Chú Thích
.
[1] Khu nhà có nhiều gia đình ở chung, thường là các gia đình nghèo, chia sẻ một khoảng sân chung.
[2] Tạ Đầu To và Phùng Mặt Rỗ.
[3] Khách sạn của người Anh xây dựng tại khu sứ quán của Bắc Kinh.
[4] Con phố thương nghiệp ở Bắc Kinh, gần Tiền Môn.
[5] Cách người Bắc Kinh gọi đồng tiền 20 đồng phát hành năm Quang Tự thứ hai mươi sáu.
[6] Một quán lòng lợn rất nổi tiếng ở Bắc Kinh từ thời Càn Long.
[7] Trong tiếng Trung, chữ Dung 容 và chữ Vinh 荣 đồng âm, đều đọc là /róng/.
[8] Bánh làm từ các loại hoa màu lẫn lộn.
[9] Thời xưa, các thuật ngữ giang hồ đa phần đều là khẩu truyền, vì thế cũng có nhiều cách viết khác nhau, chỉ là âm đọc khá giống nhau. Tám chữ này đại diện cho tám nghề kiếm ăn trên giang hồ thời xưa, lần lượt được giải thích như sau.
Kim (hay Kinh): Chỉ nghề xem tướng, bói toán, xem phong thủy.
Bì (hay Bình, Bỉ): Chỉ nghề bán các loại thuốc ngoài chợ.
Thái (hay Thải, Thẻ): Chỉ nghề làm ảo thuật.
Qua: Chỉ nghề biểu diễn võ thuật, mãi võ.
Binh: Chỉ nghề kể chuyện, thuyết thư.
Đoàn: Chỉ nghề tấu hài.
Điều: Chỉ nghề bán thuốc cai nha phiến, giải độc…
Liễu: Chỉ nghề hát xướng, diễn kịch.
[10] Như đã chú thích ở trên, thuật ngữ giang hồ đời xưa đa phần đều là khẩu truyền, nên có nhiều cách ghi khác nhau, chỉ có âm đọc là giống hoặc tương tự nhau. Trong tiếng Trung, các cụm Phong Ma Yến Tước và Phong Mã Nhan Khuyết đọc gần giống nhau.
[11] Trong tu hành, dù là Đạo hay Phật, đều có cách nói bế quan, tức là đóng cửa tu luyện một thời gian nhất định. Hết thời gian đó ra ngoài thì gọi là xuất quan, giữa chừng có việc buộc phải ra ngoài thì là phá quan, coi như lỡ dở công lao trước đó.
[12] Biệt danh của Lỗ Trí Thâm trong tiểu thuyết Thủy hử, một nhà sư không kiêng rượu thịt.
[13] Những thuật ngữ giang hồ này sẽ lần lượt được giải thích trong các đoạn về sau.
[14] Cấm kỵ trong phối thuốc Trung y, một số loại thuốc khi dùng chung sẽ gây tăng độc tính hoặc tác dụng phụ, ảnh hưởng tới sức khỏe, tuy nhiên vẫn có một số thầy thuốc dùng trong một số trường hợp đặc biệt.
[15] Chữ phong 蜂 trong Phong môn nghĩa là con ong, cũng đồng âm với phong 风 nghĩa là gió.
[16] Trong Tướng thuật có “Thập tam hoàng” là các cách thức để dò hỏi, suy đoán lai lịch, giàu nghèo, nghề nghiệp của người ta.
[17] Lời trong vở Kinh kịch Ngọc đường xuân, kể về nàng kỹ nữ Tô Tam. Tô Tam yêu thương công tử Vương Cảnh Long, thề kết làm vợ chồng, nhưng khi Vương Cảnh Long tiêu hết tiền đã bị chủ chứa đuổi đi, Tô Tam thì bị bán làm thiếp cho một tay buôn ngựa họ Thẩm ở huyện Hồng Động. Vợ Thẩm tư thông với người khác đầu độc chết Thẩm rồi vu tội cho Tô Tam. Quan huyện ăn hối lộ, phán Tô Tam tử hình, cả huyện Hồng Động chẳng một ai đứng ra làm chứng bênh vực cho nàng, Tô Tam bi phẫn mới thốt lên: ‘‘Huyện Hồng Động chẳng có ai tử tế.” Về sau Tô Tam bị giải đến Thái Nguyên tam đường hội thẩm, quan chủ thẩm tình cờ lại là tuần án Vương Cảnh Long, Cảnh Long minh oan cho nàng, cuối cùng hai người Vương, Tô lại đoàn viên.
[18] Đàn/Đàm thối hay Đàm/Đàn thoái quyền, là căn bản võ thuật của miền Bắc Trung Hoa thịnh hành ở lưu vực sông Hoàng Hà.
[19] Nghĩa là râu, ria.
[20] Một chiếc lục lạc bằng đồng, là tiêu chí của các lang trung giang hồ, thể hiện mình là người hành nghề y, là đệ tử của Dược Vương. Tương truyền, khi Dược Vương Tôn Tư Mạc đi hái thuốc trong rừng thì gặp phải một con hổ bị thương trong miệng, nó há miệng ra nhờ Tôn Tư Mạc chữa cho. Ông bèn không ngại hiểm nguy, dùng chiếc vòng đồng kê vào miệng con hổ, rồi thò tay qua bên trong vòng, giúp hổ bôi thuốc vào vết thương. Sau này, chiếc vòng đồng được cải biến thành lục lạc đồng, trở thành một tiêu chí của nghề y Trung Quốc.
[21] Tầm 30 tuổi, trong sách Luận ngữ có viết: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc,…
[22] Tức Quan Công, một viên tướng nổi danh nhà Thục Hán, có tiếng trượng nghĩa.
[23] Từ chương này trở đi, Mã Vân trở lại gương mặt thật nên sẽ thay đổi cách xưng hô với Tiểu Lục.
[24] Chốn ở của bậc quan viên, nơi trú ngụ an toàn của khách thương.
[25] Hệ thống sông lớn nhất vùng Hoa Bắc.
[26] Từ chương này trở đi, sẽ xưng hô Mạnh Tiểu Lục bằng gã.
[27] Trong ba chuyện bất hiếu, thì không có con cái nối dõi là lớn nhất.
[28] Nghĩa là tê liệt, lơ là.
[29] Nghĩa là áo vải gai.
[30] Nghĩa là đèn bão.
[31] Nguyên văn: Hải nội tồn tri kỷ, thiên nhai nhược tì lân, là hai câu trong bài thơ “Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục Châu” của Vương Bột đời Đường. Bản dịch thơ của Lê Nguyễn Lưu.
[32] Một hình thức ca kịch dân gian của vùng Hà Nam, Trung Quốc.
[33] Nghĩa là bàn đạp yên ngựa.
[34] Thời Tống, Tần cối vu cho Nhạc Phi mưu phản. Hàn Thế Trung bất bình hỏi có chứng cứ gì không, Tần cối bèn nói, “Có lẽ có”, về sau từ này thường được dùng để chỉ sự bịa đặt vô căn cứ.
[35] Trong bài Gửi hiệu thư Tiết Đào ở đất Thục của Vương Kiến thời Đường có câu: Bên cầu Vạn Lý nữ hiệu thư, Nhà trồng tỳ bà, cửa cài then, về sau cụm từ “nữ hiệu thư” được dùng để chỉ kỹ nữ giỏi văn thơ.
[36] Mưu sĩ cho các bậc quan lại, vì người Thiệu Hưng làm sư gia tương đối nhiều, nên trở thành cách gọi chung luôn.
[37] Ở đây đang nói đến cuộc phân tranh giữa hai phe quân phiệt Trực hệ (Tào Khôn) và Hoàn hệ (Đoàn Kỳ Thụy) vào tháng 7 năm 1920 để giành quyền kiểm soát chính quyền Bắc Dương.
[38] Nguyên câu là Cẩu phú nhi kiêu, một câu trong chương Chư Ác của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, là kinh sách khuyến thiện của Đạo gia. Đại ý, kẻ phất lên mà kiêu ngạo, ấy là điềm tổn phước.
[39] Ý là sau mùa thu thì xử tử. Thời xưa ở Trung Quốc, có lệ là cứ sau tiết Sương giáng thì đem các tử tội ra chém đầu.
[40] Triển Tử Kiền (545-618): là một danh họa thời Tùy.