Các chương chưa hoàn chỉnh (2)
Karl thấy ở một góc đường tấm biển quảng cáo mang hàng chữ:
“Hôm nay, từ sáu giờ sáng đến nửa đêm, tại trường đua ở Clayton sẽ thu nhận nhân viên cho hí viện ở Oklahoma[36]! Đại hí viện Oklahoma mời gọi các bạn! Chỉ mời gọi hôm nay, chỉ một lần thôi! Ai bỏ lỡ cơ hội lần này, sẽ bỏ lỡ mãi mãi! Ai nghĩ đến tương lai của mình, hãy đến với chúng tôi! Mọi người đều dược hoan nghênh! Ai muốn trở thành nghệ sĩ, hãy đăng ký! Hí viện chúng tôi cần mọi người, người nào có vị trí người nấy! Ai đến với chúng tôi, chúng tôi chúc mừng ngay tại đây! Nhưng gấp gáp lên, vì các bạn chỉ được cho vào tới nửa đêm! Đúng mười hai giờ tất cả sẽ đóng cửa và không mở nữa! Ai không tin chúng tôi, người ấy đáng bị nguyền rủa! Hãy tới Clayton!”
Tuy nhiều người đứng trước biển quảng cáo, nhưng có vẻ không mấy ai tán thưởng. Có quá nhiều biển quảng cáo kiểu này, nên không ai tin biển quảng cáo nữa. Bình thường biển quảng cáo vốn đã khó tin, biển quảng cáo này lại còn khó tin hơn. Nhất là nó phạm một sai sót lớn: không có một chữ cỏn con nào về tiền công. Nếu vấn đề này chỉ đáng đề cập chút ít thôi, chắc chắn biển quảng cáo đã nêu ra, chứ không quên cái điều lôi cuốn nhất ấy. Không ai muốn trở thành nghệ sĩ, nhưng ai cũng muốn được trả công cho việc mình làm.
Nhưng biển quảng cáo có một sức quyến rũ lớn đối với Karl. “Mọi người đều được hoan nghênh,” nó viết. Mọi người, nghĩa là cả Karl. Mọi việc cậu từng làm cho tới nay đã bị lãng quên, sẽ không ai bới ra để trách móc cậu. Cậu có quyền xin việc làm, không phải một công việc xấu hổ, ngược lại còn được công khai mời mọc! Và người ta cũng công khai hứa sẽ nhận cả cậu nữa. Cậu không đòi hỏi gì ghê gớm hơn, cậu muốn cuối cùng tìm được bước khởi đầu cho một sự nghiệp đàng hoàng, có thể bước khởi đầu ấy thể hiện ở đây. Mặc cho những lời lẽ đao to búa lớn trên biển quảng cáo là dối trá, mặc cho đại hí viện ở Oklahama là một gánh xiếc rong nhỏ, nó muốn thu nhận người, với cậu thế là đủ. Karl không đọc lại biển quảng cáo, nhưng lần nữa tìm câu: “Mọi người đều được hoan nghênh”.
Mới đầu cậu định đi bộ tới Clayton, nhưng đó sẽ là một chuyến đi vất vả kéo dài ba tiếng đồng hồ và nếu đi bằng cách ấy có thể cậu chỉ kịp đến để được cho biết rằng họ đã tuyển đủ người cho mọi công việc sẵn có. Tuy nhiên theo biển quảng cáo thì số người được thu nhận là không giới hạn, nhưng mọi quảng cáo tìm người loại này đều viết như thế cả. Karl thấy rằng hoặc mình phải khước từ công việc này hoặc phải đến đó bằng xe. Cậu đếm đi đếm lại tiền, không đi xe thì đủ sống tám ngày, cậu đẩy tới đẩy lui những đồng tiền kẽm nhỏ trên lòng bàn tay. Quan sát Karl, một quý ông vỗ vai cậu và nói: “Chúc đi Clayton may mắn.” Karl gật đầu chẳng nói chẳng rằng và tiếp tục tính toán. Nhưng cậu nhanh chóng quyết định, chia ra số tiền cần thiết cho chuyến đi và chạy tới trạm xe điện ngầm.
Vừa xuống xe ở Clayton, cậu đã nghe thấy ngay âm thanh ầm ĩ của nhiều kèn trumpet. Ồn ào hỗn tạp, vì chúng không được hòa âm mà chỉ thổi bừa. Nhưng Karl không thấy thế làm phiền, ngược lại nó khẳng định với cậu rằng hí viện Oklahama là một doanh nghiệp lớn. Nhưng khi bước ra khỏi trạm xe điện và quan sát toàn bộ khu vực trước mặt, cậu thấy mọi thứ còn lớn hơn mình có thể tưởng tượng và cậu không hiểu nổi làm sao một doanh nghiệp lại có thể phung phí đến thế chỉ nhằm mục đích tuyển nhân viên. Một khán đài dài và thấp được dựng trước lối vào trường đua, trên đó có cả trăm phụ nữ hóa trang thành thiên thần trong những tấm vải trắng với những đôi cánh lớn trên lưng, thổi những kèn trumpet dài, màu vàng kim sáng loáng. Nhưng họ không đứng trực tiếp trên khán đài, mà mỗi người trên một cái bệ không trông thấy được, vì những tấm khăn dài bay phấp phới của y phục thiên thần phủ kín hoàn toàn. Vì những bệ này rất cao, hẳn là tới hai mét, nên hình dáng những người đàn bà trông thật khổng lồ, chỉ hiềm những cái đầu của họ nhỏ làm giảm ấn tượng về độ lớn, mái tóc của họ cũng quá ngắn và buông xõa gần như khôi hài xuống giữa và hai bên những cái cánh to. Để tránh đơn điệu, người ta đã dùng những bệ cao rất khác nhau; có những phụ nữ thật thấp, không lớn hơn người thật mấy, song bên cạnh lại có những người đàn bà khác lắc lư tuốt trên cao, khiến ta nghĩ chỉ cần gió thổi nhẹ cũng đủ nguy hiểm cho họ. Và giờ đây mọi người phụ nữ này đều đang thổi kèn.
Không có bao nhiêu thính giả. Khoảng mười anh chàng, nhỏ thó so với những hình dáng to lớn kia, đi đi lại lại trước khán đài và ngước nhìn lên những người đàn bà. Họ chỉ cho nhau người phụ nữ này, người phụ nữ nọ, nhưng dường như không có ý định vào trong để được thu nhận. Ngoài ra chỉ thấy một người đàn ông đứng tuổi duy nhất, đứng hơi xa xa. Ông ta dẫn theo cả bà vợ và một đứa con nằm trong xe đẩy. Người vợ một tay giữ chiếc xe, tay kia tì trên vai ông chồng. Tuy họ trầm trồ màn hoạt cảnh, nhưng ta vẫn thấy là họ thất vọng. Hẳn là họ cũng chờ đợi tìm được một cơ hội làm việc, nhưng trò thổi trumpet này khiến họ hoang mang.
Karl cũng ở trong cùng hoàn cảnh. Cậu lại gần người đàn ông, nghe thổi kèn một lúc rồi hỏi: “Đây đúng là nơi thu nhận của hí viện Oklahama chứ nhỉ?”
“Tôi cũng nghĩ thế,” người đàn ông nói, “nhưng chúng tôi chờ ở đây đã một giờ rồi mà chẳng nghe gì khác hơn là trumpet. Không thấy đâu một biển quảng cáo, không thấy đâu một người loan báo, không thấy đâu một người có thể cho biết thông tin.”
Karl nói: “Có lẽ họ chờ đến khi người ta đến đông hơn. Quả thật còn quá ít ở đây.”
“Có thể,” người đàn ông nói và rồi họ lại im lặng. Vả chăng cũng khó trò chuyện trong tiếng trumpet ầm ĩ. Nhưng rồi người đàn bà thì thầm gì đấy với chồng, ông ta gật đầu và bà liền gọi Karl: “Cậu có thể đi qua đường đua hỏi xem chỗ thu nhận ở đâu được không?”
“Được,” Karl nói, “nhưng thế thì tôi sẽ phải đi băng khán đài, xuyên qua các thiên thần.”
“Khó khăn lắm sao?” người đàn bà hỏi.
Theo bà ta thì đường đi không khó đối với Karl, nhưng bà ta lại không muốn bảo chồng đi.
“Được rồi,” Karl nói, “tôi đi cho.”
“Cậu tử tế quá,” người đàn bà nói và bà ta cùng ông chồng bắt tay Karl.
Mấy anh chàng kia cùng chạy tới gần để xem Karl leo lên khán đài như thế nào.
Cứ như thể những người đàn bà thổi kèn to hơn để chào mừng người đầu tiên tìm việc. Nhưng hễ Karl vừa đi qua bệ nào là người đàn bà đứng trên bệ ấy liền nhả kèn ra và cúi qua bên nhìn theo lối cậu đi. Karl thấy ở đầu kia khán đài một người đàn ông sốt ruột đi tới đi lui, rõ ràng ông ta chỉ chờ có người tới để cung cấp mọi thông tin mà ta muốn có. Karl đã định đi tới chỗ ông ta, chợt nghe trên đầu tiếng người gọi tên mình.
“Karl!” một thiên thần gọi.
Karl nhìn lên và bật cười trước điều ngạc nhiên thích thú. Đó là Fanny[37].
“Fanny!” cậu kêu lên và giơ tay chào.
“Lại đây!” Fanny gọi. “Anh không định chạy khỏi chỗ tôi đấy chứ!” Và cô lật tấm khăn, để lộ ra cái bệ và một cầu thang nhỏ dẫn lên trên.”
“Tôi được phép lên không?” Karl hỏi.
“Ai cấm được chúng ta bắt tay nhau!” Fanny kêu lên và giận dữ nhìn quanh xem có kẻ nào mang lệnh cấm tới. Nhưng Karl đã chạy lên cầu thang.
“Từ từ thôi!” Fanny kêu. “Kẻo cái bệ và hai chúng ta đổ ụp mất!” Nhưng không có chuyện gì xảy ra và Karl sung sướng lên tới bậc trên cùng. “Anh xem,” Fanny nói khi họ chào nhau xong, “anh xem tôi đã có được công việc gì.”
“Hay lắm,” Karl nói và nhìn quanh. Mọi phụ nữ gần đó đều đã trông thấy Karl và cười khúc khích. “Cô gần như là cao nhất đấy,” Karl nói rồi duỗi bàn tay để ước lượng độ cao của những người kia.
“Tôi trông thấy anh ngay khi anh từ trạm xe ra,” Fanny nói, “nhưng tiếc thay tôi ở hàng cuối cùng này, anh không thấy tôi mà tôi cũng không thể gọi. Tuy tôi đã thổi hết sức to, nhưng anh không nhận ra.”
“Các người đều thổi xoàng cả,” Karl nói, “cho tôi thổi một lần coi.”
“Được thôi,” Fanny nói và đưa kèn cho cậu, “nhưng đừng làm hỏng ban nhạc, kẻo người ta sa thải tôi đấy.”
Karl bắt đầu thổi; cậu cứ tưởng đó là một kèn trumpet được chế thô sơ, chỉ dùng vào việc gây huyên náo, nhưng bây giờ mới hóa ra đó là một nhạc cụ gần như có thể diễn tả được mọi sắc thái. Nếu mọi kèn này đều có cùng chất lượng thì người ta đã lạm dụng chúng quá mức. Karl phồng ngực thổi, không để bị tiếng ồn ào của những chiếc kèn khác quấy rầy, một bài hát có lần cậu nghe đâu đó trong một quán rượu. Cậu mừng gặp lại một cô bạn cũ và ở đây, được ưu đãi hơn mọi người, được thổi kèn trumpet và có thể không lâu nữa nhận được một việc làm tốt. Nhiều phụ nữ ngừng thổi và lắng nghe; lúc cậu đột ngột ngừng, chưa tới một nửa số kèn được sử dụng, chỉ dần dần tiếng ồn ào mới lại hoàn toàn như trước.
“Anh đúng là một nghệ sĩ,” Fanny nói, khi Karl trả lại kèn. “Hãy xin làm người thổi trumpet đi.”
“Đàn ông cũng được thu nhận à?” Karl hỏi.
“Được,” Fanny nói, “chúng tôi thổi hai giờ liền. Rồi chúng tôi được những người đàn ông ăn mặc như quỷ sứ thay thế. Một nửa thổi kèn, một nửa đánh trống. Rất hay, toàn thể trang bị tốn kém lắm đấy. Quần áo của chúng tôi không đẹp sao? Và những cái cánh nữa?” Cô ngó xuống mình.
“Cô tin rằng cả tôi cũng sẽ được một chỗ à?” Karl hỏi.
“Chắc chắn,” Fanny nói, “đây là hí viện lớn nhất thế giới mà. Thật hay là chúng mình lại ở cùng chỗ với nhau! Song còn tùy anh nhận được công việc gì. Cũng có thể chúng mình hoàn toàn không gặp nhau, dù cả hai ta cùng là nhân viên ở đây.”
“Nó thật lớn thế sao?” Karl hỏi.
“Nó là hí viện lớn nhất thế giới,” Fanny lặp lại, “tất nhiên chính tôi chưa thấy, nhưng nhiều cô đồng nghiệp từng ở Oklahama bảo rằng nó gần như bất tận.”
“Nhưng chỉ ít người muốn đăng ký,” Karl nói và chỉ xuống mấy anh chàng nọ và cái gia đình bé nhỏ.
“Đúng thế,” Fanny nói. “Nhưng nên nhớ rằng chúng tôi thu nhận người ở mọi thành phố, rằng đội tuyển mộ của chúng tôi không dừng bước và còn nhiều đội như thế nữa.”
“Thế hí viện chưa khai trương sao?” Karl hỏi.
“Rồi chứ,” Fanny nói, “đó là một hí viện cũ, nhưng không ngừng được mở rộng.”
“Tôi ngạc nhiên,” Karl nói, “rằng không có nhiều người hơn chen chúc xin việc.”
“Phải,” Fanny nói, “lạ thật đấy.”
“Có thể,” Karl nói, “trò xa hoa với thiên thần và quỷ sứ này khiến người ta sợ thay vì bị thu hút.”
“Làm sao anh có thể nghĩ ra được điều ấy!” Fanny nói. “Nhưng có lẽ như thế thật. Anh hãy nói với người lãnh đạo của chúng tôi, có thể anh giúp được ông ta.”
“Ông ta ở đâu?” Karl hỏi.
“Ở đường đua,” Fanny nói, “trên khán đài của trọng tài.”
“Cả điều này cũng khiến tôi ngạc nhiên,” Karl nói, “tại sao việc thu nhận lại diễn ra trên đường đua?”
“Đúng,” Fanny nói, “đâu đâu chúng tôi cũng đều tiến hành việc chuẩn bị lớn nhất cho đám đông lớn nhất. Trên đường đua có nhiều chỗ mà. Và ở những nơi bình thường người ta nhận cá độ, chúng tôi dựng lên những văn phòng thu nhận. Nghe nói có hai trăm văn phòng khác nhau.”
“Nhưng mà,” Karl kêu lên, “hí viện Oklahama có thu nhập lớn đến thế để duy trì đội ngũ tuyển mộ đông vậy à?”
“Việc gì chúng mình phải bận tâm tới chuyện ấy nhỉ?” Fanny nói. “Nhưng đi đi thôi, Karl ơi, kẻo anh lỡ dịp, tôi cũng phải thổi kèn trở lại. Dẫu sao anh hãy thử xin một chỗ trong nhóm tụi này và tới báo ngay cho tôi biết. Đừng quên rằng tôi rất sốt ruột chờ tin đấy.”
Cô bắt tay cậu, nhắc nhở cậu cẩn thận khi leo xuống rồi đưa trumpet lên môi trở lại, nhưng chưa thổi ngay, mà chờ đến khi thấy Karl xuống đất an toàn. Karl kéo những tấm khăn che cầu thang lại như hồi nãy. Fanny gật đầu cám ơn và Karl vừa ngẫm nghĩ đủ kiểu về điều mới được nghe Fanny nói, vừa đi về phía người đàn ông (ông ta đã thấy Karl đứng trên cao bên Fanny) đang tiến lại gần cái bệ để gặp cậu.
“Cậu muốn gia nhập đoàn chúng tôi à?” người đàn ông hỏi. “Tôi là trưởng nhân sự của đoàn này và chào mừng cậu.” Ông ta luôn hơi cúi đầu như thể vì lịch sự, nhún nhảy dù vẫn đứng yên tại chỗ và mân mê sợi dây của chiếc đồng hồ bỏ túi.
“Cám ơn ông,” Karl nói, “tôi đã đọc biển quảng cáo của quý doanh nghiệp và đăng ký như được yêu cầu.”
“Chí phải,” người đàn ông tán thành, “rất tiếc không phải ở đây ai cũng xử sự đúng đắn như vậy.”
Karl nghĩ bây giờ mình có thể lưu ý người đàn ông rằng có lẽ miếng mồi nhử của đội tuyển mộ thất bại chính vì sự tuyệt vời của nó. Nhưng cậu không nói, vì người đàn ông này không phải là trưởng đoàn, hơn nữa chưa được nhận mà đã đưa ra những đề nghị cải tiến là không ổn. Nên cậu chỉ nói: “Ngoài kia có một người nữa đang chờ, ông ấy cũng muốn đăng ký và đã nhờ tôi đi trước xem sao. Bây giờ tôi được phép gọi ông ấy vào chứ?”
“Đương nhiên,” người đàn ông nói, “càng nhiều người tới càng tốt.”
“Ông ấy dẫn theo bà vợ và đứa con nhỏ trong xe đẩy. Vợ con ông ấy cũng vào luôn chứ?”
“Tất nhiên,” người đàn ông nói và dường như mỉm cười về sự hoài nghi của Karl. “Chúng tôi có thể cần tất cả mà.”
“Tôi quay lại ngay,” Karl nói và chạy ngược tới bên lề khán đài. Cậu vẫy đôi vợ chồng, bảo rằng mọi người được phép vào. Cậu giúp nâng chiếc xe chở đứa bé lên khán đài, rồi họ cùng đi. Thấy thế, những anh chàng kia liền bàn bạc với nhau; họ chần chừ đến giây phút cuối, hai tay thọc túi quần, rồi lề mề leo lên khán đài, cuối cùng đi theo Karl và gia đình kia. Ngay lúc ấy những hành khách mới từ trạm xe điện ngầm bước ra, trông thấy khán đài cùng các thiên thần, liền giơ tay sửng sốt. Dẫu sao giờ đây việc đăng ký đã có vẻ nhộn nhịp hơn. Karl rất mừng đã đến sớm, có lẽ cậu là người đầu tiên; cặp vợ chồng rụt rè hỏi đủ điều rằng không biết người ta có đòi hỏi gì ghê gớm chăng. Karl bảo cậu chưa biết gì cụ thể, nhưng thật sự có cảm tưởng ai cũng sẽ được thu nhận, không có ngoại lệ. Cậu tin rằng họ có thể yên tâm được.
Viên trưởng nhân sự tiến lại gặp họ, xoa tay rất hài lòng thấy nhiều người đến như thế, ông ta cúi chào từng người và bảo họ đứng thành một hàng. Karl đứng đầu, rồi tới cặp vợ chồng, sau đó mới tới những người khác. Khi họ đứng ngay ngắn rồi (thoạt tiên những anh chàng kia chen lấn nhau, mất một lúc đám ấy mới yên lặng) viên trưởng nhân sự nói, trong lúc các kèn trumpet im bặt: “Nhân danh hí viện Oklahama tôi chào mừng quý vị. Quý vị đã đến sớm” (sắp giữa trưa rồi còn gì), “chưa phải chen lấn gì nhiều, nên các thủ tục thu nhận quý vị sẽ được thực hiện nhanh chóng. Chắc chắn quý vị đều có đem theo giấy căn cước chứ.”
Mấy anh chàng kia móc túi lấy ngay ra giấy tờ gì đấy và huơ huơ trước viên trưởng nhân sự; người chồng huých vợ, bà lôi từ dưới tấm đệm lông của chiếc xe đẩy ra cả một bó giấy tờ. Còn Karl không có. Nó có thể gây trở ngại cho việc thu nhận cậu chăng? Có thể lắm chứ[38]. Dẫu sao kinh nghiệm đã cho Karl biết rằng những quy định kiểu này dễ luồn lách thôi, miễn ta kiên quyết một chút. Viên trưởng nhân sự nhìn khắp hàng người để biết chắc ai cũng có giấy tờ và vì Karl cũng giơ tay, song tay không, ông ta nghĩ giấy tờ cậu cũng ổn.
“Được rồi,” viên trưởng nhân sự nói, song phẩy tay từ chối kiểm tra ngay giấy tờ của mấy anh chàng kia, “giấy tờ sẽ được kiểm tra tại các văn phòng thu nhận. Như quý vị đã thấy trên biển quảng cáo của chúng tôi, ai chúng tôi cũng có thể cần. Nhưng tất nhiên chúng tôi phải biết cho đến nay quý vị đã làm nghề gì, hầu chúng tôi có thể xếp quý vị vào đúng chỗ, để quý vị có thể phát huy kiến thức của mình.”
“Đây là hí viện thôi mà,” Karl hoài nghi nghĩ và chăm chú nghe. “Vì thế tại những buồng đánh cá cược,” viên trưởng nhân sự nói tiếp, “chúng tôi đã đặt những văn phòng thu nhận, mỗi văn phòng cho một nhóm nghề nghiệp. Vậy bây giờ mỗi vị hãy cho tôi biết về nghề nghiệp của mình, ai có gia đình thì gia đình nói chung thuộc vào văn phòng của người chồng. Rồi tôi sẽ dẫn quý vị đến các văn phòng, ở đó đầu tiên là giấy tờ rồi kiến thức của quý vị sẽ được các chuyên gia kiểm tra, chỉ là một cuộc kiểm tra rất ngắn thôi, quý vị chẳng có gì phải sợ. Quý vị cũng được thu nhận luôn tại đó và được hướng dẫn tiếp tục. Chúng ta bắt đầu nhé. Đây, văn phòng đầu tiên, như hàng chữ đã ghi, dành cho các kỹ sư. Trong số quý vị có ai là kỹ sư không?” Karl giơ tay. Cậu nghĩ rằng chính vì mình không có giấy tờ nên phải nỗ lực chạy qua mọi thủ tục hết sức nhanh, ngoài ra cậu cũng có một chút lý do chính đáng để đăng ký, vì cậu từng muốn trở thành kỹ sư. Nhưng khi mấy anh chàng kia thấy Karl giơ tay, liền ganh tị và cũng giơ tay luôn; cả bọn giơ tay. Viên trưởng nhân sự đứng thẳng lên và nói với mấy anh chàng: “Các cậu là kỹ sư à?” Bấy giờ họ từ từ hạ tay xuống, còn Karl vẫn giữ nguyên ý kiến. Tuy viên trưởng nhân sự nhìn cậu không tin, vì thấy Karl ăn mặc lôi thôi và cũng quá trẻ, khó là kỹ sư được, nhưng ông ta không nói gì thêm, có lẽ vì biết ơn Karl, ít nhất theo quan niệm của ông ta, đã dẫn người xin việc vào. Ông ta trỏ vào văn phòng vẻ mời mọc và Karl đi tới đó, trong khi viên trưởng nhân sự quay lại với những người kia.
Trong văn phòng dành cho kỹ sư có hai ông đang ngồi hai bên một chiếc bàn hình chữ nhật và đối chiếu hai danh sách to đặt trước mặt họ. Một ông đọc lớn, ông kia gạch trong danh sách của mình những tên vừa được xướng lên. Khi Karl vừa chào vừa tiến lại trước họ, họ lập tức bỏ hai danh sách xuống và cầm lấy những quyển sách to khác, lật ra.
Một ông, rõ ràng chỉ là thư ký, nói: “Yêu cầu anh cho xem giấy căn cước.”
“Rất tiếc tôi không mang theo,” Karl nói.
“Anh ấy không mang theo,” viên thư ký nói với ông kia và ghi câu trả lời vào quyển sách của mình.
“Anh là kỹ sư?” ông kia, dường như là trưởng văn phòng này, hỏi.
“Tôi chưa,” Karl đáp nhanh, “nhưng…”
“Đủ rồi,” ông ta nói còn nhanh hơn nhiều, “vậy anh không thuộc về văn phòng này. Tôi yêu cầu chú ý đến dòng chữ ghi.” Karl cắn răng, ông ta hẳn đã nhận thấy, vì ông ta bảo: “Đó không phải là lý do để anh phải lo lắng. Chúng tôi có thể cần mọi người.” Rồi ông ta vẫy một trong những tùy phái đang vô công rồi nghề lượn qua lượn lại giữa các thanh chắn: “Anh dẫn cậu này tới văn phòng cho những người có kiến thức kỹ thuật.”
Viên tùy phái hiểu lệnh này theo nghĩa đen nên đã nắm tay Karl dẫn đi. Họ đi qua giữa nhiều phòng, ở một phòng Karl thấy một trong những anh chàng nọ, y đã được thu nhận và đang bắt tay cám ơn các ông ở đó. Diễn tiến trong văn phòng Karl được dẫn tới này, như cậu đã thấy trước, tương tự như ở văn phòng đầu tiên. Khi Karl nói đã học xong trung học, từ đây người ta lại gửi cậu đến văn phòng cho những người từng học trung học. Nhưng ở đó, khi Karl khai đã học một trường trung học Âu châu, người ta liền tuyên bố không có thẩm quyền và bảo tùy phái dẫn cậu tới văn phòng dành cho học sinh trung học Âu châu. Đó là một văn phòng ở tận ngoài rìa, không chỉ nhỏ mà còn thấp hơn mọi văn phòng khác. Viên tùy phái đưa cậu tới đây đã điên tiết vì phải dẫn cậu đi xa và gặp bao lần khước từ, mà theo hắn nghĩ thì đó là lỗi của một mình Karl. Nên hắn không chờ người ta hỏi cậu nữa, mà lập tức chạy đi. Văn phòng này hẳn cũng là chốn nương tựa cuối cùng. Khi Karl trông thấy viên trưởng văn phòng, cậu suýt hốt hoảng về sự giống nhau giữa ông ta và một ông thầy của mình có lẽ giờ đây vẫn còn dạy tại trường trung học ở quê nhà. Tuy nhiên cậu nhận thấy ngay họ chỉ giống nhau về chi tiết; nhưng cặp kính trên cái mũi to bè, bộ râu quai nón vàng hoe được chăm chút như một vật triển lãm, cái lưng hơi còng và giọng nói luôn bất chợt cất cao đã khiến Karl sửng sốt mất một lúc. May mà cậu không phải quá chú ý, vì nơi đây mọi chuyện diễn ra đơn giản hơn ở những văn phòng khác. Tuy người ta cũng ghi rằng cậu thiếu giấy căn cước và viên trưởng phòng bảo đó là một sơ suất khó hiểu, nhưng người thư ký, ông ta có tiếng nói quyết định ở đây, đã lờ đi và tuyên bố Karl được thu nhận, sau khi viên trưởng phòng hỏi vài câu ngắn ngủi và đang định hỏi một câu khó hơn. Viên trưởng phòng há hốc miệng quay nhìn người thư ký, nhưng ông này phẩy tay tỏ ý kết thúc, nói “Thu nhận” và ghi ngay quyết định này vào sổ. Rõ ràng viên thư ký cho rằng việc là một học sinh trung học ở châu Âu đủ nhục nhã rồi, nên có thể tin tưởng ở người tự khẳng định điều này mà không cần phải kiểm tra gì cho phiền toái. Về phần mình, Karl chẳng có gì phản đối và định đi tới cám ơn ông ta. Nhưng cậu phải tạm hoãn, vì người ta cần biết tên cậu. Karl không trả lời ngay, cậu ngượng ngùng phải nói để người ta viết ra tên thật của mình. Bao giờ cậu nhận được ở đây một công việc, cho dù hết sức tầm thường, và hoàn thành nó mỹ mãn, lúc ấy người ta tha hồ biết tên cậu, nhưng lúc này thì chưa; cậu giấu tên thật của mình đã quá lâu, chẳng lẽ bây giờ lại để lộ ra. Vì lúc ấy không nghĩ ra được cái tên nào khác, cậu bèn nêu cái tên đã dùng ở những chỗ làm cuối cùng: “Negro”.
“Negro?” viên trưởng phòng hỏi, quay đầu, vẻ mặt nhăn nhó như thể Karl vừa đạt đỉnh cao của sự không đáng tin cậy. Cả người thư ký cũng nhìn Karl một lúc bằng cặp mắt thăm dò, nhưng rồi lặp lại “Negro” và ghi vào sổ.
“Ông không ghi Negro đấy chứ?” viên trưởng phòng la lối.
“Ghi chứ, Negro,” người thư ký thản nhiên nói và phác tay như bảo viên trưởng phòng nói qua chuyện khác.
Viên trưởng phòng tự kiềm chế, đứng lên tuyên bố: “Thế là hí viện Oklahama…” nhưng không nói tiếp được nữa; ông ta không thể làm trái với lương tâm, nên lại ngồi xuống và nói: “Tên anh này không phải là Negro.”
Người thư ký nhướng cao đôi mày, tự đứng dậy và nói: “Vậy tôi cho cậu biết rằng cậu đã được hí viện Oklahama thu nhận và bây giờ sẽ được đưa đến trình diện với đội trưởng của chúng tôi.”
Một tùy phái lại được gọi đến, dẫn Karl tới khán đài của trọng tài. Dưới chân cầu thang Karl thấy chiếc xe đẩy của trẻ con, lúc ấy cặp vợ chồng cũng vừa xuống tới, người vợ bế đứa con trên tay.
“Cậu được nhận chứ?” người chồng hỏi, ông ta linh lợi hơn hồi nãy nhiều, bà vợ cũng cười ngoái nhìn chồng. Khi Karl trả lời rằng mới vừa được thu nhận và bây giờ đi trình diện, người chồng nói: “Chúc mừng cậu. Chúng tôi cũng được nhận. Xem ra đây là một doanh nghiệp lớn, tất nhiên ta không thể thích nghi ngay được với mọi thứ, nhưng ở đâu chả thế.” Họ còn chào nhau “Hẹn gặp lại” và Karl leo lên khán đài. Cậu đi chậm rãi, vì căn phòng trên kia có vẻ đầy nghẹt người, cậu không muốn chen lấn. Thậm chí cậu còn dừng lại, quan sát trường đua rộng lớn, trải dài tới tận những cánh rừng xa. Chợt cậu nổi hứng được một lần xem đua ngựa, ở Mỹ cậu chưa có được dịp nào. Hồi nhỏ, ở châu Âu cậu đã có lần được dẫn tới một cuộc đua, nhưng không thể nhớ lại gì hơn là bị mẹ kéo qua giữa đông đảo người không chịu tránh. Tức là đúng ra cậu chưa được xem cuộc đua ngựa nào. Sau lưng Karl máy móc bắt đầu kêu rì rì, cậu quay nhìn cái thiết bị vốn dùng để trưng tên những con ngựa thắng giải, giờ đây trên cao chạy hàng chữ: “Thương gia Kalla cùng vợ con”. Tức là ở đây nó thông báo cho các văn phòng tên những người được thu nhận.
Đúng lúc ấy có vài ông tay cầm bút chì và sổ ghi chép, trò chuyện sôi nổi với nhau, chạy xuống cầu thang, Karl nép sát vào lan can nhường lối, rồi leo lên, vì bây giờ trên kia đã trống. Trong một góc của cái bục có lan can gỗ bao quanh - trông như cái mái bằng của một ngọn tháp hẹp - một ông đang ngồi duỗi tay dọc lan can, ngang ngực đeo một băng lụa trắng to mang hàng chữ “Đội trưởng đội tuyển mộ thứ mười của hí viện Oklahama”. Bên cạnh là chiếc bàn con, trên đặt một máy điện thoại (chắc cũng dùng trong các cuộc đua ngựa), nhờ máy này mà đội trưởng hiển nhiên biết mọi điều cần thiết về từng người xin việc trước khi cuộc phỏng vấn bắt đầu, vì ông ta chẳng hỏi han gì Karl mà nói với một ông ngồi tựa lưng bên cạnh, chân vắt tréo, tay chống cằm: “Negro, một học sinh trung học Âu châu.” Và như thể qua đó đã giải quyết xong mọi việc với Karl đang cúi thấp đầu, ông ta nhìn xuống cầu thang xem lại có ai tới nữa không. Nhưng vì không ai tới, nên thỉnh thoảng ông ta cũng lắng nghe ông kia trò chuyện với Karl, còn phần nhiều ông ta nhìn qua trường đua và gõ ngón tay lên lan can. Những ngón tay mảnh dẻ nhưng khỏe, dài và cử động thoăn thoắt kia đôi lúc cũng khiến Karl sao nhãng, tuy cậu đã phải rất lưu tâm đến người đang trò chuyện với mình.
“Trước đây anh thất nghiệp à?” mới đầu ông ta hỏi. Câu hỏi này, như hầu hết mọi câu hỏi khác ông ta đặt ra, đều rất đơn giản, chẳng có gì hóc búa và thêm vào đó, những điều Karl trả lời cũng không bị ông ta hỏi những câu chen ngang để kiểm chứng; tuy nhiên qua kiểu ông ta mở to mắt khi nêu những câu hỏi, kiểu ông ta cúi thân trên quan sát tác động của chúng, kiểu ông ta cúi đầu xuống ngực đón nhận những câu trả lời và thỉnh thoảng cao giọng lặp lại, ông ta đã biết cách tạo cho chúng một tầm quan trọng đặc biệt, tuy ta không hiểu tầm quan trọng ấy, nhưng sự linh cảm về nó khiến ta phải thận trọng và e dè. Nhiều khi Karl tha thiết muốn rút lại điều đã trả lời và thay bằng một câu khác có lẽ được tán đồng hơn, nhưng cậu luôn dừng lại, vì biết một sự dao động như thế sẽ gây ấn tượng xấu thế nào và ngoài ra tác động của những câu trả lời này phần lớn khó lường. Hơn nữa việc thu nhận cậu dường như ngã ngũ rồi, điều này đã cho cậu chỗ dựa.
Câu hỏi có phải trước đây cậu thất nghiệp không, cậu trả lời với một tiếng “phải” ngắn gọn.
“Mới đây nhất anh làm việc ở đâu?” rồi ông ta hỏi. Karl đã định trả lời, lúc ấy ông ta giơ ngón tay trỏ và nói lại: “Mới đây nhất!”
Ngay câu hỏi đầu Karl đã hiểu đúng rồi, bất giác cậu lắc đầu rũ bỏ lời chú thích gây băn khoăn của ông ta và đáp: “Trong một văn phòng.” Đó vẫn là sự thật, nhưng nếu ông ta đòi thông tin rõ hơn về văn phòng này thuộc loại nào, thì cậu sẽ phải nói dối. Nhưng ông ta không đòi, mà chỉ đặt ra câu hỏi hoàn toàn dễ trả lời theo đúng sự thật: “Ở đó anh có hài lòng không?”
“Không!” Karl kêu lên, gần như ngắt lời ông ta. Karl liếc thấy viên đội trưởng hơi mỉm cười. Karl ân hận đã thiếu cân nhắc về câu trả lời vừa rồi, nhưng cậu quá thèm được bật ra tiếng “không” này, vì trong suốt thời gian làm việc gần đây nhất của mình, cậu chỉ có một ước muốn lớn nhất là một người sếp lạ mặt nào đó một lần bước vào và hỏi cậu câu này. Nhưng câu trả lời của cậu còn có thể đưa tới một bất lợi khác, vì giờ đây ông ta có thể hỏi tại sao cậu không hài lòng. Thay vì thế ông ta lại hỏi: “Anh cảm thấy thích hợp với công việc nào?” Câu hỏi này quả thật có thể là bẫy, vì nó được đặt ra để làm gì, khi Karl đã được thu nhận làm diễn viên? Nhận thấy thế, song Karl đã không buộc được mình giải thích rằng cậu cảm thấy đặc biệt thích hợp với nghề diễn viên. Cho nên cậu né tránh câu hỏi và nói, dù có nguy cơ bị coi là ngang bướng: “Tôi xem biển quảng cáo ở thành phố, thấy viết rằng hí viện có thể cần mọi người, nên đã đăng ký.”
“Chúng tôi biết điều đó,” ông ta nói rồi im lặng, qua đó cho thấy ông ta khăng khăng với câu vừa hỏi.
“Tôi được thu nhận làm diễn viên,” Karl ngập ngừng nói để ông ta hiểu về sự khó khăn mà câu hỏi vừa rồi đã gây ra cho cậu.
“Đúng vậy,” ông ta nói rồi lại lặng im.
“Hừm[39],” Karl nói và mọi hy vọng tìm được việc làm của cậu bị lung lay, “tôi không biết mình có thích hợp với việc diễn kịch chăng. Nhưng tôi sẽ nỗ lực và cố thực hiện mọi công việc được giao.”
Ông ta quay nhìn viên đội trưởng, cả hai gật đầu, dường như Karl đã trả lời đúng; cậu cảm thấy can đảm trở lại và trấn tĩnh tinh thần chờ câu hỏi tới. Nó như sau: “Hồi đó, mới đầu cậu định học gì?”
Để câu hỏi được chính xác hơn - ông ta luôn rất chú trọng đến việc làm cho chính xác - ông ta nói thêm: “Ý tôi muốn hỏi ở châu Âu.” Nói đến đây ông ta nhấc tay khỏi cằm và phác nhẹ, như cùng lúc muốn cho thấy châu Âu xa xôi biết mấy và những dự định từng được ấp ủ ở đó mới vô nghĩa làm sao.
Karl nói: “Hồi đó tôi muốn trở thành kỹ sư.” Tuy cậu không ưa câu trả lời này (ý thức rõ về sự nghiệp của mình cho đến nay trên nước Mỹ thì thật là khôi hài khi làm sống lại tại đây kỷ niệm xưa, rằng cậu từng muốn trở thành kỹ sư - nếu còn ở châu Âu cậu có bao giờ trở thành kỹ sư không?) nhưng tạm thời không biết trả lời thế nào khác, nên đã đáp như thế.
Nhưng ông ta coi đó là nghiêm chỉnh, như đã coi mọi câu trả lời của cậu là nghiêm chỉnh. “Chà, kỹ sư,” ông ta nói, “hẳn là anh không thể trở thành ngay được, nhưng tạm thời thực hiện những công việc kỹ thuật ở mức thấp hơn có thể thích hợp với anh.”
“Chắc chắn,” Karl nói, rất hài lòng; nếu cậu chấp nhận đề nghị này, tuy sẽ bị đẩy từ tầng lớp diễn viên sang công nhân kỹ thuật, nhưng cậu thật sự tin rằng ở công việc này cậu có thể chứng minh tốt hơn khả năng của mình. Hơn nữa, cậu luôn luôn tự nhắc nhở rằng điều quan trọng không phải là công việc nào, mà ngược lại, trụ được lâu dài ở bất cứ đâu.
“Anh có đủ sức vóc cho công việc nặng không đấy?” ông ta hỏi.
“Dạ có,” Karl nói.
Ông ta liền bảo Karl lại gần và nắn nắn cánh tay cậu. “Đây là một thanh niên khỏe mạnh,” rồi ông ta vừa nói vừa nắm tay Karl kéo tới viên đội trưởng. Đội trưởng mỉm cười gật đầu, không nhấc người khỏi chỗ ngồi thoải mái, chìa tay cho Karl và nói: “Vậy là chúng ta đã xong. Ở Oklahama mọi chuyện sẽ được kiểm tra lại. Cậu hãy tỏ ra xứng đáng với đội tuyển mộ của chúng ta!”
Karl cúi đầu chào tạm biệt, rồi cậu cũng muốn từ biệt ông kia nữa, nhưng ông ta đã đi tới đi lui trên bục, mặt nghếch lên trời, như thể đã xong hoàn toàn nhiệm vụ. Trong lúc Karl bước xuống, một hàng chữ chạy cao trên tấm biển cạnh cầu thang: “Negro, công nhân kỹ thuật.”
Vì ở đây mọi chuyện đều tiến hành quy củ, nên giả thử Karl thấy tên thật của mình trên tấm biển, cậu cũng không ân hận gì nhiều nữa. Thậm chí mọi chuyện còn được sắp xếp quá chu đáo, vì Karl được một tùy phái đón dưới chân cầu thang, buộc quanh cánh tay cậu một tấm băng. Khi giơ tay để xem trên tấm băng có gì, Karl thấy ở đó cụm từ hoàn toàn chính xác “công nhân kỹ thuật”.
Nhưng bây giờ mặc cho được dẫn đi đâu, trước hết Karl muốn báo cho Fanny biết mọi chuyện đã diễn ra may mắn biết bao. Nhưng cậu rất tiếc được người tùy phái cho biết rằng các thiên thần cũng như quỷ sứ đã đi đến địa điểm hoạt động mới của đội tuyển mộ, để quảng bá về việc đội sẽ tới vào hôm sau. “Tiếc quá,” Karl nói, đó là điều thất vọng đầu tiên cậu trải qua trong doanh nghiệp này, “tôi có một cô bạn trong số các thiên thần.”
“Anh sẽ gặp lại cô ấy ở Oklahama,” người tùy phái nói, “nhưng bây giờ đi thôi, anh là người cuối cùng đấy.”
Hắn dẫn Karl đi dọc mặt sau của khán đài, nơi các thiên thần đứng hồi nãy; giờ đây ở đó chỉ còn những bệ trống trơ. Phỏng đoán của Karl rằng vắng tiếng nhạc của các thiên thần sẽ có nhiều người đến tìm việc hơn đã tỏ ra không đúng, vì lúc này trước khán đài chẳng có người lớn nào nữa, chỉ thấy vài đứa trẻ đang tranh nhau một chiếc lông chim dài màu trắng, chắc rơi ra từ một cánh thiên thần. Một thằng bé giơ chiếc lông lên cao, trong khi những đứa kia cố dùng một tay ấn đầu nó xuống, còn tay kia chụp lấy chiếc lông.
Karl chỉ vào những đứa bé, nhưng người tùy phái nói mà không nhìn chúng: “Nhanh lên anh, họ hỏi anh rõ thật lâu, rồi mới thu nhận. Họ hoài nghi à?”
“Tôi không biết,” Karl ngạc nhiên đáp, nhưng cậu không tin điều hắn vừa nói. Kể cả trong những tình huống sáng tỏ nhất vẫn luôn có ai đấy thích gây lo lắng cho đồng loại. Nhưng trước quang cảnh thân mật của khán đài lớn dành cho khán giả, mà họ đang đi tới, Karl mau chóng quên lời nhận xét của người tùy phái. Trên khán đài có một băng ghế to, dài phủ khăn trắng, mọi người được thu nhận ngồi trên ghế băng thấp hơn kế đó, quay lưng về đường đua và đang được khoản đãi. Ai nấy tươi vui và khích động; vừa khi Karl, người cuối cùng, kín đáo ngồi xuống ghế, nhiều người đứng lên nâng ly và một người nói lời chúc tụng viên đội trưởng đội tuyển mộ thứ mười, gọi ông ta là “cha của những người tìm việc”. Ai đó lưu ý rằng từ chỗ này người ta vẫn có thể trông thấy ông ta, và quả thật khán đài cho trọng tài với hai ông kia không quá xa, có thể thấy được. Mọi người liền huơ ly về hướng đó, Karl cũng cầm lấy chiếc ly trước mặt mình, nhưng dù người ta kêu to đến đâu và cố gây chú ý thế nào, trên khán đài cho trọng tài chẳng có gì tỏ ra rằng hai ông đó thấy, hoặc ít nhất muốn nhận thấy, sự tung hô. Viên đội trưởng vẫn tựa vào góc như hồi nãy và ông kia đứng bên cạnh, tay sờ cằm.
Họ hơi thất vọng ngồi xuống trở lại, thỉnh thoảng lại có một người quay về phía khán đài cho trọng tài, nhưng rồi người ta nhanh chóng chỉ còn bận bịu với bữa ăn thịnh soạn; gà vịt to Karl chưa từng thấy, nĩa cắm đầy trên lớp thịt nướng giòn, được chuyển quanh, rượu vang không ngớt được những người giúp việc rót thêm - ta hầu như không nhận thấy, ta cúi xuống đĩa ăn và tia rượu vang đỏ chảy vào ly - và ai không muốn tham gia vào cuộc vui chung có thể xem hình ảnh của hí viện Oklahama xếp thành chồng ở cuối bàn tiệc và được chuyền tay. Nhưng người ta không quan tâm nhiều đến hình ảnh, nên đã xảy ra chuyện chỉ một bức hình được Karl, người ngồi cuối, chú ý. Xét theo tấm ảnh này thì mọi bức hình đều rất đáng xem cả. Tấm ảnh chụp lô của tổng thống Hợp chúng quốc. Thoạt nhìn ta có thể nghĩ đó không phải một lô, mà là sân khấu, vì bao lơn hình vòng cung nhô thật xa vào không gian trống. Mọi bộ phận của bao lơn đều hoàn toàn bằng vàng. Giữa những cột trụ nhỏ, trông như thể được cắt tỉa bằng những cái kéo tinh xảo nhất, treo kề nhau những chân dung đắp nổi của những tổng thống trước, một ông mũi thẳng khác thường, môi bĩu, mắt sâu hoắm trừng trừng dưới hai mí lồi. Từ chung quanh, từ hai bên và từ trên cao chiếu vào lô những tia sáng; ánh sáng trắng nhưng dịu để lộ phần trước của lô, trong khi phần sau của nó (được một tấm màn nhung đỏ, gấp nếp thành những vạt đậm nhạt, buông rủ che kín và kéo mở bằng dây) trông như một khoảng trống tối, lấp lánh màu hung đỏ. Tất cả trông thật oai nghiêm, khiến ta không thể hình dung được trong đó có người. Karl không quên ăn, nhưng vẫn thường ngắm nhìn tấm hình mà cậu để cạnh đĩa của mình.
Cuối cùng Karl rất muốn được xem ít nhất một trong những tấm hình khác, nhưng không tiện tự ra lấy, vì một người giúp việc đang đặt tay lên những tấm hình, hẳn là chúng phải được giữ thứ tự; nên cậu chỉ nhìn khắp bàn tiệc xem có tấm hình nào đang được chuyển tới gần không. Lúc ấy cậu sửng sốt nhận ra - mới đầu cậu hoàn toàn không tin - trong số những người đang cúi gằm trên đĩa ăn một khuôn mặt rất quen: Giacomo. Karl liền chạy ngay tới, gọi: “Giacomo!”
Gã này rụt rè, như vẫn luôn như thế khi bị bất ngờ, đứng lên khỏi bàn ăn, quay người trong khoảng không gian chật hẹp giữa những băng ghế, đưa tay chùi miệng, rồi mừng rỡ khi thấy Karl, gã yêu cầu cậu ngồi cạnh gã hoặc đề nghị chuyển qua chỗ Karl, họ muốn kể nhau nghe mọi chuyện và ngồi mãi bên nhau. Karl không muốn làm phiền những người kia, nên họ cứ tạm giữ chỗ của mình, bữa tiệc sắp kết thúc rồi và sau đó dĩ nhiên họ sẽ mãi mãi gắn bó với nhau. Nhưng Karl vẫn đứng lại bên Giacomo, chỉ để ngắm nhìn gã. Biết bao kỷ niệm về những thời gian qua! Bà bếp trưởng giờ ở đâu? Therese nay làm gì? Hình dáng Giacomo hầu như không hề thay đổi, điều tiên đoán của bà bếp trưởng rằng trong nửa năm gã phải trở thành một người Mỹ rắn rỏi đã không xảy ra, gã vẫn mảnh dẻ như ngày trước, má vẫn hóp như xưa, song trước mắt đang phình, vì gã ngậm trong miệng một miếng thịt quá to mà gã đang từ từ rút xương ra, quăng lên đĩa. Như Karl thấy được trên băng tay Giacomo thì gã cũng không được thu nhận làm diễn viên, mà gác thang máy; hí viện Oklahama dường như quả thật có thể sử dụng mọi người.
Mải miết nhìn Giacomo nên Karl đã rời chỗ mình quá lâu. Cậu vừa định quay về thì viên trưởng nhân sự đến, đứng trên một trong những băng ghế kê cao hơn, vỗ tay và nói ngắn vài lời, trong khi phần lớn thực khách đã đứng lên thì những người nán ngồi lại vì không thể rời khỏi đĩa ăn bị người khác huých cuối cùng cũng buộc phải đứng dậy.
“Tôi hy vọng,” ông ta nói, trong khi đó Karl đã rón rén chạy về chỗ của mình, “rằng quý vị hài lòng với bữa ăn chào mừng của chúng tôi. Nói chung người ta ca ngợi bữa ăn của đội tuyển mộ chúng ta. Rất tiếc tôi phải tuyên bố kết thúc bữa tiệc, vì chuyến xe lửa đưa quý vị đến Oklahama sẽ khởi hành trong năm phút nữa. Tuy đó là một chuyến đi dài, nhưng quý vị sẽ thấy mình được chăm sóc chu đáo. Đây, tôi xin giới thiệu với quý vị người sẽ dẫn quý vị đi và quý vị có bổn phận tuân lời ông ấy.”
Một ông thấp bé gầy còm leo lên băng ghế mà viên trưởng nhân sự đang đứng, ông ta không thèm dành chút thì giờ cúi chào qua loa, mà lập tức dang tay nóng nảy chỉ trỏ mọi người phải tập trung, xếp thành hàng ngũ và di chuyển như thế nào. Nhưng tạm thời chưa ai theo ông ta, vì thực khách hồi nãy nâng ly chúc tụng trong bữa chiêu đãi đã đập tay lên bàn và bắt đầu dài dòng cám ơn, tuy - Karl sốt cả ruột - vừa được cho biết xe lửa sắp khởi hành đến nơi. Nhưng diễn giả kể ra mọi món ăn đã được dọn trên bàn tiệc, nhận xét từng món (chẳng cần để ý rằng cả viên trưởng nhân sự cũng không lắng nghe, mà đang ra nhiều chỉ thị khác nhau cho người phụ trách chuyến đi) rồi kết thúc gọn với lời hô: “Kính thưa quý ngài, đó là cách quý ngài chinh phục chúng tôi đấy.” Trừ những người được thưa gửi, ai nấy đều cười, nhưng đó là sự thật chứ không phải đùa bỡn.
Ta bù lại cho quãng thời gian đã mất bởi bài diễn văn này bằng cách giờ đây phải đi như chạy đoạn đường ra xe lửa. Việc này chẳng khó khăn gì lắm, vì - bây giờ Karl mới nhận thấy - không ai mang theo hành lý; món hành lý duy nhất chính là chiếc xe trẻ con do ông bố đẩy, hết nẩy lên lại nẩy xuống, giờ đây nó dẫn đầu đoàn người. Những con người nghèo khổ, khả nghi đã cùng tới nơi đây, được hoan hỉ đón nhận và che chở! Và họ gần như đã phó thác cho sự bảo trợ của người phụ trách chuyến đi. Lúc thì ông ta một tay phụ cầm cần lái chiếc xe trẻ con, tay kia giơ cao khích lệ đoàn người, lúc thì đứng sau hàng cuối cùng hối họ đi, lúc lại chạy dọc theo hai bên, chú ý đến vài người đi hơi chậm trong đoàn và cố vung tay cho họ thấy phải chạy như thế nào.
Khi họ tới ga, tàu đã chờ sẵn. Những người trên sân ga chỉ cho nhau đoàn người, ta nghe những câu như: “Hết thảy những người này là của hí viện Oklahama đấy!” hí viện dường như nổi tiếng hơn Karl tưởng nhiều, tất nhiên cũng vì cậu chưa hề quan tâm tới sinh hoạt hí viện. Nguyên một toa được dành riêng cho đoàn, người phụ trách chuyến đi hối thúc họ lên tàu còn hơn người soát vé. Trước hết ông ta ngó vào từng buồng tàu, sắp xếp chỗ này chỗ nọ rồi mới leo lên. Ngẫu nhiên Karl được một chỗ bên cửa sổ và kéo Giacomo ngồi bên cạnh. Họ ngồi chen chúc bên nhau và nói chung cả hai đều vui mừng về chuyến đi. Họ chưa từng có được chuyến đi nào vô tư đến thế ở Mỹ. Khi tàu chuyển bánh, họ vẫy vẫy tay ra ngoài cửa sổ, trong khi mấy anh chàng ngồi đối diện huých nhau, cho hành động của họ là khôi hài.
[35] Trong ấn bản của Max Brod là chương 8, tên là “Hí viện Oklahoma”.
[36] Oklahama: lẽ ra phải là Oklahoma (như Max Brod đã sửa lại trong ấn bản của mình); nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu thì Kafka không hề đến Mỹ, nên khi sáng tác Nước Mỹ Kẻ mất tích ông đã sử dụng một số tư liệu (phóng sự, tranh ảnh) về đất nước này, trong đó có quyển của Arthur Holitscher (xuất bản năm 1912) mà một tấm hình mang tên “Idyll aus Oklahama” (Cảnh thanh bình nơi thôn dã ở Oklahama) - do Nhà xuất bản in nhầm - chụp cảnh một thanh niên da đen bị treo cổ ở một cái cây, đứng chung quanh là những người Mỹ da trắng thờ ơ. Cũng theo một số nhà nghiên cứu thì việc Kafka cố ý dùng tên sai Oklahama này cũng như dưới đây cho Karl xưng tên là Negro (Mọi Đen) có thể đã khiến độc giả đương thời liên tưởng tới hình ảnh người Mỹ da đen bị treo cổ - cho thấy trong một khía cạnh nào đó tác giả không coi nước Mỹ là “thiên đường” như phần lớn dư luận thời bấy giờ.
[37] Nhân vật Fanny này không có trong các chương trước!
[38] Bản của Max Brod sắp câu này sau câu tiếp theo đoạn “Dẫu sao… một chút”, khiến nghĩa của đoạn này thành ra khác!
[39] Nguyên văn “Nun”, ở đây nó chỉ là một từ đệm (tức là không có nghĩa gì!). Bản do Max Brod chủ biên in nhầm thành “Nein - không” - sai hẳn ý!