- 4 - -THI ĐỖ . LÀM QUAN
Đến khoa thi Hương. Như Hổ đi thi, đỗ ngay Hương Cống. Rồi niên hiệu Quãng – Hòa năm Tân Sửu (1541) đời vua Mạc Phúc Hải, Như Hổ lên kinh đô Thăng long thi hội, đỗ Tiến sĩ.
Khi về vinh qui, hàng tổng hàng huyện dân chúng vác cờ lọng chiêng trống đi đón rước rất long trọng. Áo gấm ngựa hồng, trở về làng cũ đã bỏ công cực nhọc của mẹ hiền và bỏ lúc đói no khổ cực của mình để kiên nhẫn học tập trau dồi để lập thân trong cảnh cùng khốn.
Sau đó, tiếng tăm ông Hổ đồn dậy gần xa, triều đình vời ông về kinh phong chức Tả Thị Lang. Rồi cử ông cầm đầu một sứ bộ sang Tàu. Trong số nhân viên phái đoàn, có Tạ Thành Đạt, do ông đề cử.
SỨ VIỆT ĐẢO VŨ THÀNH CÔNG,
DÂN TÀU VÀ SỨ THẦN CÁC NƯỚC CẢM PHỤC NHƯ MỘT VỊ THẦN SỐNG.
Lúc bấy giờ nước Tàu do nhà Minh trị vì. Kinh đô đóng ở Bắc Kinh. Ông Như Hổ và phái đoàn ngoại giao Việt Nam sang đến nơi, người Tàu thết đãi long trọng. Thấy ông Hổ ăn khỏe lạ thường họ đều cho là một dị nhân của nước Việt.
Gặp khi nước Tàu đại hạn, trời nắng ba bốn tháng không mưa, lúa má khô héo. Vua Tàu sai quan đại thần đến các đền miếu linh thiêng làm lễ cầu mưa. Nhưng chẳng thấy công hiệu gì. Vua Tàu lại truyền tha những tội nhân bị giam trong các ngục mà bị oan khúc hay án không được rõ lắm, và giảm bớt sự ăn uống xa hoa trong cung điện, lại rời nơi cung điện sang trọng đến ở một nơi tầm thường. Đó là những hành động mà vua chúa Á – Đông thường làm khi bị ‘‘Trời ra tai’’. Những khi trong nước bị nạn lụt lội, nạn nắng hạn, hay nạn sâu bọ cắn lúa, người ta cho đó là Trời giận nhà vua có điều chi thất đức, nên mới gieo những tai ách ấy. Thế rồi muốn giải trừ những tai ách ấy, nhà vua phải làm lễ cầu đảo, lại còn phải sợ hãi tu tỉnh, sửa sai và tự sám hối, tự trừng phạt mình, để mong Trời tha tội lỗi, để cho thần dân được an cư lạc nghiệp, gió thuận mưa hòa, sống đời thạnh trị.
Nhưng vua Tàu đã làm đủ cách mà trời nắng hạn vẫn càng nung nấu, đốt héo khô cả cây cỏ đồng ruộng. Vua lo buồn, nhân có sứ các nước ở Kinh, bèn nhờ các sứ thần của các nước đi phó hội ở Tàu, đứng ra đảo vũ giùm.
Các sứ thần mấy nước như Nhật, Hàn, Miên, Miến, Lào, Xiêm lần lượt lên đài đảo vũ. Nhưng trời vẫn nắng gắt.
Đến phiên sứ thần Việt -Nam là Lê Như Hổ đảo võ. Như Hổ đã để ý xem xét thời tiết, biết trời chưa có thể mưa được. Ông nghĩ thầm:
- ‘‘ Trời thế này mà cứ cầu mưa thì mưa sao được. Chẳng qua lễ bái chỉ phiền phức và hao phí vô ích lễ mễ mà thôi’’.
Tuy vậy, ông cũng không dám ngăn cản việc làm cầu may vô vọng của vua Tàu. Trong lúc các sứ thần khác làm lễ đảo vũ, thì ông Hổ vờ cáo bệnh xin để nhường cho các sứ thần làm lễ trước. Quả nhiên lễ ấy làm xong, trời vẫn chưa mưa một giọt nào. Nông dân vẫn khổ về nạn nắng hạn.
Sau đó, ông Hổ xem thấy khí trời có vẻ đổi thay, ông đi thăm dò những rễ cây si và cỏ gà, thì thấy hai thứ ấy đã ẩn dạng những điểm trắng ở trong. Đó là cách chiêm nghiệm của người Việt, hễ khi nào thấy rễ si và cỏ gà mọc trắng cả ra, ấy là trời sắp mưa lớn. Người bình dân ở đồng quê không cần thiết về thiên văn rắc rối cao xa đối với trình độ họ, mà họ chỉ kinh nghiệm và căn cứ ở hiện tượng thời tiết ảnh hưởng với cỏ cây mà thôi, nên họ thường có câu:
Chuồn chuồn bay cao thì nắng,
Cỏ gà trổ trắng thì mưa.
Vì thế, ông Như Hổ thấy cỏ gà và rễ si trổ trắng thì đoán biết trời sắp mưa, ông nghĩ thầm:
- ‘‘Người Tàu họ bảo ta là dị nhân của nước Việt. Nhưng đó mới là dị nhân về cái ăn khỏe. Nay nhân có dịp, mình phải làm cho họ biết cái tài cầu mưa của mình, khiến cho họ và các sứ thần các nước phải khâm phục nước ta, cũng là một cách làm rực rỡ tiếng tăm, không uổng công đem chuông đi đánh ở nước ngoài, tức là quốc thể của nước mình được họ tôn trọng vậy.
Ông bèn tâu với vua Tàu rằng ông có thuật hô phong hoán vũ, nay nhân thấy cảnh nông dân nước Tàu rất khổ về nạn hạn hán, nên Ông sẵn lòng đem thuật ấy mà khiến cho mưa xuống để cứu mùa màng cho dân Tàu.
Vua Tàu nghe nói mừng lắm. Cả triều đình đón rước ông như một vị vĩ nhân và cầu khẩn ông đem tài tuyệt diệu ấy mà giúp cho nhân dân thoát khổ.
Ông Như Hổ bèn xin cho cất một cái đài cao ở phía nam Kinh thành. Đài cất cao ba từng, mỗi từng, ba thước bề cao, cộng là 9 thước. Từng dưới vuông, mỗi bề bốn mươi trượng, từng giữa vuông mỗi bề mười hai trượng. Từng trên tròn, đường kính sáu trượng. Vì dung nhiều quân dân làm việc cấp tốc nên nội trong một ngày là xong cái đài cao.
Sáng hôm sau, ông Hổ lên đài đảo vũ. Ông sai lấy hơn trăm quân cầm cờ trước đàn nghe hiệu lệnh! Từng dưới cắm hai mươi tám cây cờ, tượng trưng cho thập nhị bát tú. Ở phương đông bảy lá cờ trắng, phương nam bảy lá cở đỏ. Từng thứ hai, chung quanh đàn cắm sáu mươi bốn lá cờ vàng chiếu theo sáu mươi bốn quẻ. Trên chót đàn thì bày lễ vật cúng, có bốn người mặc áo rộng đứng bốn góc đàn. Dưới đàn có hai mươi bốn người đứng cầm cờ, quạt, lọng, tán, giáo gươm, bao vây bốn mặt.
Trước khi lên đàn, Như Hổ tắm gội, ăn chay tỏ ra hết sức cung kính trọng hệ. Mình ông mặc áo đạo bào, đầu buông xõa tóc, trịnh trọng bước lên đàn. Sau lúc đã ngắm một lượt các phương hướng, ông ra lịnh cho các tướng sĩ hộ đàn, ai đứng đâu phải đứng nguyên chỗ ấy, không được làm sai phương vị, cũng không nói chuyện thì thào với nhau.
Như Hổ đốt hương trầm lên, rót nước ra chén, rồi ngửa mặt lên trời lầm thầm khấn vái. Sau một lúc, ông bước xuống đàn nghỉ và cho các tướng sĩ thay phiên nhau để ăn cơm. Trong ngày đó, Như Hổ lên đàn khấn cầu rồi xuống đàn nghỉ ngơi, như thế ba lần, và đàn cúng ba ngày như thế mới xong. Ông hẹn nội trong ba ngày ấy, tất nhiên phải có hiệu nghiệm.
Đàn cúng qua ngày thứ hai thì bỗng thấy chân trời phía đông có mấy vầng mây đen kéo lên. Những đám mây đó cứ nở lớn lần ra, làm cho cả một phía trời đông đen kịt. Vua Tàu và tất cả thần dân thiên hạ đều lấy làm lạ, mừng rỡ vô cùng.
Đến tối hôm ấy chợt có một cơn dông ào ào thổi tới làm cho đèn đuốc trên đàn đều tắt, cờ quạt lọng tàn bị bay ngã. Lúc ấy ông Như Hổ đương quì cầu đảo trên đàn, mặc dầu giông gió sấm, chớp, ông vẫn quì nghiêm trang khấn vái, không chịu đứng lên.
Chỉ trong chốc lát, một trận mưa rất lớn đổ xuống ầm ầm át cả tiếng hò reo vui sướng và khen ngợi vang kinh thành, lan ra khắp nơi đồng quê rẫy bái.
Người ta bao quanh đàn đứng xem, lúc bấy giờ mới chạy tránh mưa. Ông Như Hổ cũng xuống đàn trong lúc mưa tuôn ướt cả đầu cổ áo quần. Rồi ông truyền giải tán các quan quân có phận sự hộ đàn. Còn ông thì lui về sứ quán nghỉ ngơi.
Trận mưa ấy kéo dài đến sáng hôm sau mới ngớt. Đồng ruộng bốn phương đều tràn đầy nước. Vua quan và trăm họ dân chúng đều mừng rỡ reo cười thật là sung sướng.
Trời vừa ngớt mưa, vua Tàu liền sai quan Khâm mạng dẫn lính, đem kiệu đến sứ quán Việt-Nam, đón rước sứ giả Lê Như Hổ vào triều. Dọc đường nhân dân thành Bắc Kinh kéo ra reo mừng và ngợi khen, đầy đường lấp lối.
Vào đến trước lầu Ngũ phụng, đã thấy mấy vị lão thần phụng mệnh vua ra tiếp rước. Ông Như Hổ xuống kiệu cùng các quan đi vào triều kiến nhà vua. Vua Tàu đương đứng trên thềm rồng chờ đợi, ông Như Hổ theo nghi lễ quì xuống như các quan Tàu. Nhưng vua miễn lễ, mời ông Hở ngồi. Trước hết vua ban cho ông Hổ một ly rượu ngự rồi nói rằng:
-Khanh thật là một vị phúc tinh của thiên hạ Trung Hoa. Nếu không nhờ khanh có tài có đức đứng ra đảo vũ thì làm gì có trận mưa cải tử hoàn sanh cho thần dân của trẫm hôm nay.
Lê Như Hổ khiêm tốn:
-Đó cũng là ý trời thương, cứu muôn dân và cảm tấm lòng thành của bệ hạ, chớ chúng tôi có tài đức chi đâu.
Vua Tàu nói:
- Khanh không nên khiêm nhượng quá thế. Nắng đã lâu, được một đám mưa hôm qua, chẳng phải là công ơn của Khanh đem đến cho đất nước nầy thì còn là ai nữa? Cho hay, mới biết nước Nam có lắm nhân tài, làm cho Trung quốc phải nể vì, trẫm lấy làm khâm phục, và cảm ơn Khanh vô cùng.
Rồi vua Tàu truyền đặt tiệc lớn thết đãi phái đoàn ngoại giao của nước Nam. Tất cả ngoại giao đoàn các nước và vua quan trong bữa tiệc, đều tôn trọng ông Như Hổ và phái đoàn Việt Nam là một bực khách quí. Nhà vua lại ban rất nhiều châu ngọc gấm vóc.
Từ đó, vua Tàu hàng ngày mời ông Như Hổ vào điện hỏi han về cách trị dân, thờ trời, làm sao được bốn biển yên vui, mưa thuận gió hòa, dân no ấm, nước phú cường, và hỏi về phong tục, văn hóa nước Việt. Ông Hổ đối đáp đâu đó phân minh thông thái, lại càng làm cho vua Tàu thêm kính phục.
Sau đó mấy hôm, ông xin về nước. Triều đình vua quan đều luuè luyến, lấy làm tiếc ông không ở lại được lâu.
Trên đường về nước, ông Hổ và phái bộ Việt Nam được vua quan và dân chúng kéo nhau đi tiễn chật đường. Đi qua các châu quận, quan địa phương và dân chúng cũng dâng lễ vật tống tiễn rất trọng hậu.
Về đến Việt Nam, vua ta và triều thần cũng bầy lễ rước đón rất trọng hậu vì trong nước đã được biết ông Hổ sang Tàu làm vẻ vang cho quốc thể. Vua khen ngợi hết lời, và phong cho ông chức Thượng thơ Xuân giang hầu. sau ông thăng lên Thiếu Bảo tước Tuấn quận công. Rồi về trí sĩ, thọ 70 tuổi mới mất.
Hiện nay ở làng Tiên Châu là quê hương cũ thuộc huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, có đền thờ ông Lê như Hổ. Trong đền có đôi câu đối:
Lương tự kiêm nhân, Mộ Trạch tiên sinh đương thoái xá,
Thuật năng trí vũ, Bắc triều thiên tử cứu tri danh.
Nghĩa là:
Sức ăn gấp mấy người ta, thầy nho Mộ Trạch cũng phải nhường bước.
Thuật lạ làm ra mưa được, thiên tử Bắc triều từng biết tiếng tăm.
HẾT