Chương VI
TÔI để cho Thomas lái xe đưa mình về nhà. Sau khi tôi bớt phòng bị, thằng nhóc không còn làm tôi khó chịu nhiều nữa. Trên đường bước lên bậc thềm nhà, tôi nghe tiếng nó kéo kính cửa xe xuống và lúng túng hỏi xem tôi có tới bữa tiệc Đỉnh cao Thế giới hay không. Tôi không nói gì. Nhìn thấy những hồn ma kia đã làm thằng bé bị chấn động kha khá. Mỗi lúc tôi lại thấy nó giống một đứa trẻ cô đơn hơn, và tôi không muốn phải bảo nó tránh xa mình lần nữa. Hơn nữa, nếu nó có ngoại cảm thật sự thì đáng lẽ không cần phải hỏi.
Khi bước vào nhà, tôi đặt túi trên bàn bếp. Mẹ đã có mặt ở đó, đang cắt thảo dược cho bữa tối, hoặc cho một trong những câu thần chú đa dạng của bà. Tôi trông thấy lá dâu tây và quế. Hoặc đó là nguyên liệu cho một món bùa tình yêu hoặc là các thứ chuẩn bị cho bánh tart. Dạ dày tôi kêu ọt ọt, thế nên tôi đi thẳng đến tủ lạnh để làm một cái bánh sandwich.
“Này. Bữa tối sẽ sẵn sàng trong một tiếng nữa.”
“Con biết, nhưng bây giờ con đói rồi. Chàng trai đang đến tuổi lớn mà.” Tôi lấy mayonnaise, phô mai Colby Jack và xúc xích ăn liền ra. Trong lúc đưa tay ra lấy bánh mỳ, tôi nghĩ về mọi thứ cần làm trong tối nay. Con dao tế đã sạch, nhưng việc ấy không thành vấn đề. Tôi không trông đợi sẽ nhìn thấy thứ gì đã chết, bất chấp mọi lời đồn thổi ở trường học. Tôi chưa bao giờ nghe nói một con ma tấn công nhóm nào đông hơn mười người. Những chuyện kiểu ấy chỉ có trong các bộ phim kinh dị thôi.
Tối nay chủ yếu là để nghe ngóng tin tức. Tôi muốn nghe câu chuyện của Anna. Tôi muốn làm quen với những người có thể dẫn tôi tới chỗ cô ta. Trong tất cả những điều Daisy kể với tôi - nào là tên họ, tuổi tác của cô ta - anh ta không thể cho tôi biết cô ta ám chỗ nào. Tất cả những gì anh ta biết là đó chính là nhà cũ của cô ta.
Tất nhiên tôi có thể tới thư viện địa phương và tìm địa chỉ nhà của gia đình Konov. Một chuyện giống như vụ án mạng của Anna chắc hẳn phải được lên báo. Nhưng thế thì vui quái gì? Đây là phần yêu thích của tôi trong cuộc săn.
Tìm hiểu về họ. Nghe các truyền thuyết của họ. Tôi muốn họ choán hết tâm trí mình chừng nào có thể, và khi gặp họ tôi không muốn bị thất vọng.
“Ngày hôm nay của mẹ thế nào ạ?”
“Tốt”, mẹ nói trong lúc cúi người trên thớt. “Chắc mẹ phải gọi người diệt chuột bọ thôi. Mẹ đang cất một thùng Tupperware(1) trên gác mái thì thấy một cái đuôi chuột biến mất đằng sau miếng ván ốp tường.” Mẹ rùng mình và tặc lưỡi ghê tởm.
“Sao mẹ không để cho Tybalt lên đó? Mèo là để làm việc ấy mà. Bắt chuột bọ ấy.”
Mặt mẹ thất sắc. “Khiếp. Mẹ không muốn nó bị nhiễm giun sán khi nhai mấy con chuột bẩn thỉu ấy đâu.
Mẹ chỉ cần gọi một người chuyên diệt chuột là được. Hoặc con lên đó đặt bẫy xem.”
“Chắc chắn rồi”, tôi nói. “Nhưng không phải tối nay ạ. Tối nay con có hẹn.”
“Hẹn à? Với ai?”
“Carmel Jones.” Tôi mỉm cười và lắc đầu. “Là vì công việc. Có một bữa tiệc ở công viên có thác nước nào đấy đêm nay và con sẽ thu được một ít thông tin hữu ích.”
Mẹ thở dài và quay lại với việc cắt gọt. “Con bé có xinh không?”
Như mọi khi, mẹ lại chú tâm vào phần không quan trọng của tin tức.
“Mẹ không thích ý tưởng con lúc nào cũng lợi dụng các cô bé ấy.”
Tôi cười lớn và nhảy lên bệ bếp để ngồi cạnh mẹ. Tôi ăn vụng một quả dâu tây. “Mẹ làm cho việc ấy nghe bẩn tính quá.”
“Lợi dụng vì mục đích cao cả thì vẫn là lợi dụng mà thôi.”
“Con đã bao giờ làm tan vỡ trái tim nào đâu mẹ.”
Mẹ lè lưỡi. “Con cũng chưa bao giờ phải lòng ai, Cas.”
Một cuộc thảo luận về tình yêu với mẹ tôi còn tệ hơn cả các câu chuyện liên quan đến chim chóc và ong bướm, vì vậy tôi lẩm bẩm linh tinh trong lúc ăn sandwich và chuồn ra khỏi bếp. Tôi không thích cái ẩn ý là tôi sẽ làm tổn thương ai đó. Chẳng lẽ mẹ nghĩ tôi không cẩn thận sao? Chẳng lẽ mẹ không biết tôi phải vất vả thế nào để ngăn mọi người lại gần mình? Tôi nhai nhồm nhoàm và cố không kích động. Mẹ chỉ đang làm thiên chức của mẹ. Tuy nhiên, biết bao năm tôi không mang một người bạn nào về nhà, hẳn mẹ phải hiểu ra rồi chứ?
Nhưng giờ không phải lúc nghĩ về chuyện này. Tôi đâu cần thêm những chuyện phức tạp thế. Tôi chắc chắn vào lúc nào đó rồi nó cũng xảy ra thôi. Hoặc có thể không. Bởi vì không ai đáng phải dính vào mớ bòng bong này, còn tôi thì lại không tưởng tượng được có ngày mình xong việc. Lúc nào cũng sẽ có thêm người chết, mà người chết thì luôn giết chóc.
«
« «
Carmel đến đón tôi sau chín giờ. Trông cô ấy rất tuyệt trong chiếc áo dây màu hồng và váy kaki ngắn. Mái tóc vàng của cô ấy được thả nhẹ giữa hai bờ vai. Tôi nên mỉm cười. Tôi nên nói điều gì đó tử tế, nhưng tôi thấy mình đang kìm lại. Những lời của mẹ đang chen vào công việc của tôi. Carmel lái một chiếc Audi màu bạc mới vài năm tuổi và nó ôm lấy những đường rẽ trong lúc chúng tôi đi nhanh qua một loạt những biển chỉ đường kỳ lạ trông như áo thun của Charlie Brown, trong đó còn có những biển cảnh tỉnh rằng một con nai sừng tấm rất có thể sẽ tấn công xe bạn. Trời sắp tối và ánh sáng chuyển sang màu cam; độ ẩm trong không khí tan dần và gió mạnh lên như một bàn tay táp vào mặt tôi. Tôi muốn thò hẳn mặt ra ngoài cửa xe như một chú chó. Trong lúc chúng tôi bỏ lại thành phố phía sau, tai tôi căng ra, lắng nghe cô ta - Anna ấy -
và tự hỏi liệu cô ta có cảm nhận được tôi đang đi xa không.
Tôi có thể cảm thấy cô ta ở đó, hòa lẫn vào đống bùn của hàng trăm hồn ma khác, một số chỉ rậm rịch và vô hại, một số khác thì ngập tràn giận dữ. Tôi không thể tưởng tượng ra chết là như thế nào; nó là một ý tưởng lạ lẫm với tôi sau khi đã biết đến vô vàn con ma. Nó vẫn là một điều bí ẩn. Tôi không hiểu rõ tại sao một số người còn lưu lại trong khi số khác thì không. Tôi tự hỏi những người đi hẳn thì đi đâu. Tôi tự thỏi những kẻ bị tôi giết có tới cùng chỗ đó không.
Carmel đang hỏi tôi về các lớp học và về trường cũ. Tôi thảy ra vài câu trả lời sơ sài. Phong cảnh đang biến đổi thành vùng nông thôn, chúng tôi đi qua một thị trấn mà phân nửa số tòa nhà đã bị mốc meo và đang sập dần. Trong sân có xe cộ nhưng chúng phủ một lớp bụi dày. Nó nhắc tôi nhớ tới những nơi mà mình từng đến và tôi chợt nhận ra mình đã đi qua nhiều nơi quá rồi; chắc chẳng còn gì để gọi là mới mẻ nữa.
“Cậu biết uống rượu đúng không?”, Carmel hỏi tôi.
“Có chứ”, thực ra là không. Tôi chưa bao giờ có cơ hội hình thành thói quen đó.
“Ngon lành. Lúc nào cũng có bia chai, nhưng thường thì ai đó luôn có một thùng bia hơi ở đằng sau xe tải.” Cô ấy bấm đèn xi nhan và rời khỏi đường chính để vào công viên. Tôi có thể nghe thấy tiếng thác nước đâu đó đằng sau rặng cây. Chuyến đi rất nhanh; tôi không chú ý đến nó lắm. Tôi còn mải bận nghĩ về người chết, và về một cô gái cụ thể, người đang mặc chiếc váy xinh đẹp vấy đầy máu của chính mình.
***
Bữa tiệc này cũng diễn tiến như tất cả các bữa tiệc khác. Tôi được giới thiệu với một loạt những khuôn mặt mà sau đó phải cố ghép vào những cái tên, nhưng không nhớ. Bọn con gái thì luôn cười khúc khích và háo hức gây ấn tượng với những người dự tiệc khác. Bọn con trai tụ tập thành nhóm với nhau và để lại phần lớn não của chúng trên xe ô tô. Tôi gắng gượng được hai chai bia; chai thứ ba thì tôi đã cầm gần như một tiếng đồng hồ rồi. Khá là nhàm chán.
Đỉnh cao Thế giới chẳng mang lại cảm giác đỉnh của cái gì cả, trừ khi bạn nghĩ theo nghĩa đen hoàn toàn.
Tất cả chúng tôi tụ tập dọc theo hai bên bờ của thác nước, cả đống người đứng chứng kiến dòng nước màu nâu đổ ầm ầm xuống những tảng đá đen. Thực ra cũng chẳng có nhiều nước cho lắm. Tôi nghe thấy ai đó nói rằng mùa hè năm nay khá khô hạn. Tuy nhiên những rãnh đá do nước tạo ra qua nhiều năm rất ấn tượng, dốc đứng ở cả hai bên, còn ở chính giữa thác nước có một nền đá cao chới với mà tôi rất muốn được trèo thử nếu đang mang đôi giày thích hợp hơn.
Tôi muốn rủ Carmel đi riêng, nhưng từ lúc chúng tôi tới nơl, Mike Andover đã tận dụng mọi cơ hội để chen ngang cô ấy và cố lườm tôi mãnh liệt tới mức cứ như muốn tôi bị thôi miên vậy. Mỗi lần chúng tôi xua được cậu ta đi thì bạn của Carmel là Natalie hoặc Katie lại xuất hiện, nhìn tôi chờ đợi. Thậm chí tôi còn không biết cô nào là cô nào - cả hai đều có mái tóc nâu và đường nét giống nhau kinh khủng, tới tận những cái cặp tóc. Tôi thấy mình cười rất nhiều và bị thôi thúc phải tỏ ra thông minh, dí dỏm một cách kỳ lạ. Áp lực ấy thúc ép hai thái dương tôi. Mỗi lần tôi nói gì đấy là họ lại cười khúc khích, nhìn nhau như để xin phép được cười phá lên và nhìn trở lại tôi, chờ câu nói hài hước tiếp theo của tôi. Chúa ơi, người sống thật là phiền hà.
Rốt cuộc một cô gái có tên Wendy bắt đầu nôn ọe ở một bên hàng rào và đám đông bị phân tâm đủ cho tôi kéo tay Carmel và dẫn cô ấy đi theo mình trên lối đi lát gỗ. Tôi muốn đi sang hẳn phía bên kia nhưng khi chúng tôi đến đoạn giữa và nhìn chằm chằm xuống chỗ thác đổ, cô ấy đã dừng bước.
“Cậu vui không?”, cô ấy hỏi và tôi gật đầu. “Ai cũng thích cậu.”
Tôi không thể tưởng tượng là tại sao. Tôi chẳng nói được một điều gì thú vị.
Tôi không nghĩ tôi có gì thú vị, trừ điều tôi chẳng kể cho ai.
“Có khi tất cả mọi người đều thích mình là vì họ đều thích bạn”, tôi châm chọc và kỳ vọng cô ấy sẽ cười cợt hay nói rằng tôi phỉnh nịnh, nhưng Carmel không nói. Thay vào đó cô chỉ gật đầu lặng lẽ ra chiều tôi đã nói đúng. Cô ấy thông minh và có ý thức về bản thân. Tôi tự hỏi sao cô ấy lại hẹn hò với loại như Mike. Hay bất kỳ ai trong Đội quân Trojan.
Nghĩ về đội quân ấy lại khiến tôi nghĩ tới Thomas Sabin. Tôi tưởng nó sẽ ở đây, lẩn lút quanh các gốc cây, bám sát từng động thái của tôi như một gã si tình... chà, một thằng nhóc học sinh si tình mới đúng, nhưng tôi lại không gặp nó. Sau một loạt những màn đối thoại hời hợt tối nay, tôi hơi tiếc vì không thấy nó.
“Bạn định kể cho mình nghe về bọn ma”, tôi nói. Carmel chớp mắt với tôi rồi nhoẻn cười.
“Đúng rồi.” Cô ấy hắng giọng và cố hết sức để mào đầu, vẽ ra các chi tiết tỉ mỉ về bữa tiệc năm ngoái: ai đã tới, họ làm gì, tại sao lại đi với người này hay người kia. Tôi đoán cô ấy muốn tôi hiểu toàn cảnh bức tranh thực tế. Tôi cho là cũng có người cần như vậy. Cá nhân tôi là loại chỉ thích tự mình điền vào các chỗ trống. Như thế sẽ tốt hơn là thực tế đã diễn ra.
Cuối cùng cô ấy cũng nói tới đoạn tăm tối, câu chuyện do những đứa trẻ say sưa và không đáng tin cậy kể lại, và tôi còn nghe được kiểu buôn chuyện đến phiên bản thứ mấy sau câu chuyện được kể tối hôm đó nữa. Về những người đi bơi và leo núi đã chết ở Thác Trowbridge, nơi sự kiện diễn ra năm ngoái. Về chuyện các hồn ma thích diễn lại đúng tai nạn của họ với các bạn, và không chỉ có một nạn nhân của cú đẩy vô hình khiến họ phải ngã ra khỏi gờ đá, hay một bàn tay vô hình kéo họ xuống con sóng. Phần đó thì tôi dỏng tai lên lắng nghe.
Từ những gì tôi hiểu biết về các hồn ma, chuyện này rất có khả năng là sự thật.
Nhìn chung, họ thích đẩy những chuyện xấu xảy ra với mình cho người khác.
Lấy ví dụ như anh chàng vẫy xe đi nhờ nọ.
“Rồi Tony Gibney và Susanna Norman vừa chạy từ trên đường mòn xuống vừa gào thét, bảo rằng họ bị một cái gì đó tấn công trong lúc đang âu yếm nhau.” Carmel lắc đầu. “Lúc ấy đã rất muộn rồi và nhiều người trong bọn mình bắt đầu hoảng, thế nên bọn mình chạy vào xe và chuồn. Mình ngồi cùng Mike và Chase, Will lái xe. Lúc bọn mình ra khỏi công viên có thứ gì đó nhảy chồm ra trước mặt bọn mình. Mình vẫn không biết nó chui từ đâu ra, có phải nó chạy từ trên đồi xuống, hay trèo trên cây. Trông nó giống một con báo sư tử to sụ và lông lá hoặc đại loại thế. Will đạp phanh và thứ đó cứ đứng trơ ra một giây.
Mình nghĩ nó sắp nhảy lên mui xe và mình thề là mình sẽ hét tướng lên. Nhưng thay vào đó nó chỉ nhe răng và rít lên, rồi...”
“Rồi?” Tôi thúc giục, vì biết là mình nên làm như thế.
“Rồi nó chạy ra khỏi chỗ đèn pha của bọn mình, đứng trên hai chân và bỏ vào rừng.”
Tôi bắt đầu cười phá lên còn cô ấy thì đâm vào cánh tay tôi. “Mình kể chuyện này chẳng hay gì cả”, cô ấy nói, nhưng cô ấy cũng đang cố để không cười. “Mike kể hay hơn nhiều.”
“Ừ, chắc là cậu ta sẽ văng tục bừa bãi và dùng cả đống cử chỉ bằng tay.”
“Carmel.”
Tối quay ra và lại thấy Mike đứng đó, cùng Chase và Will ở hai bên, cậu ta thốt ra cái tên Carmel cứ như bắn từ một cái mạng nhện dính dấp. Thật kỳ lạ khi tên ai đó có thể dùng như một loại nhãn hiệu riêng gắn cho người khác.
“Có gì buồn cười thế?”, Chase hỏi. Cậu ta dí thuốc lá vào hàng rào rồi đút đầu mẩu vào hộp thuốc. Tôi thấy hơi tởm, nhưng ấn tượng với ý thức giữ gìn môi trường của cậu ta.
“Không có gì”, tôi trả Carmel vừa mới dành hai mươi phút để kể cho tôi nghe chuyện năm ngoái các cậu gặp Sasquatch(2) như thế nào.”
Mike mỉm cười. Có gì đó khang khác. Điều gì đủ kỳ quái và tôi không nghĩ đó chỉ là vì cả bọn vừa mới uống rượu. “Chuyện thật như quỷ đấy”, cậu ta nói, và tôi nhận ra điều khác biệt lúc này chính là cậu ta đang thân thiện với tôi. Cậu ta nhìn tôi thay vì nhìn Carmel. Tôi không hề tin điều đó lấy một giây. Cậu ta chỉ đang thử chiêu mới. Cậu ta muốn gì đó, hay tệ hơn, cậu ta đang định thử làm gì đó với tôi.
Tôi lắng nghe Mike kể lại câu chuyện y hệt như Carmel vừa kể xong, lần này thêm một đống câu chửi thề và cử chỉ tay. Hai phiên bản giống nhau đáng ngạc nhiên, nhưng tôi không biết như thế tức là nó chính xác, hay chỉ vì họ đã cùng kể một chuyện nhiều lần rồi. Khi Mike nói xong, cậu ta hơi lảo đảo trên hai chân, kiểu như mất phương hướng.
“Vậy là cậu thích nghe chuyện ma?”, Will Rosenberg hỏi để lấp đầy chỗ trống.
“Mê mệt”, tôi nói, đứng hơi thẳng lên. Một ngọn gió nồm thổi từ mặt nước lên khắp các hướng và chiếc áo thun màu đen của tôi bắt đầu bám dính lấy người, làm tôi thấy lạnh. “Ít nhất cũng là những chuyện không kết thúc kiểu một gã. Người tuyết giống mèo nào đó băng qua đường nhưng không thèm tấn công một ai.”
Will cười lớn. “Tôi hiểu. Những câu chuyện kiểu đó nên chốt hạ bằng câu ‘một chú mèo con chẳng bao giờ hại ai’. Tôi đã bảo họ thêm vào nhưng không ai chịu nghe.”
Tôi cũng cười, cho dù nghe tiếng Carmel đang lẩm bẩm trên vai mình “nghe tởm chết đi được”. Ô la la.
Tôi thích Will Rosenberg. Cậu ta thực sự có đầu óc.
Tất nhiên, điều đó làm cậu ta thành gã nguy hiểm nhất bọn. Từ cách Mike đang đứng, tôi biết cậu ta đang trông đợi Will giăng ra một cái bẫy nào đấy, để đạt mục đích nào đấy. Chỉ vì tò mò mà tôi quyết định giúp đỡ cậu ta.
“Biết câu chuyện nào hay hơn không?”, tôi hỏi.
“Một vài chuyện”, cậu ta bảo.
Tôi nghe Natalie bảo rằng mẹ cậu là phù thủy hay gì ấy”, Chase chen ngang.
“Thật hay đùa?”
“Thật.” Tôi nhún vai. “Mẹ tôi xem bói”, tôi quay sang nói với Carmel. “Bà cũng bán nến và các đồ khác trên mạng. Cậu sẽ không tin nổi món đó kiếm được bao nhiêu tiền đâu.”
“Hay thật”, Carmel cười. “Có lẽ lúc nào đấy bác có thể xem cho mình.”
“Chúa ơi”, Mike nói. “Đúng là thứ mà thành phố này cần: thêm một thằng quái chết tiệt. Nếu mẹ cậu mà là phù thủy thì cậu là cái thứ gì? Harry Potter à?”
“Mike”, Carmel nói. “Đừng có xấu tính thế.”
“Mình nghĩ yêu cầu thế là hơi quá cao”, tôi khẽ nói nhưng Mike lờ tịt tôi đi và hỏi Carmel sao cô ấy lại quẩn quanh một kẻ quái gở như tôi. Tôi thấy được tâng bốc. Carmel bắt đầu tỏ ra lo lắng, cứ như cô ấy nghĩ Mike sắp mất bình tĩnh và sẽ đấm tôi ngã qua hàng rào gỗ, rơi xuống dòng nước nông dưới kia.
Tôi liếc qua gờ đá. Trong bóng tối tôi không thực sự ước lượng được nó sâu bao nhiêu, nhưng tôi không nghĩ nó đủ sâu để đỡ một cú ngã như thế, và có thể tôi sẽ bị gãy cổ vì đập vào đá hay tương tự. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và tự chủ, đút hai tay vào túi quần. Đồng thời, tôi hy vọng vẻ ngoài dửng dưng của tôi sẽ làm Mike cáu tiết, bởi vì lời cậu ta nhận xét về mẹ tôi và về tôi là một thằng bé phù thủy ẽo ợt đã làm tôi tức điên. Nếu cậu ta đẩy tôi khỏi mép đá ngay lúc này, có thể tôi sẽ biến thành một con ma ám dùng đá ướt rượt ở đây và săn lùng cậu ta, không chịu ngừng nghỉ cho đến khi nhai được tim cậu ta.
“Mike, thôi nào”, Will nói. “Nếu cậu ta thích nghe chuyện ma thì kể cho cậu ta nghe. Kể chuyện khiến bọn học sinh lớp Mười thức suốt đêm ấy.”
“Thế nào cơ?”, tôi hỏi. Tóc tôi bắt đầu dựng đứng lên ở gáy.
“Anna Konov. Anna Đẫm Máu.”
Tên cô ta di chuyển trong bóng tối như một vũ công. Nghe nó từ giọng người khác, ngoài giọng nói trong đầu óc tôi khiến tôi rùng mình.
“Anna Đẫm Máu? Cứ như Cinderella Váy Vàng ấy nhỉ?” Tôi đùa cợt, bởi việc đó sẽ làm họ cáu. Họ sẽ cố gắng hơn nữa để làm cô ta có vẻ kinh khủng, đáng sợ, chính xác như tôi muốn. Nhưng Will nhìn tôi kỳ lạ, cứ như cậu ta đang tự hỏi sao tôi lại biết bài hát thiếu nhi ấy vậy.
“Anna Konov chết năm mười sáu tuổi”, một lát sau cậu ta kể. “Cổ cô ta bị cắt từ tai này sang tai bên kia. Cô ta đang trên đường tới buổi khiêu vũ ở trường khi bị hại. Họ tìm được thi thể cô ta ngày hôm sau, bám đầy ruồi nhặng, và chiếc váy trắng thì đẫm máu.”
“Họ nói đó là do bạn trai của cô ta đúng không nhỉ?”, Chase đế vào theo kiểu khán giả hoàn hảo.
“Họ nghĩ có khả năng đó”, Will nhún vai. “Bởi vì vài tháng sau khi chuyện xảy ra thì anh ta rời khỏi thị trấn. Nhưng tất cả mọi người đều gặp anh ta ở buổi khiêu vũ tối hôm ấy. Hỏi han về Anna, tưởng rằng cô ta cho mình leo cây.”
“Nhưng chuyện cô ta chết như thế nào hay ai giết cô ta không quan trọng.
Quan trọng là cô ta không chịu ở yên dưới mồ. Khoảng một năm sau ngày được tìm thấy, cô ta xuất hiện trở lại trong nhà cũ. Biết không, họ đã rao bán ngôi nhà sau khi mẹ của Anna bị trụy tim sáu tháng trước đó. Một người ngư dân và gia đình ông ta mua nhà rồi chuyển vào. Anna giết sạch. Xé toạc chân tay mọi người. Cô ta để lại đầu và tứ chi họ thành đống dưới chân cầu thang còn cơ thể thì bị treo trong hầm.
Tôi nhìn quanh những khuôn mặt xanh xao trong đám đông nhỏ vừa tụ lại.
Một vài người tỏ vẻ khó chịu, bao gồm cả Carmel. Hầu hết đều tỏ ra tò mò, chờ phản ứng của tôi.
Tôi thở nhanh hơn, nhưng đảm bảo là mình vẫn mang giọng nghi ngờ khi hỏi, “Làm sao cậu biết đó không phải là do một gã lang thang nào làm? Một tên bệnh hoạn nào đó vô tình đột nhập vào nhà trong lúc người ngư dân đi vắng?”.
“Vì cách cảnh sát che giấu chuyện này. Họ không bao giờ bắt ai. Thậm chí còn không điều tra. Họ chỉ phong tỏa ngôi nhà và giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Việc ấy dễ hơn họ nghĩ. Mọi người thực sự rất sẵn lòng quên đi những chuyện như thế.”
Tôi gật đầu. Đó là sự thật.
“Ngoài chuyện đó còn tin nhắn viết bằng máu trên khắp các mặt tường nữa.
Anna taloni. Nhà của Anna.”
Mike cười toe. “Hơn nữa, không con người nào có thể xé toạc cơ thể người như thế được. Người ngư dân nặng tới hơn một trăm cân. Cô ta đã xé hai tay và đầu ông ta. Cậu phải có thân hình như The Rock(3) phê cỏ và có một mũi adrenaline chọc thẳng vào tim thì mới có thể vặn ngược cổ của một người nặng một trăm mười ba cân như thế được.”
Tôi khịt mũi, và Đội quân Trojan cười phá lên.
“Cậu ta không chịu tin”, Chase rên.
“Cậu ta sợ đấy thôi”, Mike nói.
“Im đi,” Carmel quát và cầm cánh tay tôi. “Đừng chú ý đến bọn họ. Bọn họ chỉ muốn trêu chọc cậu kể từ lúc thấy chúng mình đánh bạn với nhau. Thật lố bịch. Toàn là chuyện vớ vẩn của tụi học sinh, kiểu như nói ‘Mary Đẫm Máu’
trước gương trong tiệc đồ ngủ ấy.”
Tôi rất muốn nói với Carmel rằng đây không phải chuyện đùa, nhưng không nói gì. Thay vào đó tôi siết tay cô ấy trấn an và quay lại với lũ kia.
“Thế ngôi nhà ở đâu?”
Và tất nhiên, cả bọn nhìn nhau cứ như đó chính xác là điều chúng muốn nghe.
Chú thích:
(1) Nhãn hiệu đồ nhựa để lưu trữ và bảo quản thực phẩm.
(2) Huyền thoạivề người rừng khổng lồ, sống ở vùng tây bắc Bắc Mỹ.
(3) Tên một diễn viên cơ bắp chuyên đóng phim hành động.