cà phê xì xụp.
“Hẳn là ông quen biết gã này?” viên cảnh sát hỏi Delamarche.
“Nhiều hơn là tôi muốn,” y nói. “Dạo đó tôi làm ơn nhiều cho gã, nhưng gã đền đáp rất tồi tệ, như ông dễ dàng thấy sau cuộc hỏi cung rất ngắn ngủi của chính ông với gã.”
“Đúng,” viên cảnh sát nói, “gã có vẻ là một tên ngoan cố.”
“Gã thế đấy,” Delamarche, “nhưng đó chưa phải tính xấu nhất của gã.”
“Vậy à?” viên cảnh sát nói.
“Vâng,” Delamarche nói, y đang có trớn và vừa nói vừa rung áo khoác với đôi bàn tay trong túi áo, “đây là một tên vô lại có hạng. Tôi và anh bạn trong chiếc xe đó, chúng tôi tình cờ gặp gã lúc gã bần cùng, hồi đó gã đâu biết ất giáp gì về những hoàn cảnh ở Mỹ, mới chân ướt chân ráo từ châu Âu tới mà, ở bên đó người ta cũng chẳng dùng được gã; thế là chúng tôi kéo gã theo, cho sống với chúng tôi, giảng giải mọi chuyện, định kiếm cho gã việc làm; chúng tôi nghĩ còn biến được gã thành một con người hữu dụng, bất chấp mọi biểu hiện ngược lại; chợt gã chuồn mất trong đêm, biến đi tỉnh bơ và dưới những tình huống mà tốt hơn tôi muốn giữ kín. Có phải vậy không?” cuối cùng Delamarche giật áo Karl, hỏi.
“Lũ nhóc lùi ra!” viên cảnh sát kêu lên, vì chúng đã tiến lên quá sát khiến Delamarche suýt vấp phải một đứa. Trong lúc đó các phu khuân vác, cho tới lúc ấy không quan tâm mấy đến cuộc thẩm vấn, trở nên chăm chú và tụ lại thành vòng người kín mít sau lưng Karl, khiến bây giờ cậu không lùi được dù chỉ một bước, hơn nữa hai tai cậu không ngớt bị những giọng nói lộn xộn của các phu khuân vác chọc vào, họ la ó hơn là nói một thứ tiếng Anh hoàn toàn không hiểu được, có lẽ trộn lẫn với những từ của người Slave.
“Cám ơn ông đã cho thông tin,” viên cảnh sát nói và đứng nghiêm chào Delamarche. “Dẫu sao tôi cũng sẽ dẫn gã theo và trao lại cho khách sạn Occidental.”
Nhưng Delamarche nói: “Tôi xin yêu cầu ông tạm thời trao gã cho tôi, tôi có ít việc cần làm sáng tỏ với gã. Tôi hứa sau đó sẽ đích thân dẫn gã trở lại khách sạn.”
“Tôi không làm thế được,” viên cảnh sát nói.
Delamarche nói: “Đây là danh thiếp của tôi” và trao tấm thiếp cho ông ta.
Viên cảnh sát nhìn tấm thiếp với vẻ kính trọng, nhưng nhã nhặn mỉm cười: “Không, ông năn nỉ chỉ hoài công thôi.”
Dù cho đến giờ Karl hết sức cảnh giác trước Delamarche, lúc này cậu thấy ở y sự giải cứu duy nhất. Tuy việc y thỉnh cầu viên cảnh sát giao cậu cho y là đáng nghi, nhưng dẫu sao cũng dễ thuyết phục Delamarche đừng dẫn cậu về lại khách sạn hơn viên cảnh sát. Và ngay cả nếu Karl bị Delamarche dẫn trở lại khách sạn thì cũng ít tệ hại hơn là dưới sự áp tải của viên cảnh sát. Nhưng trước mắt tất nhiên Karl không được để lộ ra rằng cậu quả thật muốn đi với Delamarche, kẻo sẽ hỏng hết. Và cậu thấp thỏm nhìn bàn tay viên cảnh sát, nó có thể giơ lên bất cứ lúc nào để túm cậu.
“Nhưng ít nhất tôi muốn được biết tại sao gã đột nhiên bị sa thải,” cuối cùng viên cảnh sát nói, trong khi Delamarche cau có nhìn sang bên và bóp nát tấm danh thiếp giữa hai đầu ngón tay.
“Nhưng gã đâu có bị sa thải!” Robinson kêu lên khiến mọi người ngạc nhiên và hắn chống lên tài xế để thò đầu ra khỏi xe xa hết mức. “Ngược lại, gã có ở đó một công việc tốt. Gã là đàn anh trong phòng ngủ tập thể và muốn đưa ai vào đó cũng được. Chỉ phải cái gã bận kinh khủng và khi ta muốn gì ở gã, ta phải chờ lâu. Gã luôn ở chỗ trưởng nhóm phục vụ, ở chỗ bà bếp trưởng và là người thân tín. Hoàn toàn không có chuyện gã bị sa thải. Tôi không biết sao gã lại nói thế. Gã bị sa thải thế nào mới được chứ? Tôi bị thương nặng trong khách sạn và thế là gã được giao nhiệm vụ đưa tôi về tới nhà, và vì đúng lúc ấy gã không khoác áo vét, nên gã đi theo không áo vét. Tôi đâu thể chờ tới lúc gã lấy áo vét.”
“Thế đấy,” Delamarche dang rộng hai tay nói, giọng điệu như trách viên cảnh sát thiếu khả năng nhận xét con người và hai từ Delamarche vừa nói ra này dường như đem sự sáng tỏ không thể phản bác vào lời khai mơ hồ của Robinson.
“Nhưng có thật không đấy?” viên cảnh sát hỏi, hơi xìu đi. “Và nếu thật, tại sao gã lại bảo là bị sa thải?”
“Mày nên trả lời đi,” Delamarche nói.
Karl nhìn viên cảnh sát, ông ta cần thiết lập trật tự ở đây giữa những con người xa lạ chỉ nghĩ đến mình và nỗi âu lo chung của ông ta lan chút ít sang Karl. Cậu không muốn dối trá và giữ hai bàn tay đan chặt sau lưng.
Một viên cai xuất hiện ở cổng, vỗ tay ra hiệu cho các phu khuân vác trở lại với công việc. Họ đổ cặn cà phê và ngừng bặt nói, thất thểu đi vào nhà.
“Thế này thì sẽ không kết thúc được,” viên cảnh sát nói và định túm cánh tay Karl. Karl bất giác lùi thêm một ít, cảm thấy khoảng trống mà những phu khuân vác kéo nhau đi đã mở ra, cậu xoay người và phóng vài bước dài rồi bắt đầu bỏ chạy. Lũ trẻ đồng loạt ré lên và dang những cánh tay nhỏ xíu chạy theo vài ba bước.
“Bắt nó!” viên cảnh sát gọi xuống con đường dài thoai thoải, gần như vắng hoe và vừa đều đặn bật ra lời kêu gọi này vừa chạy nhẹ nhàng theo Karl, cho thấy ông ta dồi dào sức lực và luyện tập nhiều. May cho Karl là cuộc đuổi bắt này diễn ra trong một khu lao động. Thợ thuyền ở đây không ăn cánh với nhà chức trách. Karl chạy ngay giữa lòng đường, vì ở đó cậu ít gặp trở ngại nhất, thỉnh thoảng cậu thấy những công nhân dừng bước trên vỉa hè và thản nhiên quan sát cậu, trong khi viên cảnh sát kêu to với họ “Bắt nó!” và trong lúc chạy, ông ta khôn ngoan bám lấy vỉa hè bằng phẳng, không ngừng chĩa dùi cui về phía Karl. Karl ít và gần như mất hết hy vọng, khi viên cảnh sát - vì họ chạy gần tới những đường ngang, ở đó chắc chắn có cảnh sát đi tuần - huýt còi khiến điếc cả tai. Lợi thế duy nhất của Karl là quần áo cậu nhẹ, cậu bay, hay đúng hơn cậu lao xuống con đường càng lúc càng dốc hơn, chỉ phải nỗi lơ đãng vì buồn ngủ nên cậu thường nhảy quá cao, phí thì giờ vô ích. Ngoài ra viên cảnh sát luôn luôn có đích trước mắt, không phải ngẫm nghĩ gì, còn ngược lại với Karl chạy chỉ là chuyện phụ, cậu phải ngẫm nghĩ, lựa chọn trong những khả năng khác nhau, luôn phải đưa ra quyết định mới. Kế hoạch hơi bế tắc của cậu là tạm thời tránh những đường ngang, vì không biết ở đó có gì, nhỡ đâu cậu lại chạy thẳng vào một trạm gác; bao lâu còn được, cậu muốn bám con đường dễ quan sát hơn nhiều này, mãi dưới kia nó mới bị chắn bởi một chiếc cầu, vừa mới qua sông cầu đã chìm trong làn sương khói loáng ánh mặt trời. Quyết định xong, cậu vừa định dồn sức phóng nhanh hơn để vượt thật gấp con đường ngang đầu tiên, chợt cậu thấy không xa lắm phía trước một viên cảnh sát đang nép vào bức tường sẫm của một ngôi nhà nằm trong bóng râm, rình, sẵn sàng chờ đúng lúc nhảy xổ vào Karl. Bây giờ chẳng còn trông mong vào sự cứu giúp nào hơn là con đường ngang, và khi nghe gọi tên mình từ con đường đó - mới đầu cậu ngỡ mình nhầm, vì từ nãy giờ hai tai cậu cứ nghe vo vo - Karl không chần chừ nữa và, để các viên cảnh sát bị bất ngờ, xoay trên một bàn chân, ngoặt thẳng góc vào con đường đó.
Cậu mới chạy được hai bước - cậu đã quên bẵng vừa có ai gọi tên mình - thì viên cảnh sát thứ hai cũng huýt còi, cậu nhận thấy y còn rất sung sức và xa xa trên con đường này khách bộ hành dường như đi lại nhanh hơn - chợt một bàn tay từ một khung cửa nhỏ túm lấy Karl kèm mấy lời “Lặng im!” và lôi cậu vào một hành lang tối tăm. Đó là Delamarche, thở dốc, hai má nóng bừng, tóc bết thành lọn quanh đầu. Y chỉ mặc sơ mi và quần lót, còn áo khoác kẹp tay. Y đóng và cài then cửa ngay, đó thật ra không phải cửa chính, mà chỉ là một cửa phụ kín đáo.
“Chờ một lát,” y nói, rồi đứng thẳng đầu tựa vào tường và thở hổn hển. Karl gần như nằm trong vòng tay Delamarche và nửa tỉnh nửa mê áp mặt lên ngực y.
“Mấy cha kia đang chạy,” Delamarche nói và chĩa ngón tay vào cửa, vẻ lắng nghe. Quả thật lúc đó hai viên cảnh sát chạy qua, tiếng chân vang trên con đường vắng, nghe như thép đập lên đá.
“Mày kiệt sức thật rồi,” Delamarche bảo Karl, cậu vẫn còn đang khó nhọc thở, không thốt nổi một lời. Delamarche thận trọng đặt cậu xuống nền nhà, quỳ bên cậu, vuốt trán cậu nhiều lần và quan sát cậu.
“Bây giờ ổn rồi,” Karl nói và khó nhọc đứng dậy.
“Vậy ta đi,” Delamarche nói, y đã mặc lại áo khoác, và đẩy Karl tới trước, cậu vẫn cúi đầu vì yếu sức. Thỉnh thoảng y lại lúc lắc Karl để làm cậu tỉnh táo hơn.
“Mày tưởng mày mệt à?” y nói. “Ngoài kia đường trống mày có thể phóng như ngựa vía được, chứ ở đây tao phải len lỏi qua những hành lang và những cái sân chết tiệt. May mà tao cũng là một vận động viên về môn chạy.” Y hãnh diện vung tay vỗ lưng Karl. “Thỉnh thoảng chạy thi như thế này với cảnh sát là một cuộc tập luyện tốt.”
“Khi bắt đầu chạy tôi đã mệt rồi,” Karl nói.
“Đừng chống chế khi chạy dở,” Delamarche nói. “Không có tao thì họ đã tóm mày lâu rồi.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” Karl nói. “Tôi nợ anh nhiều.”
“Chắc chắn,” Delamarche nói.
Họ đi qua một hành lang dài và hẹp, lát đá sẫm màu và nhẵn. Thỉnh thoảng cậu lại thấy một cầu thang ở bên phải hay bên trái hoặc được nhìn vào một hành lang khác lớn hơn. Hầu như không thấy người lớn, chỉ có trẻ con chơi trên những cầu thang vắng. Một bé gái đứng khóc ở lan can, mặt nhẫy nước mắt. Vừa thoáng thấy Delamarche, nó đã chạy lên cầu thang, miệng há hốc đớp không khí và mãi khi lên cao rồi nó mới bình tĩnh, sau khi đã nhiều lần quay lại nhìn để chắc chắn không ai theo hoặc định theo nó.
“Mới hồi nãy tao chạy, xô nó ngã chỏng gọng,” Delamarche cười và giơ nắm đấm dọa con bé, khiến nó khóc thét tiếp tục chạy lên cao nữa.
Cả những sân họ đi qua cũng gần như hoàn toàn vắng vẻ. Đây đó một tùy phái đẩy một chiếc xe cút kít hai bánh, một người đàn bà bơm nước vào xô, một người phát thư đủng đỉnh bước qua sân, một ông già ria bạc ngồi vắt chân trước một khung cửa kính và phì phèo ống tẩu, trước một cửa hàng vận tải những thùng hàng được dỡ xuống, những con ngựa chẳng có việc gì làm thờ ơ ngọ nguậy đầu, một người đàn ông mặc áo choàng lao động cầm tờ giấy giám sát toàn bộ công việc; trong một văn phòng cửa sổ để ngỏ và một nhân viên ngồi ở bàn giấy đã quay khỏi bàn và trầm ngâm nhìn ra ngoài, đúng chỗ Karl và Delamarche đang đi qua.
“Ta không thể mong muốn có được một chốn yên tĩnh hơn,” Delamarche nói. “Vào buổi tối thì rất ồn ào trong vài giờ, nhưng ban ngày ở đây thì thật mẫu mực.”
Karl gật đầu, theo cậu thấy thì quá yên tĩnh.
“Tao không thể ở đâu khác được,” Delamarche nói, “vì Brunelda tuyệt đối không chịu nổi tiếng ồn. Mày biết Brunelda không? Ờ, rồi mày sẽ thấy nàng. Dẫu sao tao khuyên mày hãy cố hết sức mà yên lặng.”
Khi họ tới cầu thang dẫn lên căn hộ của Delamarche thì chiếc ô tô đã chạy đi rồi và gã thanh niên mũi lở lói báo rằng gã đã đỡ Robinson lên lầu và chẳng hề tỏ ra ngạc nhiên về việc Karl lại xuất hiện. Delamarche chỉ gật đầu với gã như thể gã là kẻ giúp việc của y và gã hoàn thành nhiệm vụ là chuyện đương nhiên. Delamarche kéo Karl cùng lên cầu thang, cậu hơi lưỡng lự và nhìn con đường ngập nắng.
“Mình lên tới trên ngay thôi,” Delamarche đã nói vài lần trong lúc leo thang, song lời dự báo của y không chịu thành sự thật, cứ hết cầu thang này lại tiếp đến một cầu thang mới, mà sự đổi hướng của nó thật khó nhận ra. Có lần Karl đã đứng lại, không hẳn vì mệt mỏi, mà vì bất lực trước chiều cao của các cầu thang này. “Căn hộ ở rất cao mà,” Delamarche nói khi họ tiếp tục đi, “nhưng cũng có điểm lợi của nó. Tao hiếm khi đi ra ngoài, cả ngày khoác áo choàng, tụi tao thoải mái lắm. Dĩ nhiên cao thế này thì chẳng ma nào lên thăm.”
“Lấy đâu ra khách khứa chứ?” Karl nghĩ thầm.
Cuối cùng Robinson hiện ra ở một chiếu nghỉ trước khung cửa đóng của một căn hộ, giờ đây họ đã lên tới nơi; song cầu thang vẫn chưa hết, mà còn lên tiếp trong cảnh tranh tối tranh sáng, không có gì cho thấy nó sắp chấm dứt.
“Biết ngay mà,” Robinson nói khẽ, như thể hắn vẫn còn bị đau. “Delamarche đưa nó về! Roßmann, cậu sẽ ra sao nếu không có Delamarche!” Robinson đứng đó trong bộ quần áo lót và chỉ lo quấn quanh người, được đến đâu hay đến đấy, tấm chăn nhỏ mà ai đó ở khách sạn Occidental đã đưa cho hắn. Không rõ tại sao hắn không vào trong căn hộ mà lại đứng đây làm trò cười cho người qua lại.
“Nàng ngủ à?” Delamarche hỏi.
“Tao nghĩ là không,” Robinson nói, “nhưng tao muốn chờ mày về hơn.”
“Trước hết mình phải xem nàng có ngủ không,” Delamarche nói và cúi xuống lỗ khóa. Sau khi nhìn qua thật lâu với đủ kiểu quay đầu, y đứng dậy và nói: “Tao thấy nàng không rõ vì tấm rèm đã hạ xuống. Nàng ngồi trên trường kỷ, nhưng có thể nàng đang ngủ.”
“Cô ấy ốm à?” Karl hỏi, vì Delamarche đứng đó như thể đang bối rối cần lời khuyên.
Nhưng y hỏi lại giọng gay gắt: “Sao lại ốm?”
“Nó không biết nàng mà,” Robinson nói, xin lỗi hộ Karl.
Cách đó vài ba cửa có hai người đàn bà bước ra hành lang, họ chùi tay vào tạp dề, nhìn Delamarche với Robinson và dường như trò chuyện về hai gã này. Từ một khung cửa một cô gái còn rất trẻ, tóc vàng óng, nhảy ra và áp sát giữa hai người đàn bà bằng cách khoác tay họ.
“Đây là mấy con mụ đáng ghét,” Delamarche nói khẽ, song dường như chỉ vì quan tâm đến Brunelda đang ngủ, “sắp tới tao sẽ tố cáo chúng với cảnh sát và sẽ được yên vài năm. Đừng nhìn chúng,” y rít lên với Karl, cậu thấy nhìn những người đàn bà này chẳng có gì sai quấy, một khi phải đứng ngoài hành lang chờ Brunelda thức dậy. Và cậu bực bội lắc đầu, như thể không chấp nhận lời cảnh cáo của Delamarche và, để tỏ rõ điều này hơn nữa, định đi tới với họ, nhưng Robinson đã níu tay áo cậu lại, nói: “Roßmann, hãy thận trọng!” còn Delamarche, đã sẵn cáu vì Karl, lại bị tiếng phì cười lớn của cô gái làm cho điên tiết, đến nỗi đã lấy đà, vung tay vung chân, xông tới mấy người đàn bà, khiến mỗi người biến vào khung cửa của mình như thể bị gió thổi bay mất.
“Tao thường phải dọn dẹp các hành lang như thế đấy,” Delamarche nói, khi chậm bước quay lại; chợt y nhớ tới sự phản kháng của Karl và nói:
“Nhưng tao chờ đợi ở mày một thái độ khác hẳn, kẻo mày sẽ có kinh nghiệm xấu với tao đấy.”
Chợt một giọng nói cất lên dịu dàng, mệt mỏi:
“Delamarche?”
“Ừ,” Delamarche đáp và vui vẻ nhìn cánh cửa, “bọn anh vào được không?”
“Được chứ,” giọng kia nói và Delamarche chậm rãi mở cửa, sau khi còn lướt ánh mắt vào hai kẻ đang chờ sau lưng y.
Họ bước vào trong bóng tối hoàn toàn. Tấm rèm, mà ánh sáng lọt qua rất ít, nơi cửa ra ban công - ở đây không có một cửa sổ nào - buông xuống tới tận sàn, ngoài ra bàn ghế chật cứng và quần áo treo khắp nơi đã góp phần lớn vào việc làm tối phòng. Không khí ngột ngạt và ta gần như chỉ ngửi thấy bụi đóng ở các xó xỉnh mà hiển nhiên chẳng bàn tay nào thò vào được. Điều đầu tiên Karl nhận thấy khi bước vào là ba chiếc tủ dựng gần sát nhau. Nằm trên trường kỷ là người đàn bà hồi nãy đã từ ban công nhìn xuống. Cái áo đầm đỏ của cô nàng hơi xộc xệch bên dưới và lòng thòng thành một vạt to tới tận sàn nhà, ta thấy chân cô nàng lộ tới gần đầu gối, mang tất len trắng dày, nhưng không có giày.
“Nóng quá, Delamarche ạ,” cô nàng nói, quay mặt khỏi tường, thờ ơ chìa bàn tay lơ lửng về phía Delamarche, y nắm lấy và hôn. Karl chỉ ngắm nhìn cái cằm hai ngấn của cô nàng, nó cũng rung rinh theo khi cô nàng quay đầu.
“Anh có nên bảo nó kéo rèm lên không?” Delamarche hỏi.
“Đừng,” cô nàng nói, mắt nhắm như tuyệt vọng, “sẽ càng tệ hơn thôi.”
Karl đi tới cuối trường kỷ để nhìn người đàn bà rõ hơn, cậu ngạc nhiên về sự than van của cô nàng, vì nào có nóng gì ghê gớm đâu.
“Chờ tí, anh sẽ làm cho em dễ chịu hơn một chút,” Delamarche nói vẻ rụt rè, mở vài cúc áo ở cổ cô nàng, banh áo ra, hở cổ và phần ngực trên, để lộ một đường viền đăng ten mỏng, vàng nhạt của chiếc áo trong.
“Ai đây,” đột nhiên cô nàng nói và chỉ ngón tay vào Karl, “sao gã lại chòng chọc nhìn em thế?”
“Mày bắt đầu tỏ ra hữu dụng đi,” Delamarche nói và vừa đẩy Karl qua một bên vừa trấn an người đàn bà: “Gã là thằng nhóc anh đem về để phục vụ em.”
“Nhưng em không muốn ai cả!” cô nàng kêu lên. “Sao anh lại đem người lạ về nhà?”
“Nhưng từ hồi nào tới giờ em muốn có người phục vụ mà,” Delamarche nói và quỳ xuống, vì cái trường kỷ tuy rộng nhưng chẳng còn chỗ nào trống bên cạnh Brunelda.
“Chậc, Delamarche,” cô nàng nói, “anh không hiểu em, anh không hiểu em.”
“Thế thì anh không hiểu em thật,” Delamarche nói và ôm mặt cô nàng trong hai bàn tay. “Nhưng đã sao đâu, nếu em không muốn thì gã cút lập tức.”
“Một khi gã đã tới đây rồi, thì gã nên ở lại,” cô nàng bảo và Karl (luôn láng máng nghĩ tới những cầu thang dài vô tận mà có thể cậu sẽ phải lập tức leo xuống trở lại, bước qua Robinson đang nằm ngủ yên lành trên tấm chăn của hắn) vì mệt mỏi nên cậu biết ơn những lời lẽ có thể hoàn toàn chẳng tử tế gì này đến nỗi đã nói: “Dẫu sao tôi cũng cám ơn bà đã cho tôi nán lại đây một lúc. Hẳn là tôi không ngủ đã hai mươi bốn giờ rồi, lại còn phải làm đủ việc và gặp nhiều chuyện khích động khác nhau. Tôi mệt khủng khiếp. Tôi không biết rõ mình đang ở đâu nữa. Nếu tôi được ngủ vài ba tiếng, bà có thể thẳng tay đuổi tôi và tôi sẽ vui lòng đi,” bất chấp những cái phất tay tức tối của Delamarche.
“Mày hoàn toàn có thể ở lại đây,” cô nàng bảo và châm biếm nói thêm: “Chúng tao có thừa chỗ, như mày thấy đấy.”
“Mày phải cút thôi,” Delamarche nói, “chúng tao không cần mày.”
“Không, nó ở lại,” cô nàng nói, lần này nghiêm trang trở lại. Và như để thực hiện ý muốn này của cô nàng, Delamarche bảo Karl: “Vậy thì mày cứ nằm đại chỗ nào đó.”
“Nó có thể nằm trên những tấm màn cửa, nhưng phải cởi giày bốt ra, để khỏi làm rách gì hết.”
Delamarche chỉ cho Karl chỗ theo ý cô nàng. Giữa các cửa và ba tủ là những tấm màn cửa đủ loại quẳng thành đống to. Nếu xếp ngay ngắn lại tất cả, những tấm nặng để dưới cùng, những tấm nhẹ hơn lên trên và sau rốt rút ra đủ thứ ván cùng khoen gỗ nhét trong đống đó, sẽ thành một chỗ ngả lưng tạm được, còn như thế này chỉ là một khối bùng nhùng dễ trượt; tuy vậy Karl vẫn nằm xuống tức thì, vì cậu quá mệt không chờ sắp xếp công phu rồi mới ngủ, với lại cậu cũng phải lưu ý đến chủ nhà, đâu thể bày vẽ nhiều được.
Đang thiu thiu ngủ chợt nghe một tiếng hét lớn, Karl nhổm dậy thấy Brunelda ngồi thẳng trên trường kỷ, hai cánh tay dang rộng ôm choàng Delamarche đang quỳ trước cô nàng. Khó xử trước cảnh tượng ấy, Karl ngả lưng trở lại, chìm trong những tấm rèm để tiếp tục giấc ngủ. Cậu thấy rõ không thể chịu đựng nổi ở đây hai ngày, cho nên trước mắt càng cần ngủ thật đẫy giấc, để rồi có thể quyết định nhanh chóng và bình thản với đầu óc hoàn toàn tỉnh táo.
Nhưng Brunelda đã trông thấy đôi mắt Karl thô lố vì mệt, chúng từng làm cô nàng khiếp đảm một lần rồi, cô nàng liền gọi: “Delamarche, em không chịu nổi nóng bức, cứ như bị thiêu, em phải cởi đồ, em phải tắm, anh hãy tống hai gã này ra khỏi phòng, tống đi đâu tùy anh, ra hành lang, ra ban công, miễn em không thấy chúng nữa! Mình ở trong căn hộ của chính mình mà cứ không ngớt bị quấy rầy. Giá mà chỉ có em với anh, Delamarche! Chúa ơi, chúng vẫn còn ở đây! Trước mặt một quý nương mà tay Robinson mặt dày mặc đồ lót như thế kia kìa! Còn thằng nhãi lạ mặt này vừa mới phút trước điên cuồng nhìn em, giờ đã lại nằm xuống để lừa bịp em! Chúng phải xéo ngay thôi, Delamarche, chúng là gánh nặng đối với em, chúng đè trên ngực em, nếu em chết bây giờ là tại chúng đấy.”
“Chúng ra ngay ấy mà, em cứ cởi đồ đi,” Delamarche nói rồi tới chỗ Robinson, đặt một chân lên ngực lay hắn. Đồng thời y gọi Karl: “Roßmann, dậy! Hai đứa bay phải ra ngoài ban công! Bay liệu hồn, nếu chưa được gọi mà đã vào! Bây giờ nhanh nhẹn lên, Robinson” - y vừa nói vừa lay Robinson mạnh hơn - “còn mày, Roßmann, chú ý, đừng để tao phải qua đánh thức đấy,” y vỗ mạnh tay hai lần.
“Lâu quá thể!” Brunelda kêu trên trường kỷ, cô nàng ngồi giạng chân hết cỡ để có thêm chỗ cho tấm thân quá mức phì nộn của mình; phải vô cùng vất vả, thở hổn hển và sau nhiều lần nghỉ cô nàng mới cúi xuống đủ thấp để nắm đôi tất ở đầu trên và tuột xuống một chút, chứ không tuột hết nổi, việc này Delamarche phải làm giúp và cô nàng sốt ruột chờ y.
Đờ đẫn vì mệt mỏi, Karl bò từ đống màn cửa xuống và chậm chạp đi tới cửa ra ban công, thờ ơ kéo theo một miếng rèm quấn ở chân. Cậu lơ đãng đến mức khi đi qua đã nói với Brunelda: “Chúc ngủ ngon,” rồi lững thững đi ngang Delamarche - y kéo màn cửa ban công một tí - ra ngoài. Ngay sau Karl là Robinson, hẳn là ngái ngủ không kém, vì hắn ư ử bâng quơ: “Người ta không ngừng đối xử thô bạo với mình! Nếu Brunelda không đi cùng, mình đếch ra ban công.” Quả quyết thế nhưng hắn vẫn ra chứ không phản đối, và lập tức nằm xuống nền đá, vì Karl đã gục xuống chiếc ghế tựa rồi.
Khi Karl thức dậy thì đã tối, bầu trời đã đầy sao, trăng trồi lên phía sau những ngôi nhà cao bên kia đường. Mãi một lúc, sau vài lần nhìn quanh vào khu vực xa lạ, thở hít vài lần trong bầu không khí mát lạnh làm tỉnh người, Karl mới biết mình đang ở đâu. Cậu đã khinh suất biết bao, đã bỏ qua mọi lời khuyên nhủ của bà bếp trưởng, mọi cảnh báo của Therese, mọi nỗi lo sợ của bản thân và giờ đây thản nhiên ngồi trên ban công của Delamarche, thậm chí đã ngủ suốt nửa ngày ở đây, như thể sau tấm màn cửa không phải là Delamarche, kẻ thù lớn của cậu. Gã đại lãn Robinson trở mình trên sàn và kéo chân Karl, dường như hắn đã đánh thức Karl cũng bằng cách ấy, vì hắn bảo: “Cậu ngủ mới ghê, Roßmann ạ! Đúng là tuổi trẻ vô tư. Cậu còn muốn ngủ bao lâu nữa? Lẽ ra tớ để cậu ngủ nữa đấy, nhưng một là nằm trên sàn chán ngắt, hai là tớ đói lắm. Nhờ cậu đứng lên một tí, tớ có cất dưới đó, trong cái ghế ấy, vài thứ để ăn, tớ muốn lấy nó ra. Cậu cũng sẽ được đôi chút.”
Karl đứng dậy nhìn trong lúc Robinson không đứng lên mà trườn bụng tới và duỗi hai tay lôi từ dưới ghế một cái đĩa mạ bạc, loại dùng để đựng danh thiếp. Trên đĩa có một nửa khúc dồi đen thui, vài điếu thuốc lá còm, một hộp cá mòi đã mở nhưng còn khá đầy, dầu tràn ra ngoài và một ít kẹo, phần lớn bị ép bẹp gí thành một cục tròn. Rồi một tảng lớn bánh mì xuất hiện và một lọ như lọ nước hoa, nhưng dường như đựng thứ gì khác nước hoa, vì Robinson tỏ ra đặc biệt toại nguyện về nó và búng ngón tay với Karl.
“Cậu thấy chưa, Roßmann,” Robinson nói trong lúc ngốn hết con cá mòi này đến con khác, thỉnh thoảng chùi dầu trên hai bàn tay vào một tấm chăn len, dường như Brunelda đã bỏ quên ở ban công. “Cậu thấy chưa, Roßmann, mình phải trữ đồ ăn như thế, nếu không muốn chết đói. Cậu ạ, tớ hoàn toàn bị tống ra rìa. Khi ta liên miên bị đối xử như chó, cuối cùng ta nghĩ ta là chó thật. Thật may có cậu ở đây, Roßmann ạ, ít nhất tớ có thể trò chuyện với người nào đó. Trong nhà chẳng ai trò chuyện với tớ. Chúng mình bị ghét bỏ. Tại Brunelda cả. Dĩ nhiên nàng là một người đàn bà tuyệt vời. Này” - hắn ngoắc Karl cúi xuống gần để thì thầm với cậu - “có lần tớ thấy nàng khỏa thân. Ô!” Và trong sự hồi tưởng tới niềm hạnh phúc ấy hắn bắt đầu bóp và đập lên chân Karl, khiến cậu kêu lên: “Robinson, anh đúng là điên” và chụp hai bàn tay hắn đẩy lùi lại.
“Cậu đúng là còn con nít, Roßmann ạ,” Robinson nói, lôi dưới áo một con dao găm hắn đeo ở một sợi dây quanh cổ, rút khỏi vỏ và xắt khúc dồi cứng. “Cậu còn phải học nhiều. Gặp được tụi tớ là đúng nguồn đấy. Ngồi xuống đi. Cậu không muốn ăn chút gì sao? Có thể cậu sẽ thèm khi nhìn tớ ăn. Cậu cũng không muốn uống à? Cậu hoàn toàn chẳng muốn gì cả. Cậu cũng không hay nói. Nhưng ai ở ngoài ban công với tớ cũng được, miễn là có người. Chẳng là vì tớ rất thường phải ở ngoài ban công. Brunelda thích thế. Chỉ cần nàng chợt nghĩ ra gì đó, lúc thì nàng lạnh, lúc nàng nóng, lúc nàng muốn ngủ, lúc nàng muốn chải đầu, lúc nàng muốn cởi coóc xê, lúc lại muốn mặc và những lúc ấy tớ luôn bị đuổi ra ban công.
“Thỉnh thoảng nàng thật sự làm điều nàng nói, nhưng phần lớn nàng chỉ nằm trên trường kỷ giống như hồi nãy và không nhúc nhích. Trước kia tớ thường kéo rèm ra một tí và ngó qua, nhưng từ khi Delamarche quất tớ mấy roi vào mặt - tớ biết rõ rằng y không muốn, mà chỉ làm theo lời Brunelda yêu cầu - trong một lần như thế, cậu thấy những vết roi chứ, tớ không dám nhòm qua nữa. Và thế là tớ nằm ngoài ban công đây và chẳng có thú vui nào khác ngoài ăn. Hôm kia, khi tớ nằm cô đơn quá đỗi trong buổi tối, lúc đó tớ còn bộ quần áo bảnh, rất tiếc đã bị mất ở khách sạn của cậu - bọn chó, chúng lột quần áo đắt tiền khỏi thân thể tớ! - khi tớ nằm cô đơn quá đỗi và nhìn qua lan can xuống dưới, tớ thấy mọi chuyện hết sức buồn rầu và bắt đầu gào khóc. Lúc ấy ngẫu nhiên, tớ không nhận ra ngay, Brunelda ra ngoài này với tớ trong cái áo đầm đỏ - nó hợp với nàng nhất - nhìn tớ một lúc và cuối cùng nói: ‘Robinson, sao anh khóc?’ Rồi nàng nâng áo đầm, lấy cạp viền lau mắt cho tớ. Ai biết được nàng sẽ còn làm gì nữa, nếu Delamarche không gọi nàng và nàng không phải lập tức quay vào phòng. Dĩ nhiên tớ nghĩ, bây giờ đến lượt mình và đã hỏi qua tấm rèm rằng tớ được phép vào không. Theo cậu thì Brunelda đã trả lời sao nào? ‘Không!’ nàng nói và ‘Anh nghĩ vớ vẩn gì thế?’ nàng bảo.”
“Thế sao anh ở lại đây, khi người ta cư xử với anh như vậy?” Karl hỏi.
“Xin lỗi cậu chứ, Roßmann ạ, cậu hỏi không được thông minh lắm,” Robinson đáp. “Cậu cũng sẽ ở lại đây thôi, cho dù người ta cư xử với cậu còn tệ hơn nữa. Vả chăng người ta đối đãi tớ không tệ lắm.”
“Không,” Karl nói, “tôi chắc chắn sẽ bỏ đi và có lẽ nội trong tối hôm nay. Tôi không ở lại với các người.”
“Cậu dự tính tối nay bỏ đi như thế nào, ví dụ?” Robinson hỏi, hắn đã moi ruột bánh mì và thận trọng chấm vào dầu của hộp cá mòi. “Cậu định bỏ đi như thế nào, khi ngay cả vào phòng cậu cũng không được phép?”
“Tại sao mình lại không được phép vào chứ?”
“Chừng nào chưa rung chuông, mình không được phép vào,” Robinson nói, miệng há hốc để ngốn chỗ bánh mì đẫm dầu, trong khi một bàn tay hắn hứng dầu nhỏ xuống, để rồi thỉnh thoảng nhúng phần bánh mì còn lại vào lòng bàn tay trũng được dùng làm chỗ chứa dầu. “Ở đây tất cả đã trở nên khe khắt hơn. Mới đầu chỉ là một tấm màn cửa mỏng, tuy không nhìn xuyên qua được, nhưng vào buổi tối ta vẫn nhận ra những cái bóng. Thế nên Brunelda không hài lòng và tớ đã phải sửa một trong những áo khoác dùng đóng kịch của nàng thành rèm và treo ở đây thay cho tấm màn cửa cũ. Bây giờ hoàn toàn không trông thấy gì nữa. Ngày trước tớ luôn được phép hỏi xem đã được vào chưa, và tùy hoàn cảnh mà người ta trả lời được hoặc không; nhưng rồi có lẽ tớ đã quá lợi dụng và hỏi quá thường xuyên, khiến Brunelda không chịu đựng nổi - nàng tuy to béo nhưng thể chất rất yếu, thường bị nhức đầu và chân hầu như luôn bị thống phong - nên họ đã quyết định tớ không được phép hỏi nữa, mà họ sẽ nhấn chuông ở bàn khi tớ có thể vào. Chuông réo to đến nỗi đang ngủ tớ cũng phải thức dậy - có lần tớ có một con mèo để giải trí; khiếp đảm trước tiếng chuông nó đã bỏ chạy và không trở về nữa; thế là hôm nay chưa rung chuông, vì nếu chuông rung, tớ không chỉ được phép, mà còn phải vào - và một khi lâu thế này mà không rung chuông thì có thể sẽ còn rất lâu nữa.”
“Ừ,” Karl nói, “nhưng điều gì họ quy định cho anh không nhất thiết cũng áp dụng cho tôi. Vả chăng điều đại loại như thế chỉ áp dụng cho người nào chịu chấp nhận nó thôi.”
“Nhưng tại sao nó lại không áp dụng cả cho cậu nữa chứ?” Robinson kêu lên. “Đương nhiên nó cũng có hiệu lực đối với cậu. Cứ bình tĩnh chờ ở đây với tớ, tới khi chuông rung. Rồi cậu có thể thử xem có bỏ đi được không.”
“Sao anh lại không bỏ đi khỏi đây nhỉ? Chỉ vì Delamarche là bạn anh, hay đúng hơn, từng là bạn anh ư? Thế mà là sống à? Chẳng lẽ ở Butterford, nơi mới đầu các anh định đến, không tốt hơn sao? Hoặc thậm chí ở California, nơi anh có bạn bè?”
“Chà,” Robinson nói, “đâu ai thấy trước được.” Và trước khi tiếp tục kể, hắn còn nói: “Chúc sức khỏe cậu, Roßmann thân mến” và tợp một ngụm lớn từ chai nước hoa. “Hồi đó, khi cậu trắng trợn bỏ rơi bọn tớ, hoàn cảnh bọn tớ rất khó khăn. Mấy ngày đầu bọn tớ đâu tìm ra việc, vả lại Delamarche đâu muốn làm việc, nếu y muốn thì y tìm được thôi, mà luôn chỉ sai tớ đi và tớ không được may mắn. Y chỉ đi lang thang thế thôi, nhưng khi sắp tối rồi thì y mang về một ví tiền của phụ nữ. Ví rất đẹp, bằng ngọc trai, bây giờ y tặng Brunelda rồi, nhưng hầu như chẳng có gì trong đó. Rồi y bảo mình nên đi ăn xin ở các căn hộ, dĩ nhiên khi ấy có thể kiếm chác nhiều thứ dùng được; thế là bọn tớ đi ăn xin và để dễ coi hơn, tớ đã hát trước cửa các căn hộ. Và vì Delamarche luôn gặp may, bọn tớ vừa mới đứng trước căn hộ thứ hai, một căn hộ rất giàu ở tầng trệt và tớ đang hát vớ vẩn ở cửa cho chị bếp và anh bồi, thì bà chủ căn hộ ấy, chính là Brunelda đấy, leo lên bậc thềm. Có lẽ nàng thắt áo quá chặt, nên không leo lên nổi vài ba bậc. Nhưng nàng trông xinh đẹp nhường nào, Roßmann ơi! Nàng mặc áo đầm trắng từ đầu đến chân, cầm chiếc dù đỏ. Tớ chỉ muốn cắn nàng. Tớ chỉ muốn nuốt nàng. Chúa ơi, Chúa ơi, nàng đẹp làm sao! Một phụ nữ như thế đấy! Không, cậu hãy cho tớ biết, làm sao trên đời lại có được một phụ nữ như thế? Tất nhiên chị bếp và anh bồi chạy ngay tới và gần như khiêng nàng lên thềm. Bọn tớ đứng bên phải và bên trái khung cửa và đứng nghiêm chào, ở đây người ta làm như thế đấy. Nàng dừng lại một chút, vì vẫn chưa lấy lại đủ hơi thở, và tớ không biết chuyện đã xảy ra thế nào, lúc đó tớ đói đến mụ cả người và ở khoảng cách gần thấy nàng còn đẹp hơn và cực kỳ to béo và nhờ một coóc xê đặc biệt, rồi tớ có thể chỉ cậu thấy nó trong tủ, nàng trông chắc lẳn; nói gọn, tớ có sờ mông nàng một tí, nhưng chỉ phớt thôi, cậu biết chứ, chỉ chạm nhẹ thôi. Dĩ nhiên người ta không cho phép một gã ăn xin sờ một quý bà. Đó gần như không phải là một sự động chạm, nhưng cuối cùng vẫn đích thị là một sự động chạm. Ai biết được sẽ xảy ra tệ hơn thế nào, nếu Delamarche không lập tức cho tớ một bạt tai thật lực, khiến tớ tức khắc cần hai tay để xoa má.”
“Các người lắm trò thật!” Karl nói, bị câu chuyện cuốn hút, và ngồi xuống sàn. “Brunelda thế đấy à?”
“Ừ,” Robinson nói, “Brunelda thế đấy.”
“Có lần anh từng bảo cô nàng là ca sĩ, phải không?” Karl hỏi.
“Cố nhiên nàng là ca sĩ và một ca sĩ lớn,” Robinson đáp, lăn trên lưỡi một khối kẹo to, thỉnh thoảng lại lấy ngón tay ấn trở vào một mẩu bị đẩy ra. “Nhưng dĩ nhiên hồi đó bọn tớ nào có biết, bọn tớ chỉ thấy đó là một quý bà giàu có và rất sang trọng. Nàng làm như chẳng có chuyện gì xảy ra và có thể nàng cũng không cảm thấy gì hết, vì quả thật tớ chỉ chạm nhẹ nàng bằng mấy đầu ngón tay thôi. Nhưng nàng không ngớt ngó Delamarche và y nhìn lại - trúng đích ngay - vào mắt nàng. Nàng liền bảo y: ‘Vào trong này một lát’ và cây dù chỉ vào trong căn hộ, ám chỉ rằng Delamarche hãy đi trước. Rồi hai người đi vào và gia nhân đóng cửa lại sau lưng họ. Họ bỏ quên tớ bên ngoài và tớ nghĩ sẽ không kéo dài quá lâu đâu, tớ mới ngồi xuống thềm chờ Delamarche. Nhưng thay vì Delamarche, gã bồi đi ra, bưng cho tớ một liễn xúp. ‘Một sự quan tâm của Delamarche,’ tớ tự nhủ. Trong lúc tớ ăn, gã bồi đứng lại với tớ một lúc và kể cho tớ vài điều về Brunelda và lúc đó tớ thấy cuộc viếng thăm ở nhà Brunelda có thể có ý nghĩa thế nào với bọn tớ. Vì Brunelda đã ly hôn, có nhiều của cải và hoàn toàn độc lập! Chồng cũ của nàng, một nhà sản xuất ca cao, tuy vẫn còn luôn yêu nàng, nhưng nàng không muốn nghe chút gì về hắn nữa. Hắn rất hay tới căn hộ, luôn luôn ăn mặc rất lịch sự, như dự đám cưới - đúng từng chữ một, chính tớ biết hắn mà - nhưng dù được đút cho nhiều tiền, gã bồi không dám hỏi Brunelda có chịu tiếp hắn không, vì gã đã hỏi vài lần rồi, lần nào cũng đều bị Brunelda ném vào mặt cái gì nàng vớ được lúc ấy. Một lần thậm chí với cái túi chườm nóng to và đầy của nàng, khiến gã gãy một răng cửa. Đấy, Roßmann, cậu thấy đấy!”
“Từ đâu anh biết người chồng?” Karl hỏi.
“Thỉnh thoảng hắn cũng lên nhà mà,” Robinson nói.
“Lên nhà?” Karl sửng sốt vỗ nhẹ tay xuống sàn.
“Cậu cứ việc ngạc nhiên,” Robinson nói tiếp, “chính hồi đó tớ cũng sửng sốt khi nghe gã bồi kể. Cậu nghĩ xem, khi Brunelda vắng nhà, anh chồng bảo gã bồi dẫn vào phòng nàng và hắn luôn luôn lấy một món vặt làm kỷ niệm và luôn luôn để lại món gì đấy rất đắt tiền và sang trọng cho Brunelda và nghiêm cấm gã bồi cho nàng biết của ai. Nhưng một lần - như gã bồi nói và tớ tin - hắn đem tới một món bằng sứ gần như vô giá, hẳn Brunelda đã nhận ra thế nào đấy, nàng lập tức ném xuống sàn, đạp lên, nhổ lên và còn làm vài trò nữa khiến gã bồi hầu như không đem nó ra nổi vì kinh tởm.”
“Anh chồng đã làm gì cô nàng chứ?” Karl hỏi.
“Thật ra tớ không biết,” Robinson nói. “Nhưng tớ tin rằng chẳng có gì khác thường, ít nhất chính hắn không biết. Tớ thỉnh thoảng có trò chuyện với hắn về chuyện này. Ngày ngày hắn chờ tớ ở góc đường đó, nếu tớ tới, tớ phải kể hắn biết những chuyện mới; nếu tớ không tới được, hắn chờ nửa giờ rồi bỏ đi. Đối với tớ, đó là việc kiếm chác thêm tốt, vì hắn trả rất hậu hĩnh cho những tin tức này, nhưng từ khi Delamarche biết được, tớ phải nộp hết cho y, nên tớ hiếm khi đi tới đó nữa.”
“Nhưng anh chồng muốn gì?” Karl hỏi. “Hắn muốn gì chứ? Hắn biết cô nàng không muốn hắn nữa mà.”
“Chà,” Robinson thở dài, châm một điếu thuốc và vừa nhả khói vừa huơ tay xua khói lên cao. Rồi hắn dường như đã quyết định khác nên nói: “Liên quan gì đến tớ? Tớ chỉ biết hắn sẵn sàng trả nhiều tiền, nếu được nằm trên ban công này như bọn mình.”
Karl đứng lên, tựa lan can và nhìn xuống đường. Trăng đã tỏ, nhưng ánh sáng của nó chưa xuống tới tận đường. Con đường ban ngày vắng vẻ là thế, nhất là trước các cửa nhà, giờ đây đông nghịt người, tất cả đều chuyển động chậm chạp, vụng về, sơ mi trần của những người đàn ông, áo đầm màu nhạt của những người đàn bà nổi lên yếu ớt trong bóng tối, chẳng ai đội mũ. Nhiều ban công xung quanh có người, các gia đình ngồi dưới ánh sáng của một ngọn đèn điện, quanh một chiếc bàn con hay trên một dãy ghế hoặc ít nhất từ trong phòng thò đầu ra, tùy theo ban công lớn nhỏ. Những người đàn ông ngồi giạng háng, bàn chân thọc vào giữa các chấn song lan can, đọc những tờ báo dài gần chấm đất, hoặc chơi bài, có vẻ lặng lẽ, nhưng quật mạnh quân bài lên bàn, những người đàn bà trong lòng chất đầy những thứ để may vá, chỉ thỉnh thoảng mới liếc nhanh môi trường xung quanh hoặc đường phố. Một người đàn bà tóc vàng, yếu ớt ở ban công bên cạnh vừa liên tục ngáp vừa đảo mắt và luôn che miệng với một món y phục bà đang vá; ngay trên những ban công nhỏ nhất bọn trẻ con cũng biết cách đuổi bắt nhau, khiến các bậc cha mẹ cảm thấy rất phiền hà. Trong nhiều căn phòng có máy quay đĩa chạy, hoặc ca sĩ hát hoặc dàn nhạc chơi, người ta không quan tâm đặc biệt đến âm nhạc, nên chỉ thỉnh thoảng khi một ông bố ra hiệu thì ai đó mới vội vã vào phòng, thay đĩa khác. Ở một số cửa sổ ta thấy những đôi tình nhân hoàn toàn bất động, ở cửa sổ đối diện Karl có một cặp đứng thẳng, người đàn ông trẻ quàng tay quanh cô gái và mân mó ngực cô.
“Anh quen biết ai trong số những người bên cạnh không?” Karl hỏi Robinson, lúc ấy cũng đã đứng lên, và vì ớn lạnh nên ngoài tấm chăn của hắn, hắn còn quấn thêm cả tấm chăn của Brunelda.
“Hầu như tớ không quen ai, đó chính là điều tệ hại ở vị trí của tớ,” Robinson nói và kéo Karl lại gần để có thể thì thầm vào tai cậu, “bằng không thì hiện giờ tớ chẳng có gì để phàn nàn. Vì Delamarche mà Brunelda đã bán mọi thứ nàng có và dọn vào căn hộ ở ngoại ô này với tất cả tài sản của nàng, để có thể hoàn toàn chăm sóc y và cũng để không bị ai quấy rầy, đó cũng là ý muốn của Delamarche.”
“Và cô nàng đã sa thải các người giúp việc?” Karl hỏi.
“Đúng y boong,” Robinson nói. “Ở đây biết nhét đám người làm vào chỗ nào chứ? Bọn người làm này đều là những quý ông rất khó tính cả. Một lần, ở nhà Brunelda, Delamarche đã đuổi một gã như thế ra khỏi phòng, chỉ bằng bạt tai thôi, cái này đến cái khác, cho tới khi gã ra ngoài. Dĩ nhiên những tay giúp việc kia đoàn kết với gã, làm ầm ĩ trước cửa, Delamarche mới bước ra (hồi đó tớ không phải người làm, mà là bạn của gia đình, nhưng tớ vẫn đứng về phía những người làm) và hỏi: ‘Tụi bay muốn gì?’ Gã người làm lớn tuổi nhất, một gã Isidor nào đấy, mới nói: ‘Ông chẳng có quyền gì để nói với chúng tôi, phu nhân mới là chủ của chúng tôi.’ Như cậu có lẽ đã nhận thấy, chúng kính trọng Brunelda. Nhưng Brunelda đã chạy lại với Delamarche, không ngó ngàng gì đến họ, hồi đó nàng chưa quá nặng nề như bây giờ, ôm y trước mọi người, hôn y và gọi y là ‘anh Delamarche vô vàn yêu quý’. Và ‘anh hãy tống cổ lũ khỉ này đi’, cuối cùng nàng nói. Lũ khỉ - nàng gọi những người làm như thế đấy; cậu thử hình dung bộ mặt họ lúc đó mà xem. Rồi Brunelda kéo tay Delamarche