← Quay lại trang sách

Bạt

“Chúa Trời không muốn tôi viết;

còn tôi, tôi muốn viết.”

Franz Kafka

Chỉ trong một đêm cuối tháng Chín 1912, viết một mạch từ khuya đến sáng sớm, Kafka hoàn thành truyện ngắn “Lời phán quyết” (Das Urteil) mà ông vô cùng hài lòng - hơn cả đối với tác phẩm nổi tiếng “Hóa thân” (Die Umwandlung) được sáng tác ít lâu sau đó. Sau đó, Kafka bắt tay ngay vào việc viết bản thảo thứ hai cho tiểu thuyết Nước Mỹ / Kẻ mất tích (Amerika / Der Verschollene); bản thảo đầu tiên khoảng 200 trang, nay không còn nữa, được viết từ mùa đông 1911 đến quãng giữa 1912 thì bị bỏ dở, vì Kafka cho là không đạt (không ít nhà nghiên cứu nhận xét rằng Kafka là người phê bình nghiêm khắc nhất các tác phẩm của chính mình).

Phấn khởi với “Lời phán quyết”, nên chỉ trong vòng một tháng rưỡi, cũng với cách viết hăng say một mạch “bằng cả tấm lòng và thể xác” khi sáng tác truyện ngắn vừa nêu, Kafka đã hoàn thành năm chương đầu và gần hết chương 6 (vị chi khoảng hai phần ba tác phẩm) như ông hào hứng kể trong bức thư ngày 11 tháng Mười một năm 1912 gửi bạn gái mới quen Felice Bauer - người sẽ hai lần đính hôn với Kafka, rồi từ hôn vĩnh viễn vào năm 1917 - đồng thời cho biết ông đặt tên tiểu thuyết “có thể kéo dài bất tận” này là Kẻ mất tích.

Song từ chương 7 trở đi (thảy đều không có tựa) Kafka đã viết rất ì ạch, vì ông thường tạm ngừng để sáng tác Vụ án (Der Prozess), tiểu thuyết thứ hai, và các truyện ngắn “Hóa thân”, “Ở một trại trừng giới” (In der Strafkolonie)… Gần cuối năm 1914 tác giả bỏ dở hoàn toàn Kẻ mất tích.

Và cũng vì các chương cuối này không được tác giả đánh số nên Max Brod đã nhầm lẫn khi sắp xếp thứ tự cho ấn bản của mình.

Kẻ mất tích là cuốn đầu tiên trong ba tiểu thuyết ở dạng dang dở (cùng với Vụ án và Lâu đài) được gọi là “bộ ba về sự cô đơn” (Trilogie der Einsamkeit) của Kafka.

Năm 1924, trước khi mất vì bệnh lao, Kafka để lại “chúc thư văn học” cho bạn thân là Max Brod yêu cầu thiêu hủy hết mọi di cảo của ông. Nhưng Max Brod đã không thực hiện di nguyện này.

Năm 1927, Kẻ mất tích được Max Brod cho xuất bản tại Praha nhưng với tên Nước Mỹ (vì theo “Lời bạt” cho ấn bản lần thứ nhất của Max Brod thì đó là tên mà Kafka hay gọi tác phẩm này khi trò chuyện với bạn bè).

Tất nhiên Kẻ mất tích là hư cấu, song Kafka đã “lấy cảm hứng” từ hai người anh em họ của mình: một người tên Franz (qua Mỹ đổi thành Frank) Kafka, năm 16 tuổi được cha mẹ cho sang Mỹ ở với anh trai, người thứ hai tên Robert Kafka, năm 14 tuổi bị một cô giúp việc dụ dỗ, và ông cậu Alfred Löwy, rất thành đạt ở Tây Ban Nha và từng được gặp tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt.

Và, như chính tác giả cho biết, Kẻ mất tích chịu ảnh hưởng tác phẩm David Copperfield của Charles Dickens.

Tuy chưa một lần đến Mỹ, song Kafka đã miêu tả thật sinh động cuộc sống tất bật và vô cùng nghiệt ngã ở đất nước này vào đầu thế kỷ 20. Đặc biệt, như Max Brod đã chỉ ra, nhiều cảnh trong truyện thật không khác một số màn phim câm của Charlie Chaplin sau này.

Không rõ tác giả có ý định - như hàng triệu người Âu hồi đầu thế kỷ 20 - di dân sang Mỹ chăng? Chỉ thấy ông kể trong Nhật ký rằng hồi nhỏ, trong một lần về thăm ông bà, Kafka có viết câu chuyện về hai anh em, người xấu sang Mỹ, người tốt ở lại “trong nhà tù châu Âu”; một ông chú bác đọc rồi bảo “chuyện tầm phào”, khiến lúc ấy Kafka cảm thấy khung cảnh quanh mình thật lạnh lẽo và mọi người thật xa lạ. Và khi viết cho hôn thê Felice Bauer rằng ông “thù ghét Praha, một bà mẹ nanh nọc” thì phải chăng ít nhất “trong tâm tưởng”, Kafka đã muốn rời khỏi thành phố này, nơi ông thường xuyên chịu sự áp chế của người cha độc đoán, nơi đã từ hàng thế kỷ những người gốc Do Thái như ông phải hứng chịu sự kỳ thị, thù hằn, ngược đãi, thậm chí tàn sát… từ cả hai cộng đồng người Tiệp và người Đức? Và rồi cả ba cô em gái và Milena Jesenská, người tình của tác giả, phải bỏ xác trong các trại tập trung của Đức Quốc xã?

Karl Roßmann trong Kẻ mất tích, Josef K. trong Vụ án hoặc K. trong Lâu đài đều là hình ảnh cô đơn của chính tác giả.

Khi Max Brod hỏi số phận Karl Roßmann rồi sẽ ra sao, Kafka cho biết rằng “trong hí viện Oklahama, nhân vật chính này sẽ có được nghề nghiệp, sự tự do, nơi nương tựa, thậm chí tìm lại được quê hương và cha mẹ như thể qua một màn ảo thuật tuyệt vời” (theo “Lời bạt” của Max Brod) - cái hí viện như một xã hội không tưởng, như nhà nghiên cứu người Anh Anthony Northey đã nhận xét.

Đầu Thế chiến II, khi Quốc xã Đức tiến chiếm Praha thì Max Brod chạy thoát được sang Palestin cùng với toàn bộ di cảo của Kafka. Năm 1961, những di cảo này được nhượng cho Bodleian Library ở Oxford (Anh) để giới học thuật dễ tiếp cận hơn.

Dựa trên bản viết tay của Kafka, Malcolm Pasley, một học giả của Đại học Oxford, đã “tái tạo trung thực” Vụ án và Lâu đài.

Cũng như thế, Kẻ mất tích do Jost Schillemeit, giáo sư Đại học Braunschweig (Đức), chủ biên.

Nhà nghiên cứu Wilhelm Emrich, giáo sư Đại học Berlin, đã coi Kẻ mất tích “thuộc vào số những khám phá có tính thơ ca tinh tường nhất của xã hội công nghiệp hiện đại mà văn học thế giới được biết. Ở đây, sự vận hành bí mật về kinh tế và tâm lý của xã hội này cùng những hệ quả quỷ quái của nó bị phơi trần thẳng tay.”

Sankt Augustin, hè 2016

Lê Chu Cầu