Chương XIII
CARMEL không ngừng nói chuyện với tôi trong lúc lcả hai vội vã đi trên đường lái xe xộc xệch của Anna.
Cô ấy hỏi hàng triệu câu còn tôi thì không chú ý tới. Tất cả những gì tôi nghĩ được là Anna là kẻ sát nhân.
Nhưng Anna không phải một con quỷ. Anna giết người, nhưng Anna không muốn làm thế. Em không giống như bất kỳ con ma nào tôi từng gặp phải. Chắc chắn tôi đã nghe nói tới những hồn ma có tri giác, những người dường như biết rằng họ đã chết.
Theo lời Gideon thì họ rất mạnh, nhưng hiếm khi hung dữ. Tôi không biết phải làm gì. Carmel tóm lấy khuỷu tay tôi và tôi phải xoay người lại.
“Sao?”, tôi quát.
“Cậu có muốn kể cho mình biết chính xác cậu đang làm gì ở trong đó không?”
“Không.” Chắc là tôi đã ngủ lâu hơn tôi tưởng - hoặc là thế hoặc tôi đã nói chuyện với Anna lâu hơn tôi tưởng, bởi vì những tia nắng nhỏ đã đang xuyên qua các đám mây thấp ở phía đông. Ánh sáng mặt trời dịu dàng nhưng vẫn có cảm giác quá chói trong mắt tôi. Tôi chợt nghĩ ra một chuyện và chớp mắt nhìn Carmel, lần đầu tiên nhận ra là cô ấy đang thực sự hiện hữu.
“Bạn đã đi theo mình”, tôi nói. “Bạn đang làm gì ở đây?”
Cô ấy giậm chân lúng túng. “Mình không ngủ được. Và mình muốn xem sự thật là thế nào, vì vậy mình tới nhà cậu và thấy cậu rời khỏi đó.”
“Bạn muốn xem cái gì như thế nào cơ?”
Cô ấy nhìn tôi từ bên dưới hàng lông mi, cứ như muốn tôi tự mình hiểu ra để cô ấy không cần phải nói, nhưng tôi ghét chơi trò đó. Sau vài giây dài trong sự im lặng khó chịu của tôi, cô ấy buộc phải nói.
“Mình đã nói chuyện với Thomas. Cậu ấy nói rằng cậu...” Cô ấy lắc đầu như cảm thấy mình hơi ngu vì đã tin chuyện đó. Tôi thì gần như thấy mình ngu vì đã tin Thomas. “Cậu ấy nói cậu chuyên diệt ma. Giống như kiểu thầy trừ tà hay gì đó.”
“Mình không phải thầy trừ tà.”
“Vậy cậu đã làm gì trong đó?”
“Mình nói chuyện với Anna.”
“Nói với cô ta? Cô ta đã giết Mike! Cô ta đã có thể giết cả cậu!”
“Không, cô ấy không thể.” Tôi liếc nhìn lên ngôi nhà.
Tôi cảm thấy kỳ lạ khi nói về em lúc đang ở gần nhà em đến thế. Cảm giác không đúng lắm.
“Cậu nói với cô ta chuyện gì?”, Carmel hỏi.
“Lúc nào bạn cũng tọc mạch thế à?”
“Sao nào, làm như chuyện gì riêng tư lắm?”, cô ấy khịt mũi.
“Có thể là thế”, tôi trả lời. Tôi muốn ra khỏi đây. Tôi muốn trả xe cho mẹ và bảo Carmel đưa tôi tới đánh thức Thomas dậy. Tôi nghĩ tôi sẽ giật phắt cái đệm dưới người nó. Trông nó nảy tưng tưng lúc ngái ngủ trong bộ quần sịp chắc là vui mắt lắm. “Nghe này giờ ra khỏi đây trước đã, được không? Đi theo mình về nhà mình để chúng ta lấy xe bạn tới nhà Thomas. Mình sẽ giải thích mọi chuyện, mình hứa”, tôi nói thêm khi trông thấy vẻ nghi ngờ của Carmel.
“Được rồi”, cô ấy nói.
“Mà Carmel này.”
“Sao?”
“Đừng bao giờ gọi mình là thầy trừ tà nữa được không?”
“Cô ấy mỉm cười và tôi cười lại. Nói luôn cho chắc ăn.”
Cô ấy đi qua tôi để vào xe mình, nhưng tôi đã tóm cánh tay cô lại.
“Bạn chưa kịp nhắc đến vụ lỡ mồm của Thomas cho ai khác đấy chứ?”
Carmel lắc đầu.
“Kể cả Natalie hay Katie?”
“Mình bảo Nat là tối nay mình hẹn với cậu để cho cô ấy nói giúp mình nếu bố mẹ mình gọi tới hỏi. Mình bảo họ là mình ở lại chỗ cô ấy.”
“Bạn bảo Nat chúng mình gặp nhau làm gì cơ?”, tôi hỏi.
Cô ấy nhìn tôi bực bội. Tôi đoán Carmel Jones chỉ bí mật gặp gỡ bọn con trai vào buổi tối vì những lý do lãng mạn. Tôi thọc mạnh bàn tay vào trong tóc.
“Thế mình nên kể gì đấy ở trường à? Kiểu như bọn mình đã âu yếm nhau?”
Tôi nghĩ mình đang chớp mắt nhiều lần quá. Còn vai tôi thì so lại khiến tôi thấy mình thấp đi cả chục phân so với cô ấy. Cô ấy nhìn chằm chằm vào tôi buồn cười.
“Cậu không giỏi làm việc này lắm nhỉ?”
“Chưa được thực tập nhiều lắm, Carmel ạ.”
Cô ấy cười lớn. Chết tiệt, cô ấy thực sự xinh đẹp. Chẳng trách Thomas bung hết cả bí mật của tôi ra. Có khi cô ấy chỉ cần chớp mắt một cái là đã hạ gục anh chàng.
“Đừng lo”, cô ấy nói. “Mình sẽ bịa ra chuyện gì đấy. Mình sẽ kể với tất cả mọi người rằng cậu hôn khá lắm.”
“Đừng làm phúc giúp mình gì cả. Nghe này, chỉ cần đi theo mình về nhà, được không?”
Cô ấy gật đầu và chui vào xe. Khi tôi đã vào xe mình, tôi muốn ấn đầu vào vô lăng đến khi còi vang lên không ngớt.
Tiếng còi ấy sẽ khỏa lấp tiếng hét của tôi. Sao nhiệm vụ lần này lại khó khăn đến thế! Có phải vì Anna không? Hay vì cái gì khác? Tại sao tôi không thể ngăn mọi người xen vào chuyện của mình? Trước đây tôi chưa từng gặp chuyện trắc trở thế này. Họ chấp nhận mọi câu chuyện bịa đặt mà tôi dựng nên, bởi vì sâu thẳm trong tâm hồn họ không muốn biết sự thật.
Giống như Chase và Will vậy. Họ nuốt trọn câu chuyện cổ tích của Thomas khá dễ dàng. Nhưng giờ đã quá muộn. Thomas và Carmel đã vào cuộc. Và cuộc chơi lần này càng nguy hiểm gấp bội phần.
“Thomas có sống cùng mẹ không?”
“Mình nghĩ là không”, Carmel nói. Cha mẹ cậu ấy mất trong một tai nạn ô tô. Một tài xế say xỉn đã vượt làn. Hoặc ít nhất là mọi người ở trường bảo vậy.”
Cô ấy nhún vai. “Mình nghĩ cậu ấy chỉ sống cùng ông nội thôi. Ông già kỳ lạ.”
“Tốt.” Tôi đập cửa. Tôi không quan tâm mình có đánh thức Morfran hay không. Chú chim ó già chua ngoa kia có thể cần đến chút luyện tập. Nhưng sau mười ba cú gõ rất to và chối tai, người ra mở cửa lại là Thomas, đứng trước mặt chúng tôi trong một chiếc áo choàng tắm màu xanh lá rất không hấp dẫn.
“Cas?”, nó thì thầm, giọng khàn đặc. Tôi không thể không cười. Khó mà cáu nó được trong khi trông nó giống hệt một thằng nhóc bốn tuổi to quá cỡ, mái tóc chỉa ra ở một bên đầu trong khi kính mới đeo có một nửa. Khi nó nhận ra Carmel đang đứng cạnh tôi, nó vội vã kiểm tra mặt xem có dính dãi không và cố chải tóc xuống. Không thành công. “Ừ, hai cậu làm gì ở đây?”
“Carmel đi theo tôi đến chỗ Anna”, tôi nói với điệu cười mỉa. “Muốn cho tôi biết tại sao không?” Nó bắt đầu đỏ mặt.
Tôi không biết đó là vì nó cảm thấy có lỗi hay vì Carmel đang nhìn thấy nó trong bộ đồ ngủ. Dù thế nào nó cũng đã bước tránh sang để chúng tôi vào và dẫn chúng tôi đi qua một ngôi nhà mờ tối vào bếp.
Toàn bộ nơi này bốc mùi như tẩu thuốc thảo dược của Morfran. Rồi tôi trông thấy ông, một hình hài to đùng, gù lưng đang rót cà phê. Ông đưa cho tôi một cốc trước khi tôi kịp hỏi. Làu bàu với chúng tôi, ông rời khỏi bếp.
Trong lúc đó, Thomas thôi không đi lăng xăng xung quanh và chỉ đứng nhìn Carmel.
“Cô ta đã cố giết cậu”, nó buột miệng, mắt mở lớn. “Cậu không thể thôi nghĩ đến giây phút những ngón tay cô ta thọc vào bụng mình.”
Carmel chớp mắt. “Làm sao cậu biết?”
“Đáng lẽ cậu không nên làm vậy”, tôi cảnh cáo Thomas.
“Nó khiến mọi người khó chịu. Xâm nhập cõi riêng tư của người ta, cậu biết đấy.”
“Tôi biết”, nó nói. “Tôi không thể làm vậy thường xuyên đâu,” nó nói thêm với Carmel. “Thường chỉ khi nào mọi người có ý nghĩ thật mạnh mẽ hay bạo lực, hoặc nghĩ đi nghĩ lại về cùng một chuyện thôi.” Nó mỉm cười. “Trong truờng hợp của cậu là cả ba.”
“Cậu đọc tâm trí được à?”, cô ấy hỏi với vẻ khó tin.
“Ngồi đi, Carmel”, tôi nói.
“Mình không muốn ngồi”, cô ấy nói. “Mình đã biết được bao điều thú vị về vịnh Thunder trong những ngày này.” Cô khoanh hai tay truớc ngực. “Cậu có thể đọc được tâm trí, có thứ gì đó trong ngôi nhà kia đã giết bạn trai cũ của mình, còn cậu...”
“Giết ma”, tôi nói nốt hộ cô ấy. “Bằng cái này.” Tôi lôi con dao tế ra và đặt nó trên bàn. “Thomas còn kể gì với bạn nữa?”
“Chỉ nói là cha cậu cũng làm việc đó”, cô ấy nói. “Tôi đoán vì thế mà ông chết.”
Tôi lườm Thomas.
“Tôi xin lỗi”, nó nói bất lực.
“Được rồi. Cậu bị lậm nặng. Tôi biết.” Tôi cười mỉa và nó nhìn tôi tuyệt vọng. Cứ như Carmel còn chưa biết rồi ấy.
Cô ấy phải bị mù mới không thấy.
Tôi thở dài. “Giờ thì sao? Mình có thể bảo bạn về nhà và quên hết mọi chuyện đi được không? Có cách nào mình ngăn được. Chúng ta thành lập một nhóm kiểu như...” Trước khi môi tôi kip nói nốt, tôi cúi người tới trước và rên vào hai bàn tay mình. Carmel bắt nhịp trước và cười phá lên.
“Một nhóm thầy trừ tà năng nổ à?”, cô ấy hỏi.
“Mình sẽ là Peter Venkman”, Thomas nói.
“Không ai là ai cả”, tôi quát. “Chúng ta không phải thầy trừ tà. Mình có con dao, mình sẽ giết các hồn ma, và mình không thể lúc nào cũng vấp phải các cậu được. Hơn nữa, rõ ràng mình phải là Peter Venkma(1).”
Tôi nhìn Thomas gay gắt.
“Cậu sẽ là Egon(2).”
“Chờ đã”, Carmel nói. Cậu đâu có quyền quyết định.
“Mike dù sao cũng là bạn mình.”
“Như thế không có nghĩa là bạn được giúp mình. Đây không phải chuyện báo thù.”
“Thế thì nó là gì?”
“Nó là... chuyện ngăn cản cô ấy.”
“A, cậu không đặc biệt làm tốt nhiệm vụ đó. Và từ những gì mình trông thấy thì thậm chí cậu còn không cố gắng.” Carmel đang nhướng cặp lông mày với tôi. Cái nhìn ấy khiến tôi có đôi chút hổ thẹn. Chết tiệt thật, tôi đang đỏ mặt.
“Đây chỉ là trì hoãn”, tôi vuột miệng. “Cô ấy rất khó nhằn, được chưa?
Nhưng mình có kế hoạch rồi.”
“Đúng vậy”, Thomas nói và lao ra biện hộ cho tôi. “Cas đã tính hết cả rồi.
Bọn mình đã lấy đuợc đá từ dưới hồ. Chúng đang được ngâm dưới ánh trăng cho đến khi trăng khuyết.
Chân gà đang trên đường tới đây rồi.”
Nói vế câu thần chú khiến tôi hơi khó chịu vì một lý do nào đó, giống như có điều tôi còn chưa xâu chuỗi được. Một điều tôi đã bỏ qua.
Ai đó đi qua cửa mà không gõ. Tôi gần như không chú ý bởi như thế cũng làm tôi cảm tưởng như mình đã bỏ qua điều gì đó. Sau vài giây khơi gợi tâm trí, tôi liếc lên và trông thấy Will Rosenberg.
Trông cậu ta giống như đã mất ngủ nhiều ngày liền. Hơi thở cậu ta nặng nề và cằm thì đang gục xuống ngực. Tôi tự hỏi có phải cậu ta vừa uống rượu không. Trên quần bò của cậu ta có đất và vệt dầu. Anh chàng tội nghiệp đã bị sốc nặng. Cậu ta nhìn chằm chằm vào con dao tôi đặt trên bàn, vì thế tôi vươn tay ra cầm lấy nó và nhét vào túi quần sau.
“Tôi đã biết cậu có gì đó rất kỳ quái rồi mà”, cậu ta nói.
Sáu mươi phần trăm mùi trong hơi thở cậu ta là bia. “Tất cả chuyện này là vì cậu đúng không? Kể từ khi cậu đến đây đã có chuyện không lành. Mike biết mà.
Đó là lý do cậu ấy không muốn cậu lăng xăng quanh Carmel.”
“Mike chẳng biết gì cả”, tôi bình tĩnh nói. “Chuyện xảy ra với cậu ta là một tai nạn.”
“Giết người thì tai nạn nỗi gì”, Will lẩm bẩm. “Đừng có nói dối tôi nữa. Bất kể cậu đang làm gì, tôi muốn dự phần.”
Tôi rên lên. Không có gì đi theo đúng hướng cả. Morfran trở lại bếp và lờ tịt tất cả chúng tôi, thay vào đó ông nhìn chằm chằm vào cốc cà phê của mình cứ như nó cực kỳ thú vị.
“Vòng tròn đang mở rộng”, là tất cả những gì ông nói, và chuyện mà tôi không thể nghĩ ra chợt trượt đúng vào chỗ của nó.
“Chết tiệt”, tôi nói. Đầu tôi gật ra sau và tôi nhìn lên trần nhà.
“Sao?”, Thomas hỏi. “Có chuyện gì?”
“Câu thần chú”, tôi trả lời. “Vòng tròn. Chúng ta phải vào trong nhà mới thực hiện thần chú được.”
“Thế thì sao?”, Thomas nói. Carmel hiểu ra ngay; mặt cô ấy xìu xuống.
“Carmel đã vào trong nhà đó sáng nay và Anna suýt xơi tái cô ấy. Người duy nhất có thể vào nhà đó an toàn là tôi, và tôi thì lại không phải phù thủy để mà tạo một vòng tròn.”
“Cậu không thể kìm chân cô ta đủ lâu cho chúng tôi làm việc đó à? Một khi vòng tròn đã được tạo ra, chúng ta sẽ được bảo vệ.”
“Không”, Carmel nói. “Không có cách nào đâu. Cậu phải trông thấy cậu ấy sáng nay cơ; cô ta vẩy cậu ấy đi như ruồi muỗi.”
“Cảm ơn”, tôi khịt mũi.
“Đó là sự thật Thomas sẽ không bao giờ làm kịp. Hơn nữa, chẳng phải cậu ấy phải tập trung hay gì đó à?”
Will nhảy tới và kéo tay Carmel. “Cậu vừa nói gì? Cậu đã vào nhà đó à? Cậu bị điên chắc? Mike sẽ giết mình nếu có chuyện xảy ra với cậu!”
Rồi cậu ta nhớ ra là Mike đã chết.
“Chúng ta phải nghĩ ra cách để vẽ vòng tròn và đọc thần chú”, tôi nói ra ý nghĩ của mình. “Cô ấy sẽ không bao giờ kể cho tôi chuyện xảy ra với mình.”
Rốt cuộc Morfran cũng lên tiếng. “Mọi chuyện xảy ra đều có nguyên nhân cả, Theseus Cassio. Cháu còn chưa đến một tuần để suy nghĩ thông suốt.”
Chưa đến một tuần. Chưa đến một tuần. Không thể có chuyện tôi trở thành một tay phù thủy lão luyện trong chưa đầy một tuần, và tôi chắc chắn sẽ không mạnh lên hay đủ khả năng kiềm chế Anna. Tôi cần kế hoạch B. Tôi cần phải gọi cho Gideon.
Chúng tôi đều đang đứng trong lối lái xe sau khi chia tay nhau ở bếp. Hôm nay là một ngày Chủ nhật lười nhác và yên tĩnh, vẫn còn quá sớm, kể cả với những người đi lễ nhà thờ Carmel đi bộ cùng Will ra xe của họ. Cô ấy nói cô ấy sẽ theo cậu ta về nhà và ở lại chơi với cậu ta một lát. Rốt cuộc cô ấy là người thân với cậu ta nhất và không thể tưởng tượng được Chase lại biết an ủi gì nhiều. Tôi nghĩ cô ấy nói đúng. Trước khi ra về, Carmel kéo Thomas sang một bên và thì thầm với cậu ta một lúc. Khi chúng tôi nhìn Carmel cùng Will ra về, tôi hỏi Thomas chuyện lúc nãy là sao.
Nó nhún vai. “Cô ấy chỉ muốn nói rằng cô ấy mừng vì tôi đã kể cho cô ấy nghe chuyện. Và cô ấy hy vọng cậu không giận tới quá mức vì đã tiết lộ, bởi vì cô ấy sẽ giữ bí mật. Cô ấy chỉ muốn giúp.” Rồi nó cứ lải nhải mãi, cố thu hút sự chú ý đến chuyện Carmel đã chạm vào cánh tay nó. Tôi ước gì mình đã không hỏi, bởi vì bây giờ nó không chịu thôi nói chuyện đó.
“Nghe này”, tôi nói. “Tôi mừng vì Carmel đã chú ý tới cậu. Nếu cậu chơi đúng cách, cậu có thể có cơ hội.
Nhưng đừng xâm nhập tâm trí cô ấy nhiều quá.
Cô ấy khá khó chịu với chuyện đó.”
“Tôi và Carmel Jones”, nó đùa, ngay trong lúc đang nhìn đắm đuối theo xe cô ấy. “Một triệu năm nữa thì được. Nhiều khả năng cô ấy sẽ cặp với Will hơn.
Cậu ta thông minh, là người nổi bật trong đám đông, giống cô ấy. Cậu ta không phải người xấu.” Thomas kéo cặp kính lên. Thomas cũng không phải người xấu, và có lẽ ngày nào đó nó sẽ phát hiện ra chuyện đó.
Còn giờ thì tôi chỉ bảo nó đi mặc thêm quần áo.
Lúc nó quay đi và cuốc bộ trên lối lái xe, tôi để ý thấy một thứ. Có một con đường vòng gần ngôi nhà, nơi với điểm cuối của lối lái xe. Đứng ở chỗ chĩa ba là một cái cây nhỏ màu trắng, một cây phong non. Và lủng lẳng trên cành thấp nhất của nó là một chiếc thánh giá đen, mảnh.
“Này,” tôi gọi và chỉ tay vào đó. “Cái gì kia?”
Không phải Thomas trả lời. Morfran khệnh khạng đi ra ngoài hiên trong đôi dép tông và quần ngủ màu xanh, một chiếc áo choàng len được cột chặt quanh cái cái bụng thừa mỡ của ông. Bộ đồ trông hết sức lố bịch vì tương phản với bộ râu kiểu rock & roll rậm rạp và đã được tết lại của ông, nhưng giờ tôi không nghĩ về nó.
“Thánh giá của Papa Legba”, ông nói đơn giản.
“Ông cũng thực hành Voodoo à?”, tôi nói, và ông ừ hử như kiểu xác nhận.
“Cháu cũng thế.”
Ông khụt khịt với cốc cà phê của mình. “Không đâu. Và cháu cũng không nên.”
Đúng là tôi chỉ phịa. Tôi không thực hành. Tôi học về nó. “Và đây là cơ hội ngàn vàng sao cháu lại không nên?”, tôi hỏi.
“Con trai, Voodoo là chuyện về năng lượng. Năng lượng bên trong cháu và năng lượng mà cháu điều khiển. Năng lượng cháu ăn cắp được và năng lượng cháu lấy từ bữa tối có món gà chết tiệt. Và cháu có khoảng mười ngàn volt năng lượng nhét trong người, tồn tại trong cái mẩu da ở kia.”
Tôi chạm vào con dao tế ở túi quần sau theo bản năng.
“Nếu cháu thực hành Voodoo và điều khiển cái đó thì nhìn vào cháu sẽ giống như nhìn một con thiêu thân lao vào cái bẫy điện.” Ông nheo mắt với tôi.
“Có lẽ ngày nào đó ta có thể dạy cháu.”
“Cháu thích thế”, tôi nói khi Thomas ào ra ngoài hiên trong bộ đồ mới nhưng vẫn còn cộc lệch. Nó lập cập bước xuống. “Chúng mình đi đâu?”, nó hỏi.
“Về lại nhà Anna”, tôi nói. Nó trở nên hơi xanh. “Tôi cần phải tìm hiểu về nghi thức này nếu không một tuần nữa tôi sẽ phải nhìn chằm chằm vào thi thể mất đầu của cậu và các bộ phận phèo phổi của Carmel.” Thomas càng xanh tợn làm tôi phải vỗ vào lưng nó. Tôi liếc lại chỗ Morfran. Ông đang nhìn chúng tôi qua cốc cà phê của mình. Vậy là các thầy phù thủy Voodoo điều khiến năng lượng. Ông là một người thú vị. Và ông đã cho tôi quá nhiều chuyện để nghĩ thay vì đi ngủ.
Trên chuyến xe trở lại, niềm phấn khích từ các sự kiện đêm qua bắt đầu nhạt dần. Mắt tôi có cảm giác khô như giấy ráp, còn đầu thì quay quay, ngay cả khi đã uống trọn cái cốc nước pha sơn mà Morfran gọi là cà phê kia.
Thomas im lặng trên suốt chuyến đi đến nhà Anna. Có lẽ nó vẫn còn nghĩ về cảm giác lúc Carmel đặt tay lên tay nó. Nếu đời có chút công bằng nào thì Carmel sẽ quay lại và nhìn vào mắt nó, thấy ở nó một nô lệ sẵn lòng và phải biết ơn trời đất. Cô ấy sẽ nâng tầm nó lên và nó không còn là một nô lệ nữa, nó sẽ chỉ là Thomas, rồi họ sẽ hạnh phúc vì có nhau.
Nhưng đời không công bằng. Có khi cô ấy sẽ kết thúc bên Will hoặc một gã cơ bắp nào khác, còn Thomas thì âm thầm chịu đựng.
“Tôi không muốn cậu lảng vảng gần ngôi nhà”, tôi nói để nó chú ý trở lại và đảm bảo là nó không lỡ mất chỗ rẽ. “Cậu có thể ở lại xe, hoặc đi theo tôi đến lối lái xe. Nhưng có thể sau sáng nay cô ấy sẽ không ổn định lắm, nên cậu phải tránh khỏi cái hiên.”
“Cậu không cần nhắc lại đến hai lần thế đâu”, nó khụt khịt.
Lúc chúng tôi rẽ vào lối lái xe, nó chọn ở lại trong xe. Tôi tự tìm đường lên một mình. Khi mở cửa trước tôi nhìn xuống chân để đảm bảo là mình bước lên sảnh chứ không chuẩn bị ngã úp mặt vào một đống xác chết.
“Anna?”, tôi gọi. “Anna? Em có sao không?”
“Đó là một câu hỏi ngu xuẩn.”
Em chỉ vừa mới bước ra khỏi một căn phòng trên đỉnh cầu thang. Em đang dựa vào lan can, không phải nữ thân đen tối mà là cô gái.
Tôi chết rồi. Tôi không thể ổn theo nghĩa tốt hơn không ổn được. Đôi mắt em đang trùng xuống. Em cô đơn, cảm thấy tội lỗi và bị trói buộc. Em đang than thân trách phận, và tôi không thể trách em.
“Tôi không định để chuyện tương tụ xảy ra”, tôi nói thành thật và bước một bước lên cầu thang. “Tôi sẽ không đặt em vào tình huống khó xử như thế. Cô ấy đi theo tôi.”
“Cô ta có sao không?”, Anna hỏi bằng thứ giọng cao vút đầy tò mò.
“Cô ấy ổn.”
“Tôi. Tôi nghĩ có thể tôi đã làm cô ta bầm dập. Mà cô ta lại có khuôn mặt xinh xắn như thế.”
Anna đang không nhìn tôi. Em đang nghịch lớp gỗ trên lan can. Em đang cố làm tôi nói ra điều gì đó, nhưng tôi không biết đó là gì.
“Tôi cần em kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với em. Tôi cần em kể cho tôi biết em chết như thếnào.”
“Sao anh lại muốn tôi nhớ lại chuyện đó?”, em khẽ hỏi.
“Bởi vì tôi cần phải hiểu em. Tôi cần biết vì sao em mạnh đến thế.” Tôi đã bắt đầu nói to lên suy nghĩ của mình. “Từ những gì tôi biết, vụ giết hại em không có gì kỳ lạ hay kinh hoàng cả. Thậm chí còn không quá dã man. Nên tôi không thể hiểu nổi tại sao em lại như thế này. Chắc phải có điều gì đó...”
Khi tôi ngừng nói, Anna đang nhìn chằm chằm vào tôi bằng đôi mắt mở to kinh tởm. “Sao nào?”
“Tôi vừa bắt đầu hối hận vì đã không giết anh”, em nói.
Mất một phút não bộ thiếu ngủ của tôi mới hiểu ra, nhưng khi ấy thì tôi thấy mình đúng là đồ khốn nạn.
Tôi đã ở bên quá nhiều người chết. Tôi đã chứng kiến quá nhiều chuyện bệnh hoạn, quái gở đến nỗi nó tuôn ra khỏi miệng tôi như một bài hát thiếu nhi.
“Anh biết được bao nhiêu”, em hỏi, “về chuyện xảy ra với tôi?”
Giọng em nhẹ hơn, gần như dịu lại. Nói về các vụ án mạng, bắn ra các chi tiết là điều mà tôi đã quá quen thuộc. Chỉ có điều lúc này tôi không biết phải làm như thế nào. Khi Anna đứng trước mặt tôi, em sống động hơn lời nói hay những hình ảnh trong sách rất nhiều. Khi cuối cùng cũng thốt được nên lời, tôi nói thật nhanh và dồn dập, cứ như giật một cái băng cá nhân vậy.
“Tôi biết rằng em đã bị giết năm 1958, khi mới mười sáu tuổi. Kẻ nào đó đã cắt cổ em. Em đang trên đường tới một vũ hội của trường.”
Một nụ cười nhẹ nở trên môi em nhưng không giữ được lâu. Tôi đã thực sự muốn đi, em nói khẽ. “Đó sẽ là lần cuối cùng của tôi. Lần đầu và cuối.” Em nhìn xuống chính mình và cầm vạt váy lên. “Đây là bộ váy ấy.”
Với tôi nó chẳng có ý nghĩa gì mấy, chỉ là một chiếc váy trắng với ít ren và ruy băng, nhưng tôi thì biết gì nào? Thứ nhất, tôi nào phải con gái, thứ hai, tôi chẳng biết gì nhiều về năm 1958. Thời ấy có khi đây đã là chiếc váy bá cháy, như mẹ tôi vẫn hay nói.
“Nó cũng không nhiều nhặn gì”, em nói như đang đọc ý nghĩ tôi. “Một trong các khách trọ của chúng tôi hồi ấy là thợ may. Maria. Chị tới từ Tây Ban Nha.
Tôi nghĩ chị xinh đẹp kỳ lạ. Chị đã phải bỏ lại một đứa con gái chỉ nhỏ hơn tôi một chút khi tới đây nên chị rất thích nói chuyện với tôi. Chị đã đo cho tôi và giúp tôi khâu váy. Tôi đã muốn thứ gì đấy sang trọng hơn nhưng vốn không phải là thợ giỏi. Những ngón tay lóng ngóng”, em nói và giơ chúng lên cứ như tôi có thể biết được chúng vụng về ra sao.
“Trông em rất đẹp”, tôi nói, bởi đó là từ đầu tiên nhảy vào cái đầu ngu ngốc, rỗng tuếch của tôi. Tôi cân nhắc đến chuyện dùng con dao tế cắt phăng lưỡi mình đi. Có lẽ đấy không phải điều em muốn nghe, và cách nói sai hết cả.
Giọng tôi chẳng ăn thua. Tôi may mắn nghe không giống giọng ồm ồm của Peter Bradya(3). “Tại sao đó lại là buổi vũ hội cuối của em?”, tôi vội hỏi.
“Tôi sắp bỏ trốn”, em nói. Vẻ bất khuất long lanh trong mắt em y như hồi còn sống và ẩn trong giọng nói của em là ngọn lửa làm tôi thấy buồn lòng. Rồi nó ra đi, và dường như em bối rối. “Tôi không biết mình có làm thế thật không.
Tôi đã muốn làm thế.”
“Tại sao?”
“Tôi muốn bắt đầu cuộc sống của mình”, em giải thích.
“Tôi biết mình sẽ không bao giờ làm được gì nếu ở lại đây. Rồi tôi sẽ phải điều hành nhà trọ này. Và tôi mệt mỏi với việc đấu tranh rồi.”
“Đấu tranh à?”, tôi bước thêm một bước nữa. Một lọn tóc đen rơi khỏi vai em khi em so vai lại để ôm lấy mình. Em nhợt nhạt và nhỏ bé quá. Tôi khó lòng tưởng tượng em chiến đấu với ai được. Dù sao thì cũng không phải bằng nắm đấm.
“Không hẳn là đấu tranh”, em nói. “Nhưng cũng đúng. Với bà ta. Với hắn.
Đó giống như là lẩn trốn, làm cho họ nghĩ tôi yếu đuối hơn, bởi vì họ muốn tôi như thế. Bà ta bảo bố tôi muốn như thế. Một đứa con gái lặng lẽ, vâng lời.
Không phải một con điếm. Không phải một con đĩ.”
Tôi hít một hơi dài. Tôi hỏi ai gọi em như thế, ai nói vậy, nhưng em không còn lắng nghe nữa.
“Hắn là một kẻ nói dối. Một kẻ vô công rỗi nghề. Hắn giả vờ yêu thương mẹ tôi nhưng không phải. Hắn nói hắn sẽ cưới bà ta và khi ấy hắn sẽ có tất cả những thứ còn lại.”
Tôi không biết em đang nói vẽ ai, nhưng tôi đoán được tất cả những thứ còn lại.
“Chính là em”, tôi nói khẽ. “Em mới là người hắn thực sự theo đuổi.”
“Hắn... dồn tôi vào góc, trong bếp, hay ở ngoài, bên cạnh cái giếng. Tôi bị tê liệt. Tôi ghét hắn.”
“Sao em không kể với mẹ?”
“Tôi không thể...” Em ngừng nói rồi lại bắt đầu. “Nhưng tôi không thể để mặc hắn. Tôi phải bỏ đi. Đáng lẽ tôi đã ra đi.”
Khuôn mặt em trống trơn. Thậm chí mắt cũng không hề cử động. Em chỉ đang mấp máy môi và phát ra giọng nói. Phần còn lại trong em đã lẩn đi mất.
Tôi vươn tay lên chạm vào má em, nó lạnh như đá. “Có phải là hắn không?
Có phải hắn chính là kẻ đã sát hại em? Hắn đã đi theo em vào đêm đó và...”
Anna lắc đầu rất nhanh và tránh ra. “Đủ rồi”, em nói bằng giọng cố tỏ ra cứng rắn.
“Anna, tôi phải biết.”
“Sao anh lại phải biết? Chuyện ấy liên quan gì đến anh?” Em đặt một bàn tay lên trán. “Chính tôi còn gần như không nhớ. Mọi chuyện đều mù mịt và vấy máu.” Em lắc đầu thất vọng. “Tôi không thể nói cho anh biết gì hết! Tôi bị giết và mọi thứ tối đen, rồi tôi ở đây. Tôi thành ra thế này, và tôi giết người, giết người, và không thể dừng tay.” Hơi thở em dồn dập. “Bọn họ đã làm gì đó với tôi nhưng tôi không biết là gì. Tôi không biết làm thế nào.”
“Họ à”, tôi tò mò hỏi nhưng câu chuyện không đi xa thêm. Tôi có thể thấy rõ ràng em đang thu mình lại, và trong vòng vài phút nữa, có thể tôi sẽ đứng nguyên đây và cố ôm lấy một cô gái chằng chịt mạch máu đen ngòm cùng một chiếc váy nhỏ máu.
“Có một câu thần chú”, tôi nói. “Một câu thần chú có thể giúp tôi hiểu được.”
Em bình tĩnh lại một chút và nhìn tôi như thể tôi bị điên.
“Thần chú ư?” Một nụ cười khó tin thoát ra. “Tôi sẽ mọc cánh tiên và nhảy qua lửa chắc?”
“Em đang nói cái gì đấy?”
“Phép thuật không có thật. Nó chỉ là chuyện lòng tin và mê tín dị đoan, những câu nguyền rủa trên miệng các bà người Phần Lan của tôi.”
Tôi không thể tin em nghi ngờ sự tồn tại của phép thuật khi mà em đang đứng trước mặt tôi, đã chết và vẫn nói chuyện được. Nhưng tôi không có cơ hội thuyết phục em, bởi một chuyện gì đó bắt đầu xảy ra, một điều gì đó vặn xoắn trong tâm trí em, và em co rúm. Khi em chớp mắt, đôi mắt đã trở nên vô hồn.
“Anna?”
Cánh tay em giơ ra đẩy tôi lùi lại. “Không có gì.”
Tôi nhìn sát hơn. “Không phải là không có gì. Em đã nhớ lại điều gì đó, đúng không? Có chuyện gì? Nói cho tôi biết!”
“Không, tôi... chẳng có gì hết. Tôi không biết.” Em chạm vào thái dương.
“Tôi không biết đó là gì.”
Việc này sẽ không dễ dàng. Nó gần như là bất khả thi nếu tôi không nhận được sự hợp tác của em. Một cảm giác nặng nề, vô vọng lẩn vào tứ chi đã kiệt lực của tôi. Giống như các cơ bắp của tôi bắt đầu teo lại, mà vốn tôi đâu phải loại cơ bắp gì.
“Làm ơn đi, Anna”, tôi nói. “Tôi cần em giúp. Tôi cần em để chúng tôi đọc thần chú. Tôi cần em cho phép người khác vào đây cùng tôi.”
“Không”, em nói. “Không thần chú! Và không một ai khác! Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra rồi đấy. Tôi không thể điều khiển nổi nó.”
“Em có thể điều khiển nó cho tôi. Em cũng có thể điều khiển nó cho họ.”
“Tôi không biết tại sao tôi không cần phải giết anh. Mà nhân tiện, thế còn chưa đủ sao? Sao anh còn đòi tôi thêm những ân huệ khác?”
“Anna, làm ơn đi. Tôi cần ít nhất là Thomas, có thể cả Carmel, cô gái em mới gặp sáng nay.”
Em đang nhìn xuống mũi chân. Em đang buồn, tôi biết là em buồn, nhưng câu nói “chưa đầy một tuần”
ngu ngốc của ông Morfran đang reo vang trong tai tôi, và tôi muốn làm chuyện này cho xong. Tôi không thể để Anna tồn tại thêm một tháng nữa, có thể là để thu thập thêm xác người cho tầng hầm nhà em. Tôi thích nói chuyện với em hay không không quann trọng. Tôi thích em hay không không quan trọng. Việc đã xảy ra với em công bằng hay không cũng không quan trọng.
“Tôi mong anh đi về đi”, em khẽ nói và khi em nhìn lên, tôi thấy Anna gần khóc, em đang nhìn qua vai tôi vào cửa chính, hay có lẽ là nhìn ra cửa sổ.
“Em biết là tôi không thể”, tôi nói, nhắc lại nhũng lời trước đó của em.
“Anh làm tôi muốn những thứ tôi không thể có.”
Trước khi tôi kịp hiểu ra ý em là gì, em đã chìm xuống các bậc cầu thang, mãi sâu dưới tầng hầm nơi em biết là tôi sẽ không đi theo.
Gideon gọi ngay sau khi Thomas thả tôi về nhà.
“Chào buổi sáng Theseus. Xin lỗi vì đánh thức cháu dậy quá sớm vào ngày Chủ nhật thế này.”
“Cháu dậy từ mấy tiếng trước rồi, Gideon. Đang làm việc chăm chỉ lắm rồi.”
Bên kia Đại Tây Dương, ông đang cười mỉa tôi. Khi bước vào trong nhà tôi đã gật đầu chào mẹ, lúc đó mẹ đang đuổi Tybalt xuống cầu thang và rít lên rằng chuột bọ không tốt cho nó.
“Thật đáng tiếc”, Gideon cười khúc khích. “Ta thì đã chờ mãi mới dám gọi cháu, để cho cháu nghỉ ngơi thêm tí chút. Việc chờ đợi mệt mỏi làm sao. Gần bốn giờ chiều ở đây rồi cháu biết đấy. Nhưng ta nghĩ ta đã thiết lập được câu thần chú cơ bản cho cháu.”
“Cháu không biết chuyện đó có ý nghĩa gì nữa không. Cháu cũng đang định gọi cho ông. Có một vấn đề.”
“Loại nào?”
“Loại không ai có thể vào trong ngôi nhà đó, ngoài cháu, mà cháu lại không phải phù thủy.” Tôi kể cho ông một chút về những chuyện đã xảy ra, vì lý do gì đó bỏ ngoài rìa thực tế là tôi thường nói chuyện dông dài với Anna vào nửa đêm.
Đầu dây bên kia tôi nghe tiếng ông tặc lưỡi. Tôi chắc chắn ông đang gãi cằm và lau luôn cả kính.
“Cháu hoàn toàn không thể áp chế cô ta hả?”, cuối cùng ông hỏi.
“Tuyệt đối không. Cô ấy là Bruce Lee, người khổng lồ Hulk, và Neo trong phim Ma trận trộn vào thành một.”
“Được rồi. Cảm ơn cháu vì toàn bộ những tham chiếu liên quan đến văn hóa đại chúng không tài nào hiểu nổi ấy.”
Tôi mỉm cười. Ông biết quá rõ Bruce Lee là ai, ít nhất là thế.
“Nhưng thực tế vẫn là cháu phải thực hiện thần chú đó. Một điều gì đó trong cái chết của cô gái này đã tiêm nhiễm năng lực khủng khiếp cho cô. Đây chỉ là vấn đề tìm hiểu các bí mật thôi. Ta nhớ tới một con ma đã làm cha cháu gặp chút rắc rối hồi năm 1979. Vì lý do nào đó nó có thể giết người mà không bao giờ cần hiện hình. Chỉ sau ba lần cầu hôn và một chuyến đi tới nhà thờ theo giáo phái Satan ở Ý chúng ta mới phát hiện ra rằng thứ duy nhất cho phép nó tồn tại trên mặt đất này chính là câu thần chú được đặt trên một chiếc cốc đá trông khá là bình thường. Cha cháu đã đập vỡ nó và thế là xong, chẳng còn con ma nào.
Với cháu chắc cũng vậy thôi.”
Cha cũng từng kể cho tôi nghe chuyện này một lần. Và tôi nhớ là nó phức tạp hơn ông Gideon nói nhiều.
Nhưng tôi bỏ qua. Dù sao ông cũng nói đúng.
Mọi hồn ma đều có các phương pháp riêng, những mánh khóe riêng của chúng.
Chúng có động cơ và các mong muốn khác nhau. Và khi tôi hạ chúng, mỗi người đều ra đi theo cách riêng.
“Chính xác thì câu thần chú này sẽ làm gì?”, tôi hỏi.
“Các viên đá thiêng tạo một vòng tròn bảo vệ. Sau khi niệm chú, cô ta sẽ không còn năng lực trong vòng ấy. Thầy phù thủy nào thực hiện nghi lễ có thể chiếm các nguồn năng lượng đang ám ngôi nhà và phản ánh chúng vào chiếc bát tiên tri. Chiếc bát sẽ cho cháu, thấy điều cháu tìm kiếm. Tất nhiên nó không chỉ đơn giản như thế, cần phải có một ít chân gà và hỗn hợp thảo dược mà mẹ cháu chuẩn bị được, rồi đọc thần chú nữa. Ta sẽ gửi cho cháu phần lời qua email.”
Nghe ông nói mới dễ làm sao. Ông tưởng tôi đang làm quá lên chắc? Chẳng lẽ ông không hiểu tôi phải vất vả thế nào mới thừa nhận rằng Anna có giết tôi bất kỳ lúc nào em muốn? Quăng tôi đi như một con búp bê vải, đè đầu cưỡi cổ tôi rồi chỉ tay mà cười cợt?
“Không ăn thua đâu ông ơi. Cháu không thể đặt vòng bảo vệ được. Cháu chưa bao giờ có năng khiếu phép thuật. Chắc mẹ cháu phải kể với ông rồi. Cháu đã làm lộn tung món bánh quy Beltane của bà mỗi năm cho đến tận lúc cháu bảy tuổi.”
Tôi biết Gideon sắp nói gì với tôi. Ông sẽ thở dài và khuyên tôi nên quay lại thư viện, bắt đầu nói chuyện với những người có thể đã biết chuyện gì xảy ra.
Cố tìm hiểu một vụ án mạng đã xảy ra từ năm mươi năm trước. Và đó chính là việc tôi sẽ làm. Bởi vì tôi sẽ không đặt Thomas hay Carmel vào vòng nguy hiểm.
“Hừm.”
“Hừm gì ạ?”
“A, ta chỉ đang nghĩ về tất cả những nghi lễ mình đã thực hiện hồi còn nghiên cứu cận tâm lý và thuyết thần bí...”
Tôi có thể nghe rõ tiếng não ông đang hoạt động. Ông đã nghĩ ra điều gì đó, và tôi bắt đầu thấy hy vọng.
Tôi biết ông không chỉ là món xúc xích với khoai tây nghiền mà(4).
“Cháu đã bảo mình có sẵn vài tay lão luyện phải không nhỉ?”
“Tay gì cơ ạ?”
“Phù thủy ấy.”
“Thực ra cháu chỉ quen có mỗi một phù thủy thôi. Bạn cháu Thomas.”
Ở đầu dây phía Gideon tôi nghe mộ tiếng hít vào, tiếp sau đó là sự im lặng dễ chịu. Tôi biết cái bánh nướng cũ ấy đang nghĩ gì. Ông chưa bao giờ nghe thấy tôi dùng từ “bạn cháu” trước đây. Tốt hơn ông đừng có mà tỏ ra xúc động.
“Cậu ta không giỏi đến thế đâu ạ.”
“Chỉ cần cháu tin cậy cậu ta là được rồi. Nhưng cháu sẽ cần nhiều hơn một người. Cháu cộng với hai người nữa. Mỗi người phải đại diện cho một góc của đường tròn. Cháu sẽ đặt vòng tròn ở bên ngoài, cháu biết không, rồi di chuyển vào trong nhà, sẵn sàng hành động.” Ông ngừng nói để suy nghĩ thêm một lát.
Ông có vẻ rất hài lòng với mình. “Nhốt con ma của cháu vào giữa là cháu sẽ tuyệt đối an toàn. Bòn rút nguồn năng lượng của cô ta cũng sẽ làm câu thần chú mạnh hơn và nhiều quyền năng hơn. Có khi còn làm cô ta suy yếu đến mức cháu có thể kết thúc công việc.”
Tôi nuốt mạnh và cảm nhận sức nặng của con dao trong túi quần mình.
“Chắc chắn rồi”, tôi nói. Tôi nghe thêm mười phút nữa trong lúc ông thao thao bất tuyệt vẽ các chi tiết cụ thể, toàn bộ thời gian ấy thì chỉ nghĩ về Anna và những điều em sẽ cho tôi thấy. Đến đoạn cuối tôi nghĩ là mình nhớ được hầu hết những điều cần phải nhớ, nhưng vẫn yêu cầu ông gửi email một bản chỉ dẫn từ đầu đến cuối.
“Giờ cháu sẽ dùng ai để can thiện vòng tròn? Những người có liên hệ với con ma là tốt nhất.”
“Cháu sẽ gọi một cậu tên là Will, và bạn cháu Carmel”, tôi nói. “Và đừng có nói gì hết. Cháu biết cháu đang gặp rắc rối với việc ngăn mọi người đừng can thiệp vào chuyện của cháu.”
Gideon thở dài. “A, Theseus. Việc này không bao giờ có nghĩa là cháu luôn phải đơn độc. Cha cháu có rất nhiều bạn bè, và còn có mẹ cháu với cháu nữa.
Thời gian trôi đi, vòng tròn bạn bè của cháu sẽ càng rộng hơn. Đó không phải là chuyện đáng xấu hổ.”
“Vòng tròn càng rộng hơn. Sao tất cả mọi người cứ nói như vậy mãi thế”.
Vòng tròn rộng hơn tức là càng có nhiều người vướng chân. Tôi phải rời khỏi vịnh Thunder thôi.
Tránh xa đống rắc rối này và trở lại với lịch trình hàng ngày của mình là di chuyển, săn mồi và tiêu diệt.
Di chuyển, săn mồi, tiêu diệt. Giống như cho xà phòng, giữ và lặp lại. Đời tôi trải dài trong một lịch trình đơn giản. Nó vừa có cảm giác trống rỗng lại vừa nặng nề. Tôi nghĩ về những điều Anna đã nói, về chuyện muốn những thứ mà em không thể có. Chắc là tôi hiểu được ý em.
Gideon vẫn đang nói.
“Hãy cho ta biết nếu cháu cần thêm bất kỳ điều gì”, ông nói. “Dù cho ta chỉ là những cuốn sách bụi bặm và những câu chuyện cũ cách cháu cả một đại dương. Công việc thực sự là ở chỗ cháu cơ.”
“Vâng. Cháu và các bạn cháu.”
“Tuyệt vời. Cháu sẽ giống y như bốn anh chàng trong phim ấy. Cháu biết phim gì rồi, cái phim có loại kẹo dẻo quá cỡ ấy.”
Ông nói đùa chắc!
Chú thích:
(1) Nhân vật tiến sĩ cận tâm lý học trong bộ phim Ghostbusters (Đội trừ ma).
(2) Nhân vật trong phim Ghostbuslers.
(3) Một nhân vật trong series phim The Bra Brunch nổi tiếng hồi thập niên 70.
(4) Nguyên văn: “bangers and mash” - tên một món ăn phổ biến ở Anh.