Chương V
TỪ những gì tôi tìm hiểu được, trường Trung học và Dạy nghề Sir Winston Churchill cũng y hệt như tất cả các trường cấp ba khác mà tôi từng học ở Mỹ.
Tôi dành trọn tiết học đầu tiên để lên thời khóa biểu cùng với tư vấn viên của trường, cô Ben, một người phụ nữ trẻ tốt bụng có giọng nói líu lo như chim mà số phận đã định sẵn là sẽ mặc chiếc áo cổ lọ rộng thùng thình và nuôi quá nhiều mèo.
Bây giờ, khi đứng trong sảnh, mọi cặp mắt đều đổ về chỗ tôi. Tôi là kẻ mới đến và lạ lẫm, nhưng đó không phải là điều duy nhất. Tất cả đám học sinh đều để ý đến nhau, bởi vì hôm nay là ngày khai giảng và bọn nó thèm biết đến chết được là bạn học của mình đã thay đổi ra sao trong suốt mùa hè. Trong tòa nhà này dễ có đến năm mươi kiểu thay đổi dáng vẻ bề ngoài và tạo hình mới được thử qua. Cô mọt sách èo uột đã nhuộm tóc thành màu trắng và đang đeo vòng cổ chó. Thằng nhóc gầy nhẳng trong đội điền kinh đã dành cả tháng Bảy và tháng Tám để nâng tạ và mua những chiếc áo thun bó chẽn.
Tuy nhiên, thường ánh mắt mọi nguời vẫn lưu lại chỗ tôi lâu hơn, bởi mặc dù tôi là người mới đến, tôi không đi lại giống người mới. Tôi gần như không nhìn vào các số phòng lướt qua mình. Dần dần rồi tôi cũng tìm được lớp học của mình, đúng không nào? Chẳng có lý do gì phải hoảng. Hơn nữa, tôi đã quá quen với chuyện này. Tôi đã chuyển tới mười hai trường cấp ba trong vòng ba năm qua. Và tôi đang bận tìm một thứ.
Tôi cần phải được kết nối vào vòng xã hội ở đây. Tôi cần người khác nói chuyện với mình, để thu được những câu trả lời cần thiết. Vì vậy mỗi khi chuyển trường, tôi luôn đi tìm cô ong chúa.
Trường học nào cũng có một cô. Đó là cô gái biết tất tật mọi chuyện và quen tất tật mọi người. Tôi có thể thử đánh bạn với tay chơi thể thao cừ nhất trường, tôi cho là thế, nhưng tôi có bao giờ giỏi các môn ấy đâu.
Cha và tôi không bao giờ xem hay chơi thể thao. Tôi có thể vật lộn với người chết cả ngày, nhưng bóng đá(1) lại làm tôi bất tỉnh nhân sự. Các cô gái thì ngược lại, luôn dễ kết bạn.
Tôi không biết chính xác vì sao lại thế. Chắc là kiểu rung cảm với người lạ và một cái nhìn trầm ngâm đặt đúng lúc. Hay là vì thứ gì đó đôi khi tôi vẫn bắt gặp trong gương, một lời gợi nhắc đến cha trên mặt tôi.
Hoặc có thể chỉ vì tôi cũng tương đối ưa nhìn. Thế nên tôi ngó quanh quất khắp sảnh cho đến khi cuối cùng cũng gặp được cô ấy, đang mỉm cười và được mọi người bu quanh.
Không còn nhầm lẫn gì nữa: ong chúa trong các trường học luôn xinh xắn, nhưng cô bạn này thì cực đẹp.
Cô ấy có mái tóc vàng dày dặn dài tới chín mươi phân và đôi môi màu đào chín. Ngay khi trông thấy tôi cô ấy đã hạ cằm xuống, một nụ cười dễ dãi nở trên mặt. Cô gái này là người đạt được mọi điều mình muốn tại trường Winston Churchill. Cô ấy là cục cưng của các giáo viên, nữ hoàng đêm vũ hội và trung tâm của tiệc tùng. Mọi điều tôi muốn biết, cô ấy có thể kể cho tôi nghe. Và đó chính xác là hy vọng của tôi.
Khi đi ngang qua, tôi giả bộ lờ tịt cô ấy. Vài giây sau cô ấy đã rời khỏi nhóm bạn mình và nhảy tới bên cạnh tôi.
“Chào. Mình chưa thấy bạn ở đây bao giờ.”
“Mới vừa chuyển tới thành phố này.”
Cô ấy lại cười. Cô ấy có hàm răng hoàn hảo và cặp mắt ấm áp màu chocolate. Cô ấy lập tức bị thuyết phục.
“Vậy thì bạn cần ai đó giúp làm quen rồi. Mình là Carmel Jones.”
“Theseus Cassio Lowood. Bố mẹ kiểu gì mà lại đặt tên con là Carmel thế?”
Cô ấy cười lớn. “Bố mẹ kiểu gì mà lại đặt tên con là Theseus Cassio?”
“Kiểu hippy”, tôi trả lời.
“Chính xác.”
Chúng tôi cùng cười với nhau, và không hẳn là tôi giả vờ. Carmel Jones sở hữu ngôi trường này. Tôi có thể nói vậy từ cách cô ấy đi đứng, giống như trong đời cô ấy chưa từng phải quy lụy lần nào. Tôi có thể nói vậy từ cách đám đông dạt ra như lũ chim tránh xa con mèo. Cùng lúc ấy, Carmel không hề có vẻ kiêu căng hay hống hách như những cô gái khác cùng địa vị. Tôi cho cô ấy xem thời khóa biểu của mình và cô ấy nhận thấy chúng tôi học chung tiết bốn môn Sinh học - và tốt hơn nữa -
có giờ ăn trưa trùng nhau. Khi cô ấy để tôi ở lại cửa lớp của tiết học thứ hai, cô ấy quay lưng và nháy mắt với tôi qua vai.
Ong Chúa chỉ là một phần của công việc. Đôi khi chuyện ấy thật khó nhớ.
***
G iờ ăn trưa, Carmel vẫy tay bảo tôi ngồi cạnh, nhưng tôi không ra đó ngay lập tức. Tôi không đến đây để hẹn hò với ai, và tôi không muốn làm cô ấy hiểu nhầm. Tuy nhiên, Carmel cực kỳ xinh xắn nên tôi phải tự nhủ là hào quang và đường đời nhàn nhã của cô ấy sẽ làm cô ấy nhàm chán không tin nổi. Cô ấy sống quá thiên về ánh sáng so với tôi. Thực ra mà nói, tất cả mọi người đều thế.
Bạn trông mong gì nào? Tôi chuyển chỗ ở liên tục và dành quá nhiều đêm trắng để giết chóc những thứ ma mãnh. Ai mà quen nổi với chuyện đó?
Tôi nhìn khắp lượt phòng ăn, để ý từng nhóm khác nhau và tự hỏi nhóm nào nhiều khả năng dẫn tôi tới chỗ Anna nhất. Bọn nhóc theo một gothic sẽ biết rõ câu chuyện nhất, nhưng chúng cũng là loại khó rẫy ra nhất.
Nếu chúng có chút ý tưởng nào về chuyện tôi nghiêm túc định giết con ma của chúng, chắc là tôi sẽ phải thực thi nhiệm vụ đó cùng với nguyên đám “kẻ viền mắt đen, mang thánh giá và khao khát trở thành Buffy người diệt Ma cà rồng” bám theo đuôi mất.
“Theseus!”
Chết tiệt, tôi quên không bảo Carmel gọi mình là Cas. Điều cuối cùng tôi cần là cái tên “Theseus” được truyền khẩu và dính lấy mình. Tôi rẽ đến chỗ bàn cô ấy, thấy rõ những cặp mắt mở to hơn trong lúc mình làm vậy. Khoảng trên dưới mười cô gái vừa mới phát triển mối quan tâm bất thường với tôi chỉ bởi vì họ thấy Carmel thích tôi. Hay đúng hơn là nhà xã hội học trong não tôi bảo vậy.
“Chào, Carmel.”
“Chào. Cậu thấy SWC thế nào?”
Tôi tự ghi nhớ là không bao giờ gọi trường này bằng cái tên “SWC”.
“Không tệ, nhờ công bạn dẫn đi thăm thú sáng nay. Nhân tiện, hầu hết mọi người đều gọi mình là Cas.”
“Caz?”
“Ừ. Nhưng âm ‘s’ nhẹ hơn. Ở đây các bạn ăn trưa món gì đấy?”
“Thường bọn mình ăn Pizza Hut ở đằng kia.” Cô ấy chỉ hướng chung chung bằng cách hất đầu và tôi quay lại, cũng nhìn chung chung về chỗ ấy. “Này Cas, sao cậu lại chuyển đến vịnh Thunder vậy?”
“Vì phong cảnh”, tôi nói và cười. “Thật ra, mình nói bạn cũng sẽ không tin đâu.”
“Thử xem”, cô ấy nói. Tôi chợt nghĩ lần nữa rằng cái cô Carmel Jones này biết chính xác cần làm gì để đạt được thứ mình muốn. Nhưng cô ấy cũng cho tôi cơ hội để hoàn toàn trung thực. Miệng tôi chực hình thành câu, Anna, mình đến đây vì Anna, thì cả một Đội quân Trojan tiến đến sau lưng chúng tôi trong bộ đồng phục của Đội đô vật trường Winston Churchill.
“Carmel”, một trong bọn nói. Không cần nhìn tôi cũng biết rằng mới gần đây cậu là bạn trai của Carmel, hoặc giờ vẫn còn là bạn trai. Chính từ cách cậu ta thốt ra tên cô ấy. Theo phản ứng của Carmel, với cái hất cằm và nhướng lông mày, tôi cho là vế đầu có vẻ đúng hơn.
“Tối nay cậu đi chơi không?”, cậu ta hỏi, hoàn toàn lờ tịt tôi. Tôi theo dõi cậu ta một cách buồn cười. Đang có chương trình giảm giá(2) các loại vai u thịt bắp ở lối đi số bốn đây.
“Tối nay có gì à?”, tôi hỏi.
“Tiệc Đỉnh cao Thế giới thường niên.” Carmel đảo mắt lên trời. “Một bữa tiệc bọn mình tổ chức không biết từ đời nào rồi, vào buổi tối ngày khai trường mỗi năm.”
À, không biết từ đời nào, hay ít nhất là từ khi Định luật vạn vật hấp dẫn được công bố.
“Nghe hay đấy”, tôi nói. Anh chàng Neanderthal đằng sau lưng tôi không thể bị lờ đi thêm nữa, nên tôi đưa tay ra và tự giới thiệu.
Chỉ có loại mạt nhất trong các loại mạt mới không chịu bắt tay tôi. Và tôi vừa mới gặp phải một gã như thế. Cậu ta gật đầu với tôi và nói, “Thế nào”. Cậu ta cũng không giới thiệu tên mình, nhưng Carmel nói hộ.
“Đây là Mike Andover.” Cô ấy chỉ vào đám bạn theo sau. “Và Chase Putnam, Simon Parry và Will Rosenberg.”
Tất cả đều gật đầu với tôi như lũ khốn chỉ trừ Will Rosenberg, cậu ta bắt tay tôi. Cậu ta là người duy nhất không tỏ ra chảnh chọe tuyệt đối. Cậu ta mặc chiếc áo khoác thể thao lỏng lẻo và so hai vai lại, như kiểu hơi xấu hổ về nó. Hay ít nhất là xấu hổ vì những kẻ đang mặc chung loại áo.
“Thế cậu có đi hay không nào?”
“Mình không biết”, Carmel trả lời. Cô ấy có vẻ bực. “Phải xem thế nào đã.”
“Khoảng mười giờ bọn mình sẽ có mặt ở chỗ thác nước”, cậu ta nói. “Cho mình biết nếu cậu cần đi nhờ.”
Khi cậu ta bỏ đi, Carmel thở dài.
“Bọn họ nói về cái gì đấy? Thác nước à?”, tôi hỏi, giả vờ quan tâm.
“Bữa tiệc được tổ chức ở Thác Kakabeka. Mỗi năm địa điểm đều thay đổi để đánh lạc hướng cảnh sát. Năm ngoái là ở Thác Trowbridge, nhưng tất cả mọi người đều hoảng lên khi...”, cô ngừng lời.
“Khi gì?”
“Không có gì. Chỉ là một đống chuyện ma nhảm ấy mà.”
Tôi có thể may đến thế ư? Thường thì phải lân la một tuần tôi mới có cơ hội thuận tiện nói đến chuyện ma ám này kia. Nó không chính xác là đề tài dễ khơi nhất mà.
“Mình mê chuyện ma lắm. Thực ra mình thèm nghe chuyện ma hay ho đến chết đi được.” Tôi chuyển tới ngồi đối diện với Carmel và vươn người trên hai khuỷu tay. “Và mình thật sự cần ai đó hướng dẫn đời sống ban đêm ở vịnh Thunder này.”
Cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi. “Bọn mình có thể đi xe của mình. Cậu ở phố nào?”
***
A i đó đang theo dõi tôi. Cảm giác ấy rõ rệt đến mức tôi cảm thấy như tròng mắt mình đang cố lộn ra đằng sau đầu để gạt tóc ra và nhìn từ gáy. Tôi quá kiêu hãnh nên không thèm quay lưng lại - tôi đã trải qua quá nhiều vụ ghê rợn nên không thể bị bất kỳ một con người nào dọa rõ. Cũng có khả năng mong manh là tôi chỉ đang tưởng tượng. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Đằng sau tôi chắc chắn có gì đấy, mà lại là một thứ đang còn thở, nên tôi thấy khó chịu. Người chết có những động cơ đơn giản hơn: thù hận, đau đớn hay lúng túng. Họ giết bạn bởi đó là điều duy nhất họ còn phải làm. Người sống thì luôn có nhu cầu, và bất kể ai đang theo dõi tôi, người đó cũng muốn cái gì đó từ tôi hoặc của tôi.
Việc ấy làm tôi lo lắng.
Tôi bướng bỉnh nhìn thẳng về phía trước, dừng lại nghỉ lâu hơn và chắc chắn chờ đủ tín hiệu đèn ở mỗi ngã tư. Nghĩ thầm trong bụng mình đúng là đồ ngốc nên mới trì hoãn việc mua xe ô tô mới, tự hỏi mình có thể la cà ở đâu vài tiếng để nghỉ ngơi và tránh bị theo về tận nhà. Tôi dừng bước và tháo cái ba lô da trên vai xuống, thò tay vào bên trong cho đến khi chạm vào lớp vảl lót con dao tế của mình. Việc này đang làm tôi cáu.
Tôi đi ngang qua một nghĩa trang, một nơi buồn bã thuộc giáo hội trưởng lão và không được chăm sóc tốt, các tấm bia bị đám hoa khô che mất còn ruy băng thì bị gió quật tả tơi lấm tấm bùn đất. Gần chỗ tôi là một tấm bia nằm trên mặt đất, gãy gục xuống và chết lặng y như người đang được chôn bên dưới nó. Tuy buồn bã như vậy nhưng nghĩa trang này cũng lặng lẽ và bất biến, chính điều đó làm tôi bình tĩnh lại một chút.
Có một người phụ nữ đang đứng ở giữa nghĩa trang, bà ta có vẻ góa bụa và già nua, nhìn chằm chằm xuống bia mộ của chồng mình. Chiếc áo khoác len bám cứng trên vai và dưới cằm bà ta là một cái khăn tay mỏng. Tôi mải mê nghĩ về người theo dõi mình đến mức phải mất một phút mới nhận ra rằng người đàn bà kia đang mặc áo khoác len giữa tháng Tám.
Cổ họng tôi siết lại hụt hơi. Bà ta quay đầu khi nghe tiếng ấy và dù từ khoảng cách này tôi vẫn có thể thấy bà ta chẳng còn đôi mắt nữa. Chỉ là hai cục đá xám chiếm vào chỗ từng là mắt, ấy vậy mà chúng tôi vẫn nhìn đăm đăm vào nhau, không chớp. Những nếp nhăn trên má bà ta sâu đến mức trông như được vẽ bằng bút dạ đen. Chắc bà ta cũng có một câu chuyện. Một hoàn cảnh éo le nào đó khiến mắt bà ta hóa đá và mang bà ta quay về đây, nhìn chằm chằm vào thứ mà lúc này tôi đoán là thân xác của chính bà ta. Nhưng ngay lúc này tôi đang bị theo dõi. Tôi không có thời gian cho bà ta.
Tôi mở ba lô và lôi con dao ra khỏi vỏ, cho người phụ nữ, kia thấy một chút xíu hào quang. Bà ta nhe răng và há miệng. Rồi bà ta lùi lại, từ từ chìm xuống mặt đất trong lúc gầm ghè và cảnh đó gây hiệu ứng như tôi đang trông thấy ai đó vẫy tay chào từ trong một buồng thang máy. Tôi không thấy sợ, chỉ thấy xấu hổ bẽ bàng vì phải mất thời gian đến thế mới phát hiện ra bà ta đã chết. Có thể bà ta sẽ cố dọa dẫm nếu tôi đến đủ gần, nhưng bà ta không phải loại hồn ma giết người. Nếu là người khác có khi tôi còn chẳng để ý đến bà ta. Nhưng tôi luôn nhạy trong những chuyện như thế này.
“Cả tôi cũng vậy.”
Tôi giật nảy người trước giọng nói vang lên ngay bên vai mình. Có một thằng nhóc đang đứng cạnh tôi, không biết từ lúc nào. Nó có mái tóc đen lởm chởm và đeo cặp kính viền đen, thân thể gày gò tong teo giấu bên dưới bộ quần áo không vừa vặn. Tôi cảm giác mặt nó quen quen. Nó gật đầu về phía nghĩa trang.
“Bà già đáng sợ hả?”, nó nói. “Đừng lo. Bà ta vô hại, có mặt ở đây ít nhất tuần ba lần. Và tôi chỉ đọc được tâm trí mỗi khi ai đó cố tập trung suy nghĩ về một vấn đề gì đó.” Nó cười nửa miệng. “Nhưng tôi cảm giác là lúc nào cậu cũng suy nghĩ rất tập trung.”
Tôi nghe tiếng thụp ở đâu đó gần đấy và nhận ra mình vừa mới thả rơi con dao tế. Tiếng thụp mà tôi nghe được là âm thanh nó chạm phải đáy ba lô của tôi.
Tôi biết thằng nhóc này chính là người đã đi theo mình, và thật nhẹ cả lòng khi đoán đúng. Cùng lúc đó, tôi cũng thấy chuyện ngoại cảm của nó gây khó chịu.
Tôi từng quen biết nhiều nhà ngoại cảm. Một số bạn bè của cha tôi cũng có thể ngoại cảm theo các mức độ khác nhau. Cha nói việc ấy rất hữu dụng. Tôi thì nghĩ chuyện đó ghê chết được. Lần đầu tiên đi gặp một người bạn của cha tên Jackson, mà bây giờ tôi khá yêu quý, tôi đã dùng giấy nhôm bọc bên trong mũ lười trai của mình. Sao nào? Lúc ấy tôi năm tuổi. Tôi tưởng là cách đó có tác dụng. Nhưng ngay lúc này tôi làm gì có mũ mão hay giấy nhôm gì, nên tôi cố nghĩ ngợi dịu đi... dù nó có nghĩa quái gì đi nữa.
“Cậu là ai?”, tôi hỏi. “Sao lại đi theo tôi?”
Và rồi tôi biết. Nó chính là người đã phím cho Daisy. Một thằng nhóc có khả năng ngoại cảm muốn được góp phần vào hành động. Còn không phải thế thì sao mà nó biết để đi theo tôi được? Làm sao nó biết tôi là ai? Nó đang chờ.
Phục sẵn khi tôi tới trường, giống như một con rắn gớm ghiếc nằm trong cỏ.
“Muốn ăn gì không? Tôi đói chết rồi. Tôi đã đi theo cậu từ lâu. Xe của tôi ở ngay trên phố kia.” Nó quay người bước đi hai ống quần bò rách rưới quệt xuống vỉa hè thành những tiếng loẹt xoẹt nhỏ. Cách đi của nó chẳng khác nào một chú chó bị đá, đầu cúi thấp và hai tay thọc sâu vào túi.
Tôi không biết nó kiếm cái áo khoác màu xanh bụi bặm kia ở chỗ nào, nhưng tôi nghi nó là hàng tôn dư từ cửa hàng đồ quân dụng mà tôi vừa đi qua cách đây mấy dãy nhà.
“Tôi sẽ giải thích mọi chuyện khi chúng ta tới nơi”, nó nói qua vai. “Đi nào.”
Tôi không biết tại sao mình lại đi theo, nhưng tôi vẫn đi.
***
T hằng nhóc lái một chiếc Ford Tempo. Nó mang tới sáu tông màu xám khác nhau và phát ra tiếng như một đứa trẻ giận dỗi đang giả vờ lái thuyền máy trong bồn tắm vậy. Chỗ nó đưa tôi đến là một cái quán nhỏ xíu tên The Sushi Bowl, trông bên ngoài thì đến là xập xệ nhưng bên trong không đến nỗi tệ lắm.
Cô bồi bàn hỏi chúng tôi muốn ngồi theo kiểu thường hay truyền thống. Tôi liếc quanh và thấy vài chiếc bàn thấp kèm chiếu và gối ngồi đặt sẵn.
“Thường”, tôi nói nhanh trước khi Nhóc Ngoại Cảm Mặc Đồ Quân Dụng kịp chen vào. Tôi chưa bao giờ ăn trong tư thế đặt đồ ăn trên đầu gối bao giờ, và ngay lúc này, tôi mong mình không có vẻ ngoàl lúng túng y như trong nội tâm.
Sau khi tôi kể với thằng nhóc là tôi chưa từng ăn sushi bao giờ, nó gọi món đó cho chúng tôi, nhưng việc ấy chẳng giúp cho tôi cảm thấy bớt mất phương hướng chút nào. Cứ như tôi đang bị kẹt trong những giấc mơ tự ý thức khi bạn vừa dõi theo mình làm những trò ngu ngốc, vừa gào thét bảo bản thân dừng lại, nhưng cái bản thể trong mơ của bạn lại vẫn cứ làm như thế.
Thằng nhóc ngồi bên kia bàn đang cười như ngố. “Hôm nay tôi trông thấy cậu với Carmel Jones”, nó nói.
“Cậu chẳng phí hoài thời gian nhỉ.”
“Cậu muốn gì?”, tôi hỏi.
“Chỉ muốn giúp thôi.”
“Tôi không cần ai giúp.”
“Cậu cần rồi đấy thôi.” Nó thụp người xuống thấp hơn khi thức ăn được đưa đến, với hai chiếc đĩa chứa những cuộn tròn kỳ bí, một cái chiên giòn còn cái kia thì phủ những hạt màu cam nhỏ tí. Thử đi”, nó nói.
“Cái gì đây?”
“Sushi Philadelphia.”
Tôi nhìn cái đĩa nghi ngờ. “Thế cái màu cam này là gì?”
“Bào tử cá tuyết.”
“Bào tử cá tuyết là cái quỷ gì?”
“Trứng cá.”
“Không, cảm ơn.” Tôi mừng vì có một hàng McDonald ngay bên kia phố.
Trứng cá. Thằng nhóc này là đứa quái nào thế?
“Tôi là Thomas Sabin.”
“Đừng làm vậy nữa.”
“Xin lỗi”, nó cười toe toét. “Chỉ có điều đôi lúc đọc cậu dễ quá. Tôi biết thế là thô lỗ. Và thực sự thì không phải lúc nào tôi cũng làm được vậy.” Nó nhét trọn một cuộn cái thứ bọc trong trứng cá sống vào miệng. Tôi cố không hít thở trong lúc nó nhai. “Nhưng hôm nay tôi đã giúp cậu rồi đấy. Đội quân Trojan, nhớ không? Khi mấy thằng kia đến sau lưng cậu. Cậu nghĩ ai đã gửi cho cậu ý nghĩ? Tôi đã nhét nó vào đầu cậu. Không có chi.”
Đội quân Trojan. Đó là cụm từ tôi đã nghĩ tới khi Mike và đồng bọn đến sau lưng mình lúc ăn trưa. Nhưng giờ khi nghĩ lại tôi không chắc vì sao mình có ý nghĩ ấy. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy chúng qua khóe mắt thôi mà. Đội quân Trojan. Thằng nhóc đã nhét ý nghĩ ấy vào đầu tôi rất trơn tru, giống như thả một tờ giấy ở nơi dễ nhận thấy.
Giờ nó lại đang lải nhải về chuyện không dễ dàng gì khi gửi đi những thông điệp như thế, rằng nó đã bị chảy máu cam khi làm vậy. Nghe cứ như nó tưởng mình là thần hộ mệnh bé nhỏ của tôi hay sao ấy.
“Tôi phải cảm ơn cậu vì cái gì? Dí dỏm chắc? Cậu chèn những đánh giá cá nhân của mình vào đầu tôi. Giờ tôi sẽ phải băn khoăn liệu mình nghĩ mấy thằng đó là lũ chảnh chọe vì thực sự mình nghĩ vậy, hay chỉ vì cậu nghĩ vậy trước.”
“Tin tôi đi, cậu sẽ đồng tình. Mà cậu thực sự không nên nói chuyện với Carmel Jones. Ít nhất là chưa. Cô ấy vừa mới chia tay Mike Andover Đầu đất tuần truớc thôi. Mà nó thì nổi tiếng với việc đâm bừa vào người khác chỉ vì người ta dám liếc mắt đưa tình với Carmel khi cô nàng ngồi trên xe nó.”
Tôi không thích thằng nhóc này. Nó quá táo bạo. Thế nhưng nó trung thực và chỉ có ý tốt, khiến tôi mủi lòng. Nếu nó mà nghe được những gì tôi đang nghĩ thì tôi sẽ rạch hết lốp xe nó.
“Tôi không cần ai giúp”, tôi nói. Tôi ước gì mình không phải nhìn nó ăn nữa.
Nhưng cái món chiên giòn kia trông không đến nỗi tệ, mùi cũng ổn.
“Tôi thì nghĩ là cậu cần. Cậu đã thấy là tôi hơi lạ rồi phải không. Cậu đã chuyển đến đây được... mười bảy ngày rồi nhỉ?”
Tôi đờ đẫn gật đầu. Chính xác là mười bảy ngày trước chúng tôi đã lái xe vào vịnh Thunder. Tôi cố giữ các suy nghĩ của mình ở mức độ tối thiểu. Từ những gì tôi biết, có khi cái câu thực sự không phải lúc nào tôi cũng làm được thế của nó chỉ là bốc phét.
“Tôi nghĩ vậy. Trong suốt mười bảy ngày qua tôi đã bị một trận đau đầu kiểu tâm linh khủng khiếp nhất.
Chính là loại làm co giật đầu dây thần kinh và ở mãi trong hốc mắt trái của tôi ấy. Làm cho mọi thứ đều mặn như muối. Chỉ đến lúc này, khi chúng ta nói chuyện với nhau thì tôi mới hết bị đau.” Nó lau miệng, đột nhiên trở nên nghiêm túc. “Nghe thì rất khó tin nhưng cậu phải tin thôi. Tôi chỉ bị đau như thế mỗi khi có việc tồi tệ sắp xảy ra. Và chưa bao giờ tôi đau đến mức này.”
Tôi dựa người ra sau và thở dài. “Thế cậu nghĩ cậu sẽ giúp tôi thế nào? Cậu tưởng tôi là ai?” Chắc chắn tôi biết những câu trả lời cho các câu hỏi này rồi, nhưng kiểm tra chéo thì cũng chẳng hại gì. Hơn nữa, tôi cảm thấy hoàn toàn ở thế bất lợi khi rời xa môi trường của mình. Tôi sẽ cảm thấy khá hơn nếu có thể ngưng cái kiểu nói chuyện nội tâm một chiều khó chịu này. Có lẽ tôi nên nói to lên mọi chuyện. Hoặc không ngừng nghĩ đến những hình ảnh này: chú mèo con chơi với quả bóng len, xe bán hotdog ở góc phố, xe bán hotdog giữ con mèo.
Thomas lau khóe miệng bằng khăn của nó. “Vật cậu có trong túi kia đúng là đã đời đấy”, nó nói. “Bà già Mắt Đá có vẻ bị ấn tượng với nó.” Nó khép hai chiếc đũa của mình lại với nhau và gắp lên một cuộn chiên giòn, rồi nhét tất cả vào miệng. Nó vừa nhai vừa nói, và tôi ước gì nó đừng làm vậy. “Nên tôi nghĩ cậu là một thầy trừ tà. Và tôi biết cậu tới đây vì Anna.”
Có lẽ tôi nên hỏi nó biết những gì. Nhưng tôi không hỏi. Tôi không muốn nói chuyện với nó nữa. Nó đã biết quá nhiều điều về tôi rồi.
Daisy Bristol chết giẫm. Tôi sẽ cho anh ta một trận vì vứt tôi đến đây, nơi đã có một ông đồng ngồi chờ sẵn và thậm chí còn không thèm báo trước cho tôi lấy một tiếng.
Nhìn vào Thomas Sabin lúc này, tôi thấy một nụ cười mỉa khá tự mãn trên khuôn mặt nhợt nhạt của nó. Nó đẩy gọng kính lên cao trong một cử chỉ quá nhanh và dễ dàng đến mức tôi biết nó thường xuyên làm vậy.
Đôi mắt xanh quỷ quyệt kia tràn đầy tự tin; nó không bao giờ tin rằng linh cảm của mình sai cả.
Và ai mà biết được nó có thể đọc bao nhiêu điều từ tâm trí tôi.
Tôi bốc đồng nhặt một cuộn chiên giòn có cá tươi lên khỏi đĩa và nhét nó vào miệng. Trong đó có một loại sốt mằn mặt ngòn ngọt. Nó ngon bất ngờ, đậm đà và đầy đặn. Nhưng tôi vẫn không chạm vào đám trứng cá. Tôi chịu thế là đủ rồi. Nếu không thể làm cho thằng nhóc tin tôi không phải người như nó vừa nói, ít nhất tôi cũng phải triệt tiêu lòng tự mãn của nó và đuổi nó cuốn xéo.
Tôi nhíu cặp lông mày ra chiều khó hiểu.
“Anna nào cơ?”, tôi nói.
Nó chớp mắt và khi nó bắt đầu lắp bắp tôi liền vươn người tới trước. “Tôi muốn cậu nghe tôi nói cho kỹ đây, Thomas”, tôi nói. “Tôi biết ơn tin tức cậu cho. Nhưng chẳng có đoàn kỵ binh nào hết, và tôi không tuyển mộ. Cậu có hiểu không?” Và rồi trước khi thằng nhóc kịp phản đối, tôi đã nghĩ thật tập trung, về tất cả nhũng công việc rùng rợn mình từng làm, vô số những cách đổ máu, bốc cháy và vặn vẹo mà tôi từng trông thấy. Tôi cho nó xem hình ảnh cặp mắt của Peter Carver nổ banh trong tròng. Tôi cho nó xem Kẻ vẫy xe của Hạt 12 đang rỉ ra chất lỏng màu đen, lớp da bị kéo toạc ra khỏi xương khớp anh ta.
Cứ như tôi vừa tống thẳng một cú vào mặt Thomas. Đầu nó thực sự đã bật ngửa ra sau, mồ hôi lập tức vã ra trên trán và trên viền môi nó. Nó nuốt khan, cục yết hầu đưa lên đưa xuống. Tôi nghĩ có khi thằng bé tội nghiệp sắp phun chỗ sushi của nó ra đến nơi rồi.
Nó không phản đối khi tôi gọi thanh toán.
Chú thích:
(1) Nguyên văn: “touch football”, một môn bóng đá được chơi phổ biến ở Mỹ và Canada.
(2) Nguyên văn “blue light special”: Một khu vực riêng tại chuỗi siêu thị Kmart trưng bày các mặt hàng giảm giá.